Đề tài Thời hiệu trong dân sự

MỤC LỤC

Phần mở đầu. Tính cấp thiết của đề tài.

Phần một. Lý luận về thời hiệu trong dân sự.

I. Khái niệm

1. Khái niệm về thời hiệu

1.1. Các loại thời hiệu.

1.2. Cách tính thời hiệu.

2. Bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự.

3. Hiệu lực của thời hiệu hưởng quyền.

4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.

5. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.

II. Thời hiệu áp dụng trong luật dân sự.

1. Việc áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế.

1.1. Quyền thừa kế.

1.2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.

1.3. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do ngời chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.

1.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện.

2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu đối với giao dịch dân sự.

2.1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 1/7/1996.

2.2. Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày /7/1996 đến trước ngày 1/1/2005.

2.3. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 1/1/2005.

2.4. Về thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.

2.5. Đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8-1998.

2.6. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định của Nghị quyết 1037/2006 của Ủy ban hường vụ Quốc hội.

2.7. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế quyền sử dụng đất.

3. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự.

4. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Phần hai. Thực tiễn áp dụng các quy định về thời hiệu trong dân sự.

1. Thực trạng áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn.

1.1. Tình hình giải quyết.

1.2. Nguyên nhân và những vướng mắc.

2. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.

Phần ba. Kết luận.

Phần bốn. Tài liệu tham khảo.

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4176 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thời hiệu trong dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau: Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thỏa thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thỏa thuận của họ. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tai sản chung. Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lí, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo ủy quyền… thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu đối với các giao dịch dân sự. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 1/7/1996 (ngày Bộ luật dân sự có hiệu lực) mà các văn bản pháp luật trước đây có quy định về thời hiệu (thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện) thì phải áp dụng các quy định về thời hiệu của các văn bản pháp luật đó để xác định thời hiệu còn hay hết, không phân biệt giao dịch đó được thực hiện xong trước ngày 1/7/1996 hay từ ngày 1/7/1996. Trong trường hợp từ ngày 1/7/1996 các bên tham gia giao dịch dân sự có thỏa thuận bổ sung thì cần phân biệt như sau: Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự hoặc khi hết thời hạn thực hiện hợp đồng, có thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng đó thì việc xác định thời hiệu căn cứ vào thỏa thuận của các bên và được thực hiện theo quy định của các văn bản pháp luật có hiệu kực tại thời điểm giao kết hợp đồng. Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự, có thỏa thuận bổ sung mà thỏa thuận đó là một phần không tách rời của hợp đồng dân sự đó thì việc xác định thời hiệu đối với hợp đồng nói chung (bao gồm cả thỏa thuận mới) được thực hiện theo quy định của các văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao kết hợp đồng. Trường hợp các bên đang tiếp tục thực hiện hợp đồng dân sự, có thỏa thuận bổ sung mà thỏa thuận đó như một hợp đồng mới thay thế hợp đồng cũ hoặc hoàn toàn độc lập với hợp đồng cũ, thì việc xác định thời hiệu đối với thỏa thuận mới được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự. Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/7/1996 đến trước ngày 1/1/2005. mà Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác không có quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì kể từ ngày 1/1/2005 (ngày bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 có hiệu lực) việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được thực hiện theo quy định tại điều 159 của bộ luật tố tụng dân sự; cụ thể như sau: Thời hiệu yêu cầu để tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày 1/1/2005, nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 1/1/2005 hoăcj kể từ ngày phát sinh tranh chấp, nếu tranh chấp phát sinh từ ngày 1/1/2005. Thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là 1 năm, kể từ ngày 1/1/2005, nếu quyền yêu cầu phát sinh trước ngày 1/1/2005 hoặc kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, nếu yêu cầu phát sinh từ ngày 1/1/2005. Đối với giao dịch dân sự được xác lập từ ngày 1/1/2005 mà Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác không có quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được thực hiện theo quy định tạiđiều 159 Bộ luật tố tụng Dân sự. Về thời hạn yêu cầu tòa tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996 thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 15 của pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 bao gồm: nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức của xã hội; một hoặc các bên không có quyền giao kết hợp đồng (chủ thể giao kết hợp đồng không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng năm 1991), thì thời gian yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế. Trong mọi thời điểm một bên hoặc các bên đều có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Trong trường hợp các bên vẫn thực hiện hợp đồng và phát sinh tranh chấp, cho nên một bên hoặc các bên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, nếu trong quá trình giải quyết Tòa án xác định giao dịch dân sự đó là vô hiệu thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 15 của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, thì Tòa án có quyền tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu và xử lí hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm giao dịch được xác lập. Đối với giao dịch dân sự được giao kết trước ngày 1/7/1996 thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 15 của Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 bao gồm: hợp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên xác lập, thực hiện ( do có vi phạm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991); do một bên bị nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng; bị đe dọa hoặc bị lừa dối, thì thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 56 của Pháp lệnh hợp đồng dân sự là 3 năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Hết thời hạn 3 năm mà không có yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thì giao dịch dân sự đó được coi là có hiệu lực. Trong trường hợp các bên vẫn thực hiện hợp đồng và phát sinh tranh chấp, cho nên một bên hoặc các bên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, nếu đã hết thời hạn 3 năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập, thì họ không có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu vì lí do vi phạm quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 15 của Pháp lệnh hợp đồng dân sự.Trong trường hợp này Tòa án tiến hành giải quyết tranh chấp giao dịch dân sự theo thủ tục chung. Đối với giao dịch dân sự được giao kết từ ngày 1/7/1996 mà có yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dânc sự vô hiệu, thì áp dụng các quy định tại Điều 145 của Bộ luật dