Đề tài Thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ

MỤC LỤC

Trang

A Phần mở đầu

1 Lý do chọn đề tài

2 Lịch sử vấn đề

3 Mục đích, phạm vi và phương pháp nghiên cứu

B Phần nội dung

Chương 1 Giới thiệu về khái niệm thời gian nghệ thuật

Chương 2 Các hình thức biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ

2.1 Thời gian vũ trụ

2.1.1 Thời gian rộng mở trường cửu

2.1.2 Thời gian thiên về quá khứ

2.1.3 Thời gian nhàn nhã khoan khoái

2.1.4 ý nghĩa của thời gian và trụ trong thơ Đỗ Phủ

2.2 Thời gian tiền đường

2.2.1 Thời gian gắn với hiện thực cuộc sống

2.2.2. Thời gian hạn hẹp dồn nén

2.2.3 Thời gian vội vàng gấp gáp

2.2.4 ý ngiã thời gian đời thường trong thơĐỗ Phủ

Chương 3 Những nguyên nhân xuất hiện dạng thức thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ

C Phần kết luận

 

 

 

 

 

 

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3130 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỏ người Trung Hoa trong đó có thi nhân Đỗ Phủ đều sùng bái cổ xưa. Cuộc đời này có nhiều tang thương dâu bể, nhà thơ lồng bước những biến thiên, họ muốn níu giữ quá khứ để nguôi đi những nỗi đau hiện tại. Vì thế hoài cổ xuất hiện nhiều trong thơ của Đỗ Phủ là như vậy. Nhưng thời gian quá khứ trong thơ Đỗ Phủ không chỉ được thể hiện bằng thời gian hoài cổ mà còn bằng thời gian ký ức kỉ niệm hoài cổ là thời gian quá khứ xa xăm còn hồi tưởng lý ức là quá khứ gần đây. Một thao tác thường thấy trong thơ đường là biến thời gian thành ký ức, một cuộc chia tay cũng nhanh chóng trở thành kỷ niệm. Em ra đi đón vợ con Cuối thu lo liệu hãy còn về quê Giờ đây đom đóm tứ bề Có theo chim nhạn cùng về hay không Nhìn về đông, Tây Giang chảy miết Em xuống nam, Cửa Bắc mở nhìn Chọn nơi yên tĩnh an nhàn Rượu đây nâng chén cố nhân xin mời (Tiễn em là Quan về Làm đền đón vợ) Bài thơ miêu tả sự chuẩn bị về quê đón vợ con của người en Đỗ. Bài thơ tiễn em trong một không gian tĩnh mịch, hai người còn đối diện nhau đây nhưng “Rượu đây nâng chén cố nhân xin mời” Đỗ đã xem em như cố nhân, người bạn thân cũ, bằng cách xa buổi tiễn đưa vào trong quá khứ, coi em mình như “cố nhân” để buổi tiễn đưa trở thành một kỷ niệm một quá khứ xa được lưu giữ trong lòng tác giả lý bạch khi tiễn Mạnh Hạo Nhiên đã viết. Mạnh Hạo Hiên là người bạn cũ rất thân, bạn nhưng phải là cố nhân thì mới quý. Đó là quan niệm của người Trung Ho cũng như quan niệm của các thi nhân đời Đường. Thời gian hồi tưởng kỷ niệm thơ Đỗ Phủ còn biểu hiện ở những bài thơ nhớ quê hương,nhớ anh em, nhớ bạnh cũ... quê hương mới xa đây thôi mà khi con người ở xa nó con người coi quê hương là cố hương thì mới quý và yêu nó. Vườn xưa nhà cổ nơi mô? Nam cầu muôn dặm bắc hồ trăm hoa Từng hiên ông trước quay ra Quen xương một dặm cây già chơi vơi Trắng phau núi tuyết ngất trờ Vàng soi thành gấm rọi soi bóng tà Bao nhiêu phong cảnh mặn mà Quay về lòng những sót xa bồi hồi (nhớ ngôi nhà cũ bên sông gấm – phan Ngọc dịch) Tác giả là người yêu quê hương tha thiết, khi xa quê đến một nơi mới ông nhớ tới cảnh vật nơi quê mình đã sống và khi xa quê đến một nơi mới thấy xót xa bồi hồi. Chúng ta thấy trong bài thơ không có một từ nào nói đến thời gian nhưng ta vẫn cảm nhận được thời gian hồi tưởng kỷ niệm, thời gian này giứp cho nhân vật trữ tình có thể biểu hiện được tâm trạng của mình trong đó và chính vì thế nỗi nhớ quê hương được biểu hiện rõ ràng hơ. Nỗi nhớ quê hương còn thể hiện rõ nét trong chùm thơ “thu hứng” trong bài thu hứng số 1 tác giả viết Ngọc lộ điêu thương phong phụ lâm Vu sơn vu giáp khí tiêu sâm Gian gian ba lãng kiêm thiên dũng Tái thượng phong vân tiếp địa âm Tùng cúc lưỡng khuê tha nhật lệ Cô chu nhất hệ cố viên tâm Hàn y xứ xứ thôi đao xích Dạch đế thành cao cấp mộ châm Hạt nương ngọc, rừng phong xơ xác Núi vu sơn giáp khí tiêu điều Súng trên ông nhảy vọt lên trời cao. Mây cửa ải ùn theo lan mặt đất Nhìn khóm cúc hai lần rơi nước mắt Chiếc thuyền côi buộc chặt mối tình nhà áo rét may giục giã trước dao khua Tiếng đập vải rộn vang chiều Bạch Đế (Phan Ngọc dịch) năm 765 Đỗ Phủ rời thành đô về Tân An va năm 766 ông tới Quỳ con châu ông đã trải qua những cuộc viễn du thật dài, nhưng rất tiếc đây không phải cuộc chơ du ngoạn danh lam thắng cảnh mà là đi lãng mạn chạy loạn ở vùng Quỳ châu, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh này thể hiện nỗi lòng nhớ quê rất sâu sắc của Đỗ Phủ thông qua bức tranh mùa thu, không gian mùa thu hui hắt ở vùng quỳ châu nhưng đồng thời với sự hiu hắt đó là không gian vũ trụ hoành tráng dự dội, lòng sông hẹp, vách núi cao hiểm trở làm, cho sóng tung lên tận trời, trên biên ải, xa sôi mây xa dần xuống mặt đất, sóng và mây đối nhau cái lên cao cái lên xuống. Nỗi nhớ quê hương ở 4 câu đầu còn ẩn kín thì 4 câu sau được phơi bày qua không gian cụ thể và nỗi nhớ quên cuộn dâng trong lòng tác giả nó tuôn trào thành những dòng thơ. Tùng cúc hưởng khai tha nhật lệ Cô chu nhất hệ cố niên tâm Bên cạnh khôn gian vũ trụ bao la ấy là thời gian hồi tưởng ký ức, nhìn khóm trúc nở hoa tác giả năm ngoái ở vân An mình đã khóc nhớ quê nhà, nhớ vườn cũ năm nay ở Qùy châu Đỗ lại một lần khóc khi nhìn thấy hoa nở vì nhớ quê nhà. Sự kết hợp giữa không gian thời gian vũ trụ mang đầy đủ phong cách tho Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối trầm uất và bi tráng, bài “thu hứng” số 1 là cương lĩnh cho chùm thơ “thu hứng”. Thể hiện nỗi lòng nhớ nhà của thi thần xa quê và trong hiện tại ở vùng quỳ châu Đỗ nhớ về quê mình trong niềm trân trọng tin yêu nó coi nó là cố hương trong lòng mình. Bài thơ đã từng làm lay động bao người hơn 1000 năm nay, nhất là những ai đã từng xa quê hương, cảm thấy sự cô đơn của mình trước không gian và thời gian vũ trụ này. Trong thơ Đường thời gian ký ức thường gắn với trạng thái “ức” “tư” hoài niệm tức là gắn với tâm tưởng của con người. Trong thơ Đỗ rất nhiều bài thơ biểu hiện nỗi nhớ của thi nhân nhớ quê, nhớ em, nhớ vợ con, có lúc ông viết những vâng thơ nhớ bạn. Lâu lắm không gặp lý Giã cuồng tội nghiệp thay Người đời đều muốn giết Ta ý vẫn thương tài Phiêu linh rượu một chén Mẫn tiệc thơ nghìn baì Núi khoảng trốn đọc sách Đầu bạc hãy về thôi (Bất kiển) Đỗ đã làm nhiều bài thơ nhới lý Bạch “ngày đông nhới lý bạch, ngày xuân nhớ lý bạch” nhưng bài nào cũng xuất sắc. Bài thơ này là bài thơ cuối cùng viết về nỗi nhớ Lý Bạch, cả bài thơ thể hiện một tình bạn chân thành sâu sắc đối với vị tích tiên. Bằng thời gian hổi tưởng kỷ niệm trong bài thơ ta thấy chỉ có nhà thơ vĩ đại như ông mới có khả năng hiểu và yêu mến một thiên tài khác