Đề tài Thiết kế chế tạo sa bàn thực tập đấu dây động cơ không đồng bộ 3 pha

Cuộn dây trong động cơ điện xoay chiều có thể là cuộn dây ROTO hoặc cuộn dây STATO.Cuộn dây STATO còn được chia ra làm nhiều loại: Cuộn dây pha, cuộn dây làm việc, cuộn dây khởi động, cuộn dây số.

- Cuộn dây pha được sử dụng trong động cơ điện xoay chiều ba pha, mỗi pha có 1 cuộn dây đó là cuộn dây pha A, Pha B, Pha C.

- Mỗi cuộn dây được chia ra làm 2 đầu dây. Theo chiều lồng dây, người ta gọi đầu lồng vào trước là đầu đầu pha, đầu lồng vào sau gọi là đầu cuối pha.

- Cuộn dây làm việc, cuộn dây khởi động và cuộn dây số được sử dụng trong động cơ điện xoay chiều một pha, mỗi cuộn dây cũng được đưa ra 2 đầu(đầu đầu và đầu cuối). Thông thường mỗi cuộn dây dược lồng vào lõi thép STATO theo 1 lớp chu vi hình tròn, cuộn dây làm việc được lồng vào trước rồi đến cuộn dây số(nếu có), cuối cùng là cuộn dây khởi động. Cuộn dây làm việc bao giờ cũng có cỡ dây lớn nhất, rồi đến cuộn dây số, cuối cùng là cuộn khởi động.

 

docx94 trang | Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 8163 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thiết kế chế tạo sa bàn thực tập đấu dây động cơ không đồng bộ 3 pha, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập hoặc lồng luồnthay bối dây bị hỏng. Đó là vì thường cuộn dây rôto được tẩm sấy thành kết cấu cứng, khó tháo dỡ và đánh đai rất chắc. 1.3.3.6- Động cơ bị quá nóng không cho phép. A- Quá nóng cuộn dây và lõi thép stato. a- Hiện tượng: Quá nóng đồng đều cả cuộn dâyvà lõi thép stato, hoặc quá nóng cục bộ ở cuộn dây lõi thép stato. b- Nguyên nhân có thể: - Tăng cao dòng điện đồng đều trong cả ba pha hoặc không đồng đều, do: Đứt một trong ba dây dẫn cung cấp điện vào động cơ làm động cơ tiếp chạy hai pha. + Đứt một pha bên trong cuộn dây stato. + Điện áp lưới cao quá định mức. + Điện áp lưới thấp dưới định mức khi động cơ đang làm đầy tải. + Điện áp lưới cung cấp không đối xứng. + Quá tải. + Chập mạch vòng dây trong cuộn dây pha stato. + Đấu ngược đầu một tổ bối dây trong số các tổ bối dây đấu nối tiếp của một pha cuộn stato. + Tăng khe hở không khí giữa rôto và stato quá trị số quy định của nhà chế tạo. + Hư hỏng cách điện các lá tôn của lõi thép stato. - Hệ thống thông gió làm mát xấu: cửa gió bị bịt kín, lắp ngược quạt gió, gẫy cánh gió, nhầm chiều thổi gió, tắc đường thông gió, không đủ tốc độ quay cánh gió (thiếu sót khi sửa đổi tốc độ quay động cơ). c- Cách kiểm tra và sửa chữa: - Bằng vôn kế, ampe kế, ampe cặp kiểm tra xác định được cường độ dòng điện trong các pha, điện áp cung cấp vào động cơ v.v… Từ đó kiểm tra cầu chì, cầu dao, công-tắc-tơ, khởi động từ v.v… để tìm và sửa chữa pha đứt. Trường hợp điện áp lưới cao hoặc thấp quá định mức đều phải đặt lại đúng điện áp. Trường hợp đấu sai hoặc chạm chập vòng dây, ta cần phải nắm chắc công nghệ sửa chữa cuộn dây xoay chiều để biết cách sửa chữa đúng đắn. Tuy nhiên, ở đây sơ bộ có thể xác định được chạm chập vòng dây hay dấu sai bằng ampe kế theo sơ đồ hình 1.8 và hình 1.9. a) b) Hình 1.8. Cách xác định chạm chập vòng dây trong một pha a) Khi đấu sao () b) Khi đấu tam giác () Hình 1.9. Tổ bối trong bốn tổ bối đấu nối tiếp của một pha. Ví dụ có ngắn mạch vòng dây trong pha B (hình 1.8a) khi đấu sao (), thì dòng điện trong pha B (tức là A2) sẽ lớn hơn dòng điện trong hai pha kia. Khi đấu tam giác () hình 1.8b, trong hai pha nối với cuộn dây pha có chạm chập C3 – C6 sẽ có dòng điện A1 và A3 lớn hơn dòng điện ở dây còn lại (A2). Trường hợp đấu sai (đấu ngược) tổ bối dây trong một pha (hình 1.9), thì trị số cường độ dòng điện cũng sẽ chenh lệch giữa các pha như chạm chập ở hình 1.8. - Kiểm tra hệ thống làm mát động cơ bằng kinh nghiệm, kết hợp hiểu rõ cấu tạo và hoạt động của quạt gió làm mát động cơ (quạt ly tâm, quạt hướng trục, quạt gió trong, quạt gió ngoài, lỗ thông gió hướng trục, rãnh thông gió hướng kính, cánh tản nhiệt v.v…). - Giảm tải cơ nếu quá tải: tăng cường bôi trơn truyền động bánh răng, hiệu chỉnh curoa, giảm lực kéo hoặc mômen quay của máy sản xuất. B- Quá nóng rôto dây quấn. a- Hiện tượng: Quá nóng đồng đều cả cuộn dây rôto, động cơ bị giảm tốc độ quay; khi khởi động có tải, động cơ không có đà tốc độ và không đạt được tốc độ quay định mức, rôto nóng nhanh. b- Nguyên nhân: - Dòng điện trong các pha rôto dây quấn tăng cao quá trị số định mức, có thể là do: + Điện áp lưới cung cấp thấp dưới định mức mà động cơ làm việc đầy tải. + Quá tải. + Đoản mạch trong cuộn dây rôto. - Nhả mối hàn. c- Cách kiểm tra và sửa chữa: - Giảm tải cơ. - Kiểm tra chạm chập trong cuộn dây rôto. - Kiểm tra sửa chữa các mối hàn, vành trượt, giá chổi than, điện trở mở máy… Tóm lại, nguyên nhân cơ bản làm cuộn dây stato và rôto quá nóng tới nhiệt độ không cho phép thường là do: - Quá tải. - Điện áp cung cấp sai lệch khỏi trị số định mức. - Điều kiện làm mát xấu. Động cơ bị quá nóng gây tác hại chủ yếu đến vật liệu cách điện, làm giảm tuổi thọ làm việc của động cơ. Do vậy, để đảm bảo độ bền nhiệt của vật liệu cách điện trong quá trình phát nóng của động cơ, người ta quy định độ tăng nhiệt giới hạn của các bộ phận trong động cơ điện không đồng bộ theo cấp vật liậu cách điện sử dụng trong động cơ như ở bảng 1.1. Bảng 1.1. Tên các bộ phận của động cơ Cấp vật liệu cách điện A B C Độ tăng nhiệt độ giới hạn ứng với phương pháp đo Đo điện trở Đo nhiệt kế Đo điện trở Đo nhiệt kế Đo điện trở Đo nhiệt kế Cuộn dây điện xoay chiều của động cơ có công suất bé hơn 5000 KVA hoặc chiều dài lõi ngắn hơn 1m. Cuộn dây rôto, lõi thép và các phần tiếp xúc với cuộn dây. 60 65 _ 50 65 60 75 80 _ 65 80 70 80 90 _ 70 90 80 1.3.3.7. Động cơ có tiếng kêu không bình thường Động cơ điện cũng như một thiết bị điện tử khác, khi làm việc với dòng điện xoay chiều bao giờ cũng có tiếng kêu “Từ” âm thấp. Đó là do trong quá trình từ hoá bằng điện xoay chiều, lõi thép stato và Rôto ghép bằng các lá thép kĩ thuật điện (Tôn silic) bị ép chặt và nới lỏng một cách chưa kĩ, gây chấn động lõi thép, đặc biệt là ở phần răng. a- Hiện tượng: -Động cơ điện làm việc có tiếng kêu khác thường như tiếng rú, tiếng huýt gió, tiếng cọ sát cơ khí, tiếng ghìm âm, tiếng trầm to v.v… b- Nguyên nhân: - Nguyên nhân về phần điện từ: + Lõi thép ép lỏng quá hoặc các lá tôn miệng răng bị toè đầu. + Khe hở giữa rôto và stato không đồng đều khi các cuộn dây pha stato có mạch nhánh song song. - Nguyên nhân về cơ thường do: + Động cơ bị chấn động quá + Hỏng ở các ổ đĩa + Ghép không chặt các lá tôn thành lõi Stato và Rôto (trường hợp động cơ có rãnh gió hướng kính). + Nêm rãnh bị hỏng, cách điện nhô lên khổi miệng rãnh ... c. Cách kiểm tra phát hiện và sửa chữa. *Tiếng kêu âm trầm to quá mức: Kiểm tra gu- gông, đai ốc, đinh tán, thép gông, mối hàn... xem các lõi tôn có được ép chặt không. Kiểm tra cách điện, nêm rãnh, bối dây xem có hiện tượng lỏng không, kiểm tra xem động cơ có bị chấn động quá mức không, xiết chặt các bu lông chân đế động cơ, các mối lắp ghép ... *Tiếng kêu cao: Kiểm tra cường độ dòng điện ba pha thấy cân bằng và không quá trị số định mức, động cơ vẫn làm việc bình thường. Như vậy, có thể xác định được là do dung động phần răng của lõi tôn Stato và Rôto dưới ảnh hưởng của từ trường sóng hài bậc cao. Kiểm tra ép chặt phần răng các lá thép tạo thành lõi tôn Stato và rôto, đồng thời kiểm tra xem quan hệ giữa số rãnh stato có phù hợp không? Đôi khi tiếng kêu âm cao còn kèm theo cả chấn động động cơ thường là do hư hỏng ổ lăn hoặc ổ lăn khô mỡ. Kiểm tra ổ lăn và thay thế ổ mới sẽ khử được hiện tượng này. Hiện tượng này thường làm quá nóng cục bộ. Ngoài ra, tiếng kêu âm cao dạng hút gió có thể là do đường thông gió thay đổi đột ngột ở động cơ có tốc độ cao và có quạt gió ngoài ... *Tiếng kêu âm lượng quá lớn. Thường là do có chạm chập vòng dây trong cuộn dây stato hoặc đấu ngược một tổ bối dây trong cuộn dây stato hoặc đấu ngược một tổ bối dây trong một pha, hư hỏng ổ trượt hoặc ổ lăn.... kiểm tra ba pha xem cường độ dòng điện có bị mất cân bằng không. Nếu có mất cân bằng, ta tiếp tục xác định như ở mục trên. Ngoài ra còn do có va chạm cơ khí giữa bộ phận quay và bộ phận tĩnh. Có thể bằng giác quan theo kinh nghiệm có khi phải tháo cả rôto. Trường hợp có tiếng kêu do ma sát chổi than trên vành trượt ở động cơ dây quấn, ta cần kiểm tra bề mặt tiếp xúc của chổi than và vành trượt xem có tiếp xúc tốt không? Vật liệu chổi than chọn có đúng không, áp suất tỳ chổi than có lớn quá không, vành trượt có bị mòn quá và bị ô van không? Đối với động cơ không đồng bộ rôto dây quấn, người ta thường dùng chổi than đồng mà hiệu MTC liên xô đối với tốc độ dài ở vành trượt đến 18m/sec, ta dùng chổi than điện mà hiệu do Liên Xô. 1.3.3.8. Động cơ bị hư hỏng cách điện. Hơn 75% sự cố trong động cơ điện xảy ra là hư hỏng cách điện của cuộn dây Stato và rô to dây quấn. a- Hiện tượng: Động cơ điện đang làm việc có mùi khét, có khi bốc khói và làm theo động cơ bốc khói và làm cho động cơ nóng dữ dội. Đó là cách điện cuộn dây bị hư hỏng gây nên chập mạch bởi dây với vỏ, hoặc với các dây pha với nhau hoặc chạm chập vòng dây trong một bối dây. b- Nguyên nhân làm hư hỏng cách địên có thể là: - Cách điện ẩm ướt. - Cuộn dây bị bụi bẩn, dầu mỡ hoặc bụi kim loại. - Va chạm cơ học làm xước hỏng bối dây - Môi trường có khí hóa chất ăn mòn cách điện (axit , kiềm). - Động cơ quá tải lớn lâu dài làm cách điện bị dòn và bị hút nước. - Già hoá cách điện. c- Kiểm tra phát hiện và sửa chữa: - Trường hợp cách điện cuộn dây bị ẩm ướt: kiểm tra bằng Megôm kế quay tay, khi dùng mêgôm kế cần căn cứ vào điện áp định mức của động cơ. - Động cơ điện tới 500V dùng mêgôm kế 500V. - Động cơ điện áp cao (tới 6000V) dùng mêgôm kế 10002500V - Nếu kết quả đo điện trở cách điện giữa pha với vỏ và pha với pha thấp dưới 0.4 đối với cuộn dây stato và thấp dưới 0,5 đối với cuộn dây rô to của động cơ dây quấn thì có thể kết luận là cách điện động cơ bị ẩm và cần sấy lại cuộn dây. - Trường hợp động cơ bị bụi bẩn: Có thể kiểm tra bằng giác quan, và có thể dùng khí (áp suất không quá 4 kg/cm2) để thổi bụi làm sạch. Khi cần thiết có thể tháo rời rô to ra khỏi stato để làm sạch động cơ. lúc này cũng dễ dàng phát hiện các vết xước hỏng cách điện do va chạm cơ học. Tuỳ mức độ hư hỏng có thể quét sơn cách điện hoặc tẩm điện cuộn dây. Xác định chạm chập vỏ pha, pha- pha: Có thể kiểm tra nhanh chóng bằng mêgôm kế hoặc bằng bóng đèn báo. Kim mêgôm kế sẽ chỉ về không (liền mạch hoặc đèn báo sáng chạm mạch). Tất nhiên khi đó ta phải tháo rời các cuộn dây pha ra(6 đầu dây). Trường hợp muốn xác định chỗ chạm ra vỏ để sửa chữa tiết kiệm nhất, ta có thể dùng phương pháp dòng điện có một chiều và đo bằng milivôn kế như sau: Sau khi xác định được pha chạm vỏ bằng mêgôm kế, ta đấu hai đầu của pha đó vào nguồn điện một chiều, đầu kia của nguồn điện đấu ra vỏ (như hình 1.10). Ở đây ví dụ một pha có 4 tổ bối dây đấu nối tiếp. Khi đóng cầu dao (dòng điện có thể lên đến 3040a) dòng điện sẽ đi 2 qua đầu dây pha về hai phần để đến chỗ chạm vỏ C và về đầu âm của nguồn điện. Để điều chỉnh và hạn chế dòng điện, người ta mắc thêm một biến trở R. Nếu ta lần lượt đo sụt áp ở 2 đầu từ tổ bối, ta sẽ thấy một bên (gồm 2 tổ bối dây) kim của đồng hồ milivôn kế chỉ một chiều, một bên (gồm một tổ bối dây) kim của milivôn kế chỉ theo chièu ngược lại. Hình 1.10. Cách tìm chỗ chạm pha với vỏ. Hình 1.11. Cách tìm bối dây chạm mát Tổ bối dây bị hư hỏng cách điện dẫn đến chạm chập vỏ là tổ bối dây nằm giữa 2 bên có kim đồng hồ chỉ 2 chiều ngược nhau (dù một đầu đồng hồ cắm ra vỏ, một đầu cắm lần lượt cắm vào từng đầu của bối dây này). Để tiếp tục tìm ra bối nào trong tổ bối bị chạm vỏ, ta cần tháo rời từng bối và tiến hành đo sụt áp từng bối dây theo cách tương tự như trên. Hình 1.11 trình bày một tổ bối có 4 bối dây (còn gọi là bin dây) có một bối hay bin bị chạm vỏ. Cuối cùng, ta sẽ xác định được bối dây nào bị chạm mát. Biết được bối dây bị chạm. Ta xác định được rãnh chạm mát và có thể dùng phương pháp lồng luồn để khôi phục động cơ một cách tiết kiệm nhất. Xác định chạm chập vòng dây. Sau khi đã xác định được không có chạm chập pha - vỏ, pha- pha mà động cơ vẫn có hiện tượng kêu và quá nóng cục bộ. Ta đo cường độ dòng điện 3 pha thấy mất cân bằng ngay cả khi không có tải và khi đo điện trở một chiều từng pha thấy chênh lệch ta có thể xác định sơ bộ là có chạm chập vòng dây. Sau đó tháo rút rô to và tiến hành kiểm tra chạm chập bằng“rô-nha”như hình 1.12. Trước khi kiểm tra cần tháo rời các mạch đấu song song trong từng pha và cần tháo cầu đấu sao hoặc tam giác ở bản cực động cơ. Rô- nha làm việc theo nguyên lý cảm ứng điện từ. Khi có chạm chập vòng dây, một thanh thép lá đặt giữa “rô-nha” và các miệng rãnh stato khi chạm chập vòng dây, dưới tác dụng của từ trường biến thiên của “rô-nha” khép qua lõi thép stato, trong các vòng dây ngắn mạch sẽ xuất hiện dòng điện cảm ứng. Dòng điện này chạy trong dây dẫn trong rãnh lại sinh ra từ trường xoay chiều móc vòng qua phần răng và khép mạch qua lá thép thử. Kết quả là thép thử bị hút chặt xuống rãnh (giữa2 răng). khi đó ta biết có chạm chập vòng dây ở rãnh đó. Cách sấy và tẩm cuộn dây máy điện: Kỹ thuật sấy và tẩm cuộn dây động cơ điện có rất nhiều kiểu từ đơn giản như sấy bằng đèn điện, bằng khí nóng tẩm sơn bằng cách dội, quét... Đến hiện đại như: Tẩm sấy trong lò tẩm sấy chân không, có áp lực tẩm. Tuy nhiên, trong sửa chữa người ta thường dùng cách đơn giản nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sấy như sấy bằng dòng điện trực tiếp chạy trong cuộn dây động cơ, sấy bằng dòng cảm ứng gián tiếp... 1.3.4. Một số dạng sai hỏng về cơ và cách khắc phục: 1.3.4.1- Động cơ bị hỏng ổ bạc, hỏng ổ bi, mòn trục. Ổ bạc, ổ bi cùng với 2 nắp có nhiệm vụ định vị cho rô to và stato được đồng tâm để khi quay không bị chạm vầo nhau. Đồng thời làm giảm ma sát giữa các bộ phận chuyển động với bộ phận cố định. Ổ bạc hoặc ổ bi được gọi là tốt nếu khi lắc đầu trục không thấy có độ rơ ngang, khi ổ bạc, ổ bi hay trục mòn hoặc ô van thì động cơ quay có tiếng gõ kèm theo hiện tượng rung, lắc. Trường hợp nặng có thể bị sát cốt hoặc không thể kéo được tải. Nếu kiểm tra bằng căn lá sẽ thấy khe hở giữa rô to và stato là không đều nhau. Trong khi chế tạo và lắp ráp người ta rất quan tâm đến việc giữ cho khe hở được đồng đều về mọi phía. Trong mỗi tổ bối dây luôn có từng tổ bối dây đối diện nhau qua tâm. Điều đó tất yếu dẫn đến việc có từng cặp cực cũng đối diện nhau và do đó lực từ kéo rôto đều về mọi phía. Nếu một phía nào đó mà rô to quá gần với stato thì rô to bị kéo mạnh hơn về phía đó làm cho động cơ quay không thể êm tuyệt đối được lúc này nếu ổ bạc hoặc ổ bi mà bi mòn thì rô to sẽ bị dao động theo chiều ngang gây ra tiếng gõ giữa trục với ổ hoặc tiếng va chạm giữa rô to và stato gọi là hiện tượng sát cốt . Ổ bạc hoặc ổ bi có thể mòn đều có thể bị ô van nếu động cơ được nối với tải bằng băng đai hoặc xích . Thông thường, người ta chế tạo động cơ có trục cứng hơn bạc để cho trục không bị mài mòn nhưng trên thực tế có nhiều trường hợp, do chế độ bảo dưỡng không hợp lý, trục vẫn bị mòn ở chỗ tiếp xúc với ổ bạc. Trong trường hợp này, hậu quả cũng tương tự như hiện tượng bạc bị mòn . Khi ổ bạc, ổ bi hay trục bị mòn nhẹ hoặc gặp trường hợp động cơ có khe hở lớn thì biểu hiện ra bên ngoài chỉ có tiếng gõ to kèm theo hiện tượng rung lắc nhẹ rất dễ phán đoán nhưng khi độ mòn tăng lên thì hiện % máy thì quay bình thường nhưng sau khoảng thời gian ngắn thì tiếng gõ to dần, vận tốc giảm kèm theo hiện tượng rung lắc và nóng bầu. Nếu muốn khe hở giữa rô to và stato còn nằm trong giới hạn cho phép hay không, phải dùng căn lá để thử. Hãy dùng các căn lá có chiêù dày từ 0,1mm 1mm, luồn dọc theo khe hở điểm đối diện qua trục động cơ. Phải chọn các điểm mà ở phần không có sơn cách điện hoặc bụi bẩn bám vào không để lọt căn lá vào khe miệng rãnh. Đến lá căn nào mà khe hở vừa khít với chiều dày lá căn thì đọc trị số khe hở ở vị trí đó theo chiều dày lá căn (số ghi trên từng lá căn ). Nếu thấy trị số đo ở vị trí đã chọn sai lệch nhau không quá 20% thì có nghĩa là độ lệch đó nằm trong giớ hạn cho phép . Quay rô to sang vị trí khác nhau mà vẫn thu được kết quả tương tự thì có thể khẳng định là trục, bạc hoặc ổ bi chưa cần phải sửa chữa. Nếu kết quả đo sai, lệch quá 20% thì phải tháo rời rô to ra để xem xét từng chi tiết . Kiểm tra trục và bạc thì phải dùng ampe và thước cặp, còn kiểm tra vòng bi thì phải dùng lá căn hoặc lắc bằng tay . Trong trường hợp này, hỏng ổ bi là đơn giản nhất, chỉ cần chọn vòng bi cùng loại thay vào là xong còn nếu hỏng ổ bạc hoặc mòn trục thì khá phiền phức. Một khi bạc đã quá dơ thì trục cũng sẽ bị gợn hoặc ô van. Nếu gia công bạc mới mà lắp lọt được bên ngoài thì vào tới bên trong lại bị hỏng. Bởi vậy người ta phải chống tâm hai đầu trục bên máy mài mòn, mài cho đường kính mặt trụ từ trong ra ngoài đều nhau rồi mới ra công bạc theo đường kính mới. Để dùng bền, trục và bạc phải được gia công theo công nghệ riêng bằng vật liệu đặc trưng có thể thấm được dầu bôi trơn và chịu mài mòn tốt, sao cho đảm bảo trơn kít độ bóng đạt từ 7 trở lên. Nếu gia công không đúng quy trình công nghệ thì chỉ vài tháng là lại hỏng. Trường hợp không có vật liệu đặc trưng thì có thể chữa vận dụng bằng cách mạ trục hoặc tóp bạc. Nếu trục không bị gợn thì tóp bạc là đơn giản nhất. Hãy dùng cưa xẻ một rãnh hơi chéo theo chiều dài thân trục rồi vỗ nhẹ đều xung quanh cho lỗ bạc bé dần lại đến khi vừa khít với trục là được. Nếu trục bị gợn thì phải áp dụng phương pháp mạ trục. Hãy mạ crôm cho phần trục nằm trong ổ bạc dày lên một lớp rồi chồng trên máy, mài cho đến khi vừa khít với lỗ bạc đã được sửa tròn là được làm như thế thì dùng bền không kém gì bạc mới cùng loại. Ngày nay, việc sửa chữa và thay thế trục, bạc có thuận lợi hơn nhiều nhờ những vật liệu đặc trưng và nhờ những tùng gia công sẵn của các nhà cung cấp. 1.3.4.2- Động cơ bị cong trục. Động cơ làm việc mà bị quá nóng thường xuyên, đồng thời xuất hiện lực kéo lệch về một phía hoạc va đập mạnh có thể bị cong trục. Trục bị cong sẽ sinh ra mất đồng tâm nghiêm trọng. Trường hợp cong nhẹ có thể gây sát cốt, trường hợp cong nặng có thể gây bó cứng làm cho động cơ không thể quay được. Trong mọi trường hợp khi trục đã bị cong thì phát ra tiếng va đập lớn gây rung lắc và không thể kéo được tải. Khi trục bị cong, đo bằng căn lá sẽ thấy khe hở giữa stato và rô to có trị số rất khác nhau. Đồng thời các trị số đó thay đổi theo góc quay của rô to, tháo rô to ra rồi chống tâm hai đầu trên máy tiện hoặc máy mài để già sẽ phát hiện ra đoạn trục bị cong. Nếu cong vít và đường kính trục nhỏ thì có thể dùng dụng cụ xảm để nắn lại. Nếu cong nhiều và đường kính trục lớn thì phải gai công trục mới. 1.3.4.3- Động cơ bị bó cứng do mất đồng tâm . Khi khoá ổ bạc hoặc ổ bi ra để kiểm tra hoặc thay thế, cần phải có những dụng cụ thích hợp như vam, bàn gá hoặc ống tuýt đồng đỡ bên dưới rồi mới gõ nhẹ để lấy chúng ra khỏi ổ. Nếu các dụng cụ làm việc không thích hợp có thể gãy ổ bích chứa ổ bạc hoặc ổ bi vì chúng thường được làm bằng hợp kim nhôm (antimoan) nên rất dễ gãy. Khi mặt bích bị gãy có thể hàn lại nhưng nếu không hiểu rõ công nghệ hàn thì rễ bị mất đồng tâm nghiêm trọng. Trong quá trình hàn do nhiệt độ phân bố không đều trên bề mặt của vật hàn lên xuất hiện những lực co giãn khác nhau về mọi phía gây ra ứng xuất làm cho ổ bạc hoặc ổ bi bị lệch khỏi tâm. Bởi vậy cần phải làm đồ gá để cố định ổ bạc vào đúng tâm thì khi hàn mới không bị kéo lệch. Bộ gá đơn giản có thể chỉ gồm 1 đoạn thép đều dưới có đường kính vừa khít với đường kính lỗ bạc (bên phía mặt bích không gãy) còn đầu trên thì vừa khít với đường kính của ổ (bằng đường kính ngoài của bạc. Lắp bộ gá vào và xiết chặt các bu lông giữ 2 lắp động cơ lại rồi mới hàn thì ổ bạc sẽ không bị kéo lại nữa). Trường hợp không có điều kiện làm đồ gá mà không cần bảo vệ ống dây thì có thể