như vậy. Đỗ Phủ đã viết nhiều bài thơ thể hiện nỗi nhớ về người thân, bạn bè, bên cạnh đó còn có những bài thơe nhớ về cả thời đại. Trong bài “ức Tích” Đỗ muốn gửi gắm ngưỡng vọng một thời đại đã qua của đất nước thịnh đường. Nhớ ngày xưa thời khai nguyên thịnh đức ấp nhỏ còn đông đúc trên vạn nhà Thóc chứa chan gạo trắng xoá tràn trề Kho công với kho từ chật ních Đường chính châu không hùm heo ăn thịt Người đi xa chẳng thiết chọn ngày làng .... Bạn bè trong thiên hạ gắn keo sơn Trên trăm năm chưa tai biến một lần Với tiêu đề bài thơ “ức tích” cũng đủ để chúng ta thấy một thời gian hồi tưởng kỷ niệm. Thời thịnh Đường nay không còn nữa, cả đất nước chìm trong hoạn nạn. Tác giả đau lòng khi chứng kiến “cảnh rộng vường tưới máu” , “cung điện lạc Dương cháy sạch thảm thay”. Nhìn hiện tại mà đau sót vì thế tác giả đã quay về quá khứ để hoài niệm những kỷ niệm huy hoàng mới vừa trôi qua trong chốc lát thể hiện thái độ của thời gian hồi tưởng này Đỗ Phủ khát khao đất nước được trở lại yên bình.Hay để miêu tả hậu quả của chiến tranh. Huống nghe nhà Hán sơn Đông 200 châu Ngàn thôn muôn xóm in gai cỏ (Đinh xa hành) Tác giả nói nhà Hán nhưng đồng thời để nói nhà đường từ đây chúng ta có thể kết luận rằng khi con người không bằng lòng với hiện tại, còn tương lai thì mờ mịt nên con người đã quay về quá khứ ngưỡng vọng quá khứ để an ủi cho chính mình để thể hiện những ước mong trong cuộc đời. 2.2. thời gian đời thường Trong “thi pháp thơ đường” tác giả nguyễn Thị Bích Hải đã nhận xét rất xác đáng rằng sự hoà điệu của thế giới nghệ thuật Đường thi bị phá vỡ khi con người xã hội với tư cách là thần dân xuất hiện. Con người vũ trụ thoả thích bay lượn trong không thời gian vũ trụ, để thể hiện khí phách, ý nguyện của mình. Còn con người đời thường được phản ánh trong quan hệ đối lập mâu thuẫn với thế lực áp bức họ. Thời gian vũ trụ nhường chỗ cho thời gian đời thường, Qua khảo sát chúng tôi thấy thời gian đời thường trong thơ Đỗ Phủ có .... bài chiếm......%. Con số thống kê này vừa chứng tỏ và đa dạng của thời gian ghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ. 2.2.1. thời gian của hiện thực ------cuộc sống------ Thời gian đời thường trong thơ Đỗ Phủ luôn gắn với hiện thực cuộc sống, nó gần gữi với những gì đang xảy ra trong đời sống thường nhật điều đó làm cho độc giả khi đọc thơ tử mỹ có cảm giác như đang được xem một thước phim quay chậm hiện thực xã hội thời ông sống có lẽ vì thế mà thời gian gắn liền với hiện thực cuộc sống tạo ra một sự ám ảnh đối với người đọc. Đỗ Phủ đã gửi vào đó tâm sự gì, cách nhìn như thế nào về cuộc đời và số phận của những dân lao động, như ông như bao người khác đang sống à tồn tại trong xã hội? ông là nhà thơ hiện thực lớn nhất đời đường bởi lẽ ông đã đem cả giai đoạn lịch sử đời đường vào thơ của mình mà phản ánh. Phan Ngọc đã có một nhận xét rất đúng về ông “Đỗ thiếu năng có ý thức làm từ mã thiên đời đường. Với cuộc đời ông – sự trải nghiệm về bản thân cũng như cuộc sống xã hội, thời ông, qua những vần thơ của mình Đỗ Phủ luôn bộc lộ những cảm xúc về nhân thế về cuộc đời này. Những kỷ niệm thủa thiếu thời, cuộc sống của nhân dân lao động và gia đình, bản thân ông, ở những nơi ông đã từng đi qua và dừng chân đã để lại dấu vết khá rõ trong những trang thơ của Đỗ Phủ có thể kể ra đây một số bài thơ tiêu biểu. Hai chùm thơ tam lại tam biệt, tiền xuất tái hậu xuất tái càn nguyên trung ngự cư Đồng cối huyện tá cao tất thủ, bắc chinh, Hựu trình Ngô lang tự kinh phó phụng tiên vịnh hoài ngỹ bách tự... xã hội suy thoái loạn lạc đời sống dân đen lầm than là nội dung chính trong thơ Đỗ Phủ. Hiện thực biến động tang thương của xã hội khiến cho nhà thơ không thể ở mãi trong lập trường giai cấp “phụng nho thủ quan” không còn thời gian hoài cổ hay bay bổng với những giấc mơ xa vời, cung vàng điện ngọc, lầu son gác lía nghe oanh kêu như thời thịnh tại “khai nguyên thiên Bảo” nữa. Ông phải quay về với thực tại đầy máu và nước mắt ở mảnh đất đời thường trong đó ông và nhân dân đang chìm đắm trong loạn li tô thế. Vì thế thời gian đời thường rong những bài thơ của Đỗ Phủ gắn liền với những sự kiện nóng bỏng lớn lao của cuộc sống như nỗi đau về chiến tranh, loạn lạc, thuế khoá và mất mùa... Đất nước thịnh trị nay không còn người dân nghèo khổ đói rét, bị đè nặng bởi miếng cơm manh áo và bao nhiêu lo toan vụn vặt trong cuộc đời, cái đói đã len lỏi khắp các ngõ ngách chật hẹp, ngay cả gia đình Đỗ làm quan mà cũng không tha. Nhập môn văn hào đào â tử có dĩ tốt (tự kinh phó phụng tiên...) Vào cửa nghe kêu gào Con thỏ đói vừa chết Nỗi đau khổ dày vò lương tâm người cha, Đỗ đau lòng vì việcđứa con của mình bị chết đói. Cái chết đang còn đến với những nhà quan như nhà Đỗ thì huống gì dân đen. Năm 1975 Đỗ vừa được bổ làm qua ở Tường An, tháng 11 năm ấy ông được phép về thăm nhà, trên đường trở về phụng Tiên Đỗ phủ đi qua Li sơn là nơi thuyên Tông đang nghỉ mát với Dương Quý Phi. Đỗ thấy sự ăn chơi xa hoa chốn cung đình trái hẳn với cảnh lầm than của nhân dân lao động. Vóc lụa thần an chia Do gái nghèo chiụ nhọc Roi vọt nhà cùng đinh ** góp dâng bệ ngọc Người dân nghèo phải lao động vất vả nhưng sản phẩm họ làm ra đều có được quyền sử dụng, tất cả dâng lên bệ ngọc hết. Thật là bất công! Đỗ miêu tả rất đúng hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ. ông tự nhận trách nhiệm về hiện thực đau sót của người dân. Chu môn tửu nhục xú Lộ hữu đống tử cốt Vinh khô chỉ xích dị Trù trướng nan tái thuật (cửa son rượu thịt ôi Ngoài đường xương chết buốt Sướng khổ cách gang tấc Nghẹn ngào khôn kể xiết) Do tính chất tự sự mà có thời gian đồng hiện, cùng một thời gian mà diễn ra hai sự việc ở hai nơ, cửa và ngoài đường. Đây loà điểm rất mới của thời gian nghệ thuật thơ đường. Nhờ thế mà Đỗ Phủ đã vạch trần cuộc sống xa hoa của bọ vua chua, qua lại phong kiến, ông lấy cảnh “chu môn tửu nhục xú” đối với cảnh chết đói của nhân dân “lộ hữu tống” (rượu thít thối) cách dùng từ tay chủ đích phê phán gay gắt sự xa hoa lãng phí của triều đình, lên án một cách triệt để giai cấp thống trị vàđứng về phía dân bênh vực cho họ. Bởi ông hiểu chính ông cũng là một trong nạn nhân của xã hội đó, cảnh đói rét nghèo khổ như một thảm cảnh đang diễn ra trên toàn hộ xã hội Trung Hoa. Đỗ Phủ không chỉ dừng lại ở sự phê phán mà ông còn thể hiện cảnh đói nghèo rách rưới khiến cảnh đoàn viên của gia đình nhà thơ cũng thật thương tâm. Nhà tranh vắng đã cách năm Vợ con về thấy áo trăm mụn chằng Nào than nào khóc vang lừng Suối khe nghẹn giọng thông rừng thua hơi (Bắc chinh) Tiếng khoá ở đây không phải khóc mừng ngày gặp lại mà ta khóc cho sự nghèo đói, rách rưới của chính gia đình mình, ở chỗ khác tác giả không còn tân trí để mà chậm biến đả kích không thể cất tiếng khóc được nữa mà đành lặng lẽ nuốt nước mắt vào lòng dỉ máu. Nằm đói cứ thế mười ngày rồi áo rách và trăm mảnh chằng chịt Há chẳng thấy tường trơ nhiều trắng xoá Không tiếng già này khơi soi huyết (gửi đến các ngài ở hai huyện hàn Dương và Hoa Nguyên) Cũng vì nghèo khổ mà cả gia đình Đỗ phải nhịn đói, ốm đau, nông cụ chỉ có một cái cuốc. Nó được tác giả xem là người bạn thân thiết đã giúp ích cho cả gia đình mình. Các cây cối vào mùa tuyết phủ không nhìn thấy chồi nữa lấy gì để nuôi gia đình đây. Điều kiện đó đã làm cho nhà Đỗ ngày một thê lương. áo ngắn phủ hoài không kín cẳng Bấy giờ cùng người trở về tay không Huyện tác ca tất phủ Câu nguyên trung ngụ cư đồng cốc Trai khóc gái *** Cái khổ của Đỗ Phủ cũng chính là cái khổ của nhân dân Đỗ Phủ không chỉ cập đến số phận bi thảm của riêng mình mà ông còn đề cập đến số phận quảng đại quần chúng đau khổ lầm than trong xã hội đương thời. Sự gần gũi nhau về cuộc sống chính là cầu nối nhà thơ và những người lao động. Cảnh loạn li mà nhân dân phải gánh chịu trong loạn An Sử và sợ thổ phần được thơ Đỗ Phủ thể hiện chân thành sâu sắc. Tấm bi kịch của nhân dân trung hoa đời đường được phản ánh trong một không gian nhỏ bé như xóm thạch hào, Tân An và trong khoảng thời gian ngắn ngủi hạn hẹp vùng thôn xóm yên bình khong còn được yên bình nữa vì cảnh tang thương của đất nước đã len lỏi vào từng gia đình. “cả nước đều giặc giã, khó lửa trùm lúi sông” nên ông lão trong “thuỳ lão biệt” đầu bạc răng long con cháu đã chết trận hết vẫn ném gậy để đầu quân, khiến vợ già khóc thảm thiết lúc chia tay. Vợ già khóc lăn bên đường cái Quần áo manh đầu dãi chiều đông Nếu “thuỳ lão biệt” là cuộc chia tay với người vợ già và mái nhà tranh nghèo nàn thì “vô gia biệt” là cuộc chia li đặc biệt, cuộc chia tay của kẻ không nhà, còn “tân hơn biệt” là cụôc chia tay của cặp vợ chồng mới cưới, vì chiến tranh mà họ phải chia tay nhau vội vã để người chồng ra trận. Chiều cưới sớm ra nhau Vội vàng chi thế trời Đó là một cầu hỏi đầy day dứt của người ở lại mà cũng là của biết bao người dân đen lúc bấy giờ. Những cuộc chia ly trên đã trở thành hình tượng bất tử trong thơ ca cổ điển trung Quốc. Đỗ Phủ phản ánh hiện thực chiến tranh khi biên của nhà đường qua việc dựng liên hình ảnh người lính kể lại mười năm đi chiến trường của mình. Tòng quân mười năm lẻ Há không chút công nào Mọi người tranh được thưởng Muốn nói thẹn hùa nhau Người lính chỉ được sử dụng như một công cụ phục vụ cho ý đồ mục xây đích riêng của giai cấp thống trị, họ phải chấp nhận việc ra chiến trường và họ trở thành nạn nhân của các cuộc chiến tranh, chiến tranh loạn lạc đến với tất cả những người dân trong xã hội, gia đình Đỗ Phủ cũng chịu hậu quả của chiến tranh, chịu sẻ đàn như bao thảm cảnh khác. Chín bận gửi thư về Lạc Dương Mười năm ruột thịt không tin tức Hay Bên trời luống tuổi chưa về được Chiều chiều trông dòng dông lớn khóc Bên cạnh việc miêu tả hiện thực chiến tranh Đỗ Phủ còn phê phán cảnh áp bức bóc lột của nhà đường đối với người dân. việc thu thuế bất hợp lý của lũ quan đã khiến nhân dân lao động rơi vào thảm cảnh. Ngờ đâu năm đựoc mùa Lũ nghèo cứ chịu chết Cùng với ý thơ này ở bài “tuế án hành” ông viết Năm tâm gạo kém thiếu lương ăn Năn nay gạo sẽ tội nhà nông Quan lớn trong triều ngấy rượu thịt Bọn dân mảnh vải tấm tranh không .................... Huống nghe chốn chốn bán con cái Vì thế tỏ cắt khúc lòng Bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập Đỗ Phủ một lần nữa nhấn mạnh sự bất công về đời sống hai tầng lớp trong xã hội tấng lớp thống trị và lự trị. Vì tô thuế mà người dân chịu đói nghèo đau khổ đến nỗi tình mẫu tử cũng không còn giữ được nữa. Cảnh tượng bán con không phải chỉ xảy ra như một hiện tượng cá biệt mà là phổ biến trong toàn xã hội. Nói đế cảnh thuế khoá làm cho con người ta ghèo đi Đỗ Phủ đã kể một câu chuyện nhà Đỗ có 1 ông táo một bà già đói đến tận xương thường sang hái táo trộm Đỗ Phủ không nói gì, sau này gia đình Đỗ chuyển đi nơi khác, nhượng lại nhà cho Ngô Láng, sợ ngô lang không thông cảm với bà già goá nên đỗ đã gửi lại bài thơ. Thường sang vặt trộm táo ngoài sân Bà ấy không con chẳng có ăn Chẳng bởi quá nghèo đâu đến thế Để cho khỏi sợ phải làm thân Dè chừng chủ mới lo xa quá Rấp lại rào thưa ngại hiểu lầm Khốn đốn bởi tô thuế nên bà lão trong “hựu trình ngô lang” trở thành kẻ trộm bất đắc dĩ. Đỗ Phủ đã chỉ ra nguyên nhân vì sao lại như vậy Từng bảo xúc xơ vì thuế khoá Nghĩ cơn khói lửa lệ đầy khăn Thuế khoá đã đồn đến người dân lao động đương thời đếncùng quẫn. Bên cạnh thuế khoá có một nguyên nhân khác dẫn đếnd người dân lao động bị đói nghèo là thiên tai định hoạ. Mấy tháng liền tử châu không mưa bỗng một trận mưa to trút xuống xoá đi nạn hạn hán dân chúng mừng rõ và Đỗ Phủ vui cùng niềm vui của họ. Hạn ngày xuât đất trời mù mịt Mặt trời trông như huyết đỏ ngầu Việc nông đành bỏ biết sao Huống gì gặp lại kinh đao dập dồn! Người đất ba nuôi quân vất vả Đất cháy khô khổ rở kêu la Sông thương nước tưới đêm qua Tội trời trút sạch đúng là lâng lâng Gốc lúa đã xem chừng sống lại Khí độc còn dồn mãi chưa tan Bao giờ năm mới bình an Mối lo toan kiến hoàn toàn được đây (mừng mưa – Phan Ngọc dịch) Bài thơ là sự quan tâm của nhà thơ dân đen với bao số phận của người dân lao động, tác giả mong muốn chiến tranh sẽ không còn nữa, nạn thuế khoá sẽ mất đi, tất cả con người chăm lo vào công việc đồng áng, đất hoang sẽ có trâu cày. Ước đem giúp đúc làm nông cụ Tấc đất còn hoang trâu được cày Được tay tráng sĩ kéo nông ngân Rửa gíup từ nay thôi động dụng. (nghe quan quân lấy lại Hà Nam – Hà Bắc) Đó là ước muốn đến bạc tóc của nhà thơm về một đất nước hòn bình thịnh trị, Những vần thơ của Đỗ Phủ được đời sau truyền dụng vì ông đã mô tả hết sức ninhđộng, hiện thực cuộc sống, đề cập đến những gì gần gũi thân thiết của thời đại. 2.2.2. Thời gian thu hẹp dồn nén Nếu như thời gian vũ trụ tương thông với con người vũ trụ mang tính chất giãn nở là thiên niên cạn cổ và đi cùng sự khoan khoái nhàn nhã thì thời gian đời thường giắn với con người xã hội Với những hợp đồng sinh hoạt của họ, thời gian đời thường là thời gian bị thu hẹp dồn nén. Trong thơ Đỗ Phủ thời gian đời thường không xuất hiện với những số đo lớn, nó đi liền với những địa dư chật hẹp, những địa danh cụ thể, có thể là trong phạm vi cị thể như các mùa, ngày chín tháng chín, tháng tám, năm thứ hai đời hoàng để túc