để nguyên cả rôto rồi dùng các lá thép mỏng( lá căn chẳng hạn) chèn đều xung quanh khe hở giữa rô to và stato siết chặt các bu lông giữ hai lắp rồi hàn thì cũng khôi phục được tính đồng tâm của ổ bạc. Trong mọi trường hợp sau khi hàn phải để nguội tự nhiên rồi mới tháo đồ gá ra, tuyệt đối không được làm nguội cường bức bằng nước. Muốn biết 2 ổ bạc đã khôi phục được đồng tâm hay chưa hoặc rôto có bị sát cốt không, chỉ việc để cho động cơ hơi rốc về phía trước (không lắp tải), dùng tay ấn nhẹ đầu trục về phía sau. Nếu thấy rô to tự trôi về phía trước là đạt yêu cầu. Nếu không tự trôi được và động cơ vẫn còn bó. 1.3.4.4- Tải không cân bằng. Khi nối động cơ với máy công tác bằng khớp nối cứng mà máy có dao động lớn sẽ truyền sang động cơ làm cho động cơ bị rung. Trong trường hợp các động cơ dùng làm quạt điện mà bộ cánh không cân đối cũng gây ra hậu quả tương tự. Đối với những cánh quạt kim loại có thể xử lý bằng cách nắn cho các góc nghiêng của cánh đồng đều nhau (cả mép xa và mép gần) như người ta cân vành xe đạp thì quạt quay sẽ đỡ rung, lắc. Còn đối với các máy công tác thì phải gia cố lại nền máng, hiệu chỉnh lại đồng tâm giữa trục máy và trục động cơ. 1.3.4.5- Có bavia ở lõi thép. Khi tháo stato ra khỏi vỏ dụng cụ thủ công có thể gây xê dịch một vài lá thép làm trong mặt trong của stato bị bavia. Nếu không phát hiện kịp thì khi quay rôto sẽ va quyệt vào các vị trí đó gây ra tiếng va chạm kim khí lớn hoặc sát cốt. Tháo rôto ra quan sát trên bề mặt sẽ nhìn thấy vết xước rất rõ. Qua đó dễ dàng xác định được vị trí có bavia để xử lý. 1.3.4.6- Rôto không cân bằng. Rôto không cân bằng chỉ xảy ra ở các động cơ mới do lỗi ở dây truỳên sản xuất hoặc những rôto dây quấn được sửa chữa lại không đạt yêu cầu về cân bằng cơ học. Khi động cơ quay sẽ suất hiện lực văng làm rung, lắc và có tiếng kêu điện từ lớn hoặc có tiếng gõ cơ khí. Nếu chống tâm mà rà thì sẽ không phát hiện vì rôto vẫn tròn, trục vẫn thẳng, và vẫn đồng tâm. Muốn biết rôto có bị mất can bằng hay không phải thử cân bằng tĩnh bằng phương pháp kinh nghiệm. Hãy để rôto trên hai giá đỡ (đỡ lấy hai vòng bi) dùng nivô điều chỉnh cho thật cân bằng theo chiều dọc trục. Phía mặt trục nào của rôto nặng hơn sẽ luôn quay xuống dưới. Đánh dấu lại vị trí đó rồi xoay nhẹ rôto đi những góc khác nhau mà thấy vị trí đã đánh dấu vẫn quay xuống phía dưới thì chắc chắn là rôto đã bị mất cân bằng. Nếu là rôto dây quấn thì phải quấn lại bằng nhửng tổ bối dây bằng nhau, nếu là rôto lồng sóc thì phải khoét hoặc đắp đối trọng cho đến khi rôto không dừng lại ở vị trí cũ nữa mới thôi. 1.3.5- Kết luận: Từ những sai hỏng trên ta khái quát được quy trình công nghệ sửa chữa máy điện như sau: - Máy điện hỏng cần được tháo ra khỏi nguồn điện và đưa tới nơi sửa chữa. Tính trạng hư hỏng được ghi chép vào phiếu riêng, ghim kèm theo máy và ghi chép vào sổ theo dõi sửa chữa. - Kiểm tra đo đạc để chuẩn đoán hư hỏng Tất cả các máy điện khi bị sự cố đều có các biểu hiện không bình thường. Thông qua những biểu hiện đó ta có thể phân tích, phán đoán được tính chất, mức độ và vị trí sự cố. Việc xác định chính xác sự cố có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp chúng ta quyết định được dúng đắn giải pháp sửa chữa một cách nhanh nhất, rẻ nhất, tốt nhất, dễ dàng nhất. Nếu sửa chữa không đúng