tông... cũng có thể là thời gian diễn ra các biến cố các sự kiện, một thời điểm nhất định đêm, chiều tối... thời gian thu hẹp dồn nén thể hiện qua các bài thơ tiêu biểu, tam lại, tam biệt bành nha hành, ngày 9 mộng ngày chiều hôm, mao ối vi thu phong sở phá ca... với thời gian được nén lại làm cho sự việc trở nên cô đọng lại dễ nhận thấy hơn và qua đó tác gỉa bộc lộ cái nhìn cuộc sống hiện thực đương thời và hẹp hơn là trong chính gia đình Đỗ Phủ. Thời gian thu hẹp dồn nén đồng thời cũng là thời gian hiện thực cuộc sống, Đỗ là người luôn lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau niềm vui của thiên hạ, cho nên khi nhìn thấy nhân dân chìm trong đói rét, cảnh đất nước loạn li lòng ông. ông làm những bài thơ nói lên những cảm xúc của mình trước hiện thực cuộc sống ấy. Nửa đêm sông núi lăng yên Ngắm nhìn bắc đẩu ngồi trên lầu này Khách đi vạn dặm lâu nay Trăm năm những thẹn thân này long đong Nhìn quê cũ mịt mù mây gío Bịu chiến chinh đứng ngó lầu cao Ôn ma hồ phụ bết bao Thèm thái bình sống cách nào được đây ở đây Đỗ Phủ ngồi một mình tâm lầu cao trong cô tịch của đêm dài mà nghĩ về thân phận mình về một đời long đong lận đận chẳng thoả ước nguyện của bản thân lại phải chứng kiến cảnh đất nước trong cơn loạn lạc; ông chẳng có mong muốn nào cao hơn là “ thêm thái bình” nhưng “sống cách nào được đây” lại là một câu hỏi lớn. Điều này cho thấy Đỗ Phủ ý thức được sự hiện diện của mình trong cuộc sống vì chính ông đã từng nói “nhân sinh thất nghiệp cổ lai hi”. Lúc khác Đỗ Phủ lại lo lắng cho vua không có người can gián. ông mong muốn nhân dân trong cả nước chăm lo vào việc đồng áng, đất nước không còn chiến chinh và quan lại không còn quấy nhiễu nhân dân, không còn nạn áp bức bóc lột. Tháng hai một giấc ngủ say Chẳng vì đêm ngắn ngủ ngày có sao Quê hương cũ đường gai góc nổi Mơ trung nguyên sói hổ bên vua Lo cày bỏ chiến là vừa Khắp trời quan lại ai chừa nhiễu dân (Mộng ngày – Đỗ Phủ) Nhưng tiếc thay giấc mông ban ngày của Đỗ Phủ chính là giấc mơ không thể hiện được, vì thế có lúc ông đã thể hiện thái độ bất mãn. Cùn đời ôm nỗi bất bình Trượng phu ai lại như thằng tôi đâu Tác giả viết chơi đôi ba dòng kính trình quan trung thừa kể về số phận của mình và qua đó thể hiện cảnh chạy loạn của bao người dân. Bên hồ nghĩ tủi phận hèn Nhìn cho thế loạn nổi lên mấy lần Nửa đêm lộn với nhân dân Chốn chui may thoát tấm thân bình bồng Đỗ Phủ luôn luôn lo vì vận nước còn gian na loạn li bao chùm nên có lúc ta bắt gặp hình ảnh thi nhân ngồi uống rượu một mình trong ngày chín. Đất lạ, chiều hôm khác vượn đen Em gái em trai người mỗi ngả Lo già lo loạn dạ trăm phiền Cuộc đời Đỗ là một kho nỗi lo, lo cho dân, lo cho gia đình ông sống vì cuộc đời này mà chẳng nghĩ đến thân phận mình, khi nhìn lại tuổi già đến làm cho lòng tác giả đau buồn, cảnh gia đình Đỗ Phủ chạy loạn phải đi cả ngày cả đêm thật thương tâm. Có lúc đi đứt hơi Ngày vài dặm lê lết Lương ăn là quả dại Nhà ở là cây rừng Sớm khe đá lội nước Tối đất lạ nằm sương (Bành nha hành – Hồng tạo dịch) Có thể nói bài thơ “Bành nha hành” đã phản ánhk hết sức chân thực số phận của mỗi người dân (trong đó có gia đình Đỗ Phủ) ở thời điểm xảy ra loại An – sử cuộc sống gia nan hết “sớm” lại “tối” dãi nắng dầm sương đói mệt, có lúc mệt mỏi đến độ không thể đi nổi.Cảnh ngộ của gia đình Đỗ Phủ là cảnh ngộ chung cho cả dân tộc trung Hoa. Loạn li đã làm cho bao người dân phải chạy chốn băng rừng vượt núi chẳng kể ngày đêm. Trăng liềm đã lặn lâu rồi Gỗ nghề lởm chởm đường đời khó đi Từ khi xảy ra loạn An – Sử Đỗ Phủ đã trực tiếp chứng kiến nỗi khốn khổ của bao nhiêu dân lành trong đó có cả gia đình ông và thơ Đỗ Phủ đượm một mỗi buồn thơ Đỗ Phủ có buổi chiều ảm đạm. có cảnh sống thê lương có con nhạn lạc đàn có ngọn gió rầu rầu, có ánh trăng vàng úa với những người dắt díu bồng bế nhau đi, có người chạy loạn qua núi cao gồ ghề kẽm dốc. Một ánh trăng cũng không còn trong khói lửa. (diện mạo thơ đường – GS Lê Đức Niệm NXB vaeưn hoá thông tin Hà Nội 1995 trang 135) Tiêu biểu cho thời gian đời thường trong thưo Đỗ Phủ là “Thạch Hào lại” bao sự kiện xảy ra dồn dập chỉ trong một thời gian ngắn từ “mộ” (chiều tối) đến “dạ” (ban đêm) dạ cửu (đêm khuya) thiên minh (rạng sáng) cùng với “mộ” là việc người khách đi đường hốt hoảng kiếm chỗ nghỉ chân Mộ đầu thạch Hào thôn (chiều tối lao vào xóm Thạch Hào) Cùng với “dạ” là cuộc bắt lính đầy tàn bạo “trói”. Tác giả sử dụng từ rất chuẩn để lột tả tính chất vô nhân đạo trong việc bắt lính của bọn quan lại, bắt vào ban đêm để dân chúng không kịp trở tay. Vì thế “dạ” vừa từ “dạ” đến ‘dạ cửu” là thời gian diễn ra cuộc tra khảo xét, hỏi để bắt cho được người đi phu, đi lính. Tác giả miêu tả cuộc bắt lính ấy mà bằng sự miêu tả gián tiếp thông qua sự quan sát trực tiếp mà bằng sự miêu tả gián tiếp thông qua lời đối thoại của tên lại và bà lão chẳng hạn: Lai hô nhấ là nộ Phu đề nhất là khổ (viên lại quát đà dữ Bà già van đà khổ) Từ đầu chí cuối chỉ có tiếng quát nạt cuảt viên lại con lìa lão từ đầu chí cuối chỉ có kêu van ấy là cái thần của cuộc thoại. Bà lão kể về gia đình mình với bao nỗi oán hờn, buồn tủi, con trai chết trận, con dâu đang phụ thuộc cháu nhỏ vì cháu còn bú mẹ, kết thúc vào lúc đêm khuya là việc nhà bà lão bị bắt đi. Tình cảnh ấy đã tác động sâu sắc đến tác giả, kết tinh thành niềm cảm xúc. Dạ (Đêm khuya lời đã tắt Đường nghe khóc ấm ức) Nhà thơ nghe bằng chính trái tim của sự rung động vì chứng kiến cảnh bắt lính, chính vì thế mà tiếng khóc vang lên đâu đây là tiếng khóc phiến chỉ, tiếng khóc vang lên ở mọi nơi có nghiã là không có nơi nào không xảy ra việc bắt lính vô nhân đạo như vậy. Bài thơ khép lại vào lúc thiên minh (rạng sáng) Thiên minh đằng Độc dữ lão ông kiệt (Độc) vì lìa lão đã đi rồi bà đi là sự thể hiện tinh thần hi sinh vì những người thân tỏng gia đình và mong muốn nước sớm được bình yên. Bà lão đã lên đường và sự việc bà lão bị bắt đi lính càng làm tăng thêm hiệu quả tố cáo sự tàn bạo của nhà Đường. Câu chuyện gồm nhiều sự kiện sảy ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy gắn chặt với những hành động thật đau lòng. Nó chính là hiện thực xã hội Trung Hoa những năm 1755 – 1763. Bị cuốn hút vào cái kiến cố của cuộc sống đầy biến động con người phải lao động để sống. Con người đời thường không còn thời gian dảnh rỗi để nghiên ngẫm về cuộc sống vì thế thời gian đời thường bị thu hẹp dồn nén trong khoảng khắc nhất định một ngày một đêm và không tách rời với những sự kiện vừa xảy ra hay đã và đang x

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29860.doc