chỗ, không thích hợp gây tốn kém không cần thiết, làm giảm độ tin cậy của thiết bị, không kịp thời mà tốn công vất vả. Trong sửa chữa máy điện, phương pháp phát hiện và chuẩn đoán hư hỏng thường là: nghe, quan sát, phát hiện thông qua mùi, dùng các thiết bị để đo đạc như: Kiểm tra cách điện, đo điện trở dây quấn, kiểm tra dấu đúng các bước dây quấn… - Xác định phương án sửa chữa. Trong bước này ta phải tháo dỡ máy điện, xem xét kỹ để phân loại các chi tiết hư hỏng và còn tốt. Những bộ phận và chi tiết không cần sửa chữa thì được gửi vào kho bảo quản còn những bộ phận và chi tiết hỏng thì được đưa vào sửa chữa hoặc thay thế. Việc đưa ra phương án sửa chữa chính xác, tối ưu có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp cho việc sửa chữa được tiến hành hợp lý, nhanh chóng, phục hồi được khả năng làm việc như ban đầu của máy điện. Tiến hành sửa chữa. Sau khi đã định được phương án sửa chữa hợp lý chúng ta đi tiến hành sửa chữa. Trước khi tiến hành sửa chữa phải vệ sinh sạch sẽ máy điện từ việc làm sạch tổng thể tới việc làm sạch chi tiết. Những chi tiết không hỏng có thể để trước khi lắp ráp mới làm sạch, còn những chi tiết cần sửa chữa thì phải làm sạch ngay để việc sửa chữa được thuận lợi. - Vận hành kiểm tra thông số kỹ thuật. Sản phẩm sửa chữa song cần được lắp ráp rồi lại kiểm tra theo quy định, ghi chép kết quả vào phiếu kiểm tra và theo dõi sửa chữa. Các thông số kiểm tra thường là: Đo điện trở cách điện giữa cuộn dây với vỏ và giữa các cuộn dây với nhau. Đo điện trở cuộn dây ở trạng thái nguội. Kiểm tra đặc tính không tải. Thí nghiệm phụ tải định mức và sự phát nóng. Thí nghiệm quá tải ngắn hạn. Kiểm tra tình trạng đổi chiều. Đo tỉ số biến áp. Thí nghiệm quá tốc độ Thử chịu điện áp giữa cuộn dây với vỏ và giữa các cuộn dây với nhau. Thử quá điện áp. - Sau khi đã kiểm tra nếu thấy đạt đúng yêu cầu thì đưa vào kho để trao trả cho khách hàng. CHƯƠNG II TÍNH TOÁN VẼ SƠ ĐỒ TRẢI BỘ DÂY QUẤN STATO ĐỘNG CƠ KHÔNG ĐỒNG BỘ BA PHA 2.1- Các yêu cầu cơ bản đối với cuộn dây ba pha. Điện áp lưới ba pha đặt vào cuộn dây phải cùng trị số, các pha lệch pha nhau 120 0 hoặc 240 0 (độ điện) về thời gian. Các cuộn dây ba pha phải được đặt trong lõi thép STATO hoặc ROTO, các cuộn dây đặt cách nhau 120 0 hoặc 240 0 (độ điện) về không gian. Các cuộn dây phải có cách điện tin cậy giữa các vòng dây với nhau, các cuộn dây với nhau, các pha với nhau và giữa các cuộn dây pha với vỏ. Cuộn dây không được nóng quá giới hạn cho phép khi phụ tải định mức, phần đầu cuộn day cần có hình dạng thích hợp. 2.2- Các thông số cơ bản để thành lập sơ đồ dây quấn. - Số rãnh của lõi thép STATO (Z1). - Số rãnh của lõi thép ROTO (Z2). - Số pha (m). - Số đôi cực (2p). - Số mạch nhánh song song (a). - Bước cực () : - Bước của bối dây (y): thường tính theo số rãnh. - Số rãnh ứng với mỗi cực của một pha (q): Trong cuộn dây ba pha, các rãnh nằm trong 1 cực được chia làm 3 phần, mỗi phần tương ứng với 1 pha tạo thành 1 “nhóm cực- pha” dưới 1 cực. Vậy dưới mỗi cực có 3 “nhóm cực- pha”. Ngược lại với 1 pha dưới 1 cực chỉ có 1 “nhóm cực- pha”: còn gọi là nhóm bối dây hay tổ bối dây. 2.3- Các khái niệm dây quấn cơ bản của máy đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThiết kế chế tạo sa bàn thực tập đấu dây động cơ không đồng bộ.docx
Tài liệu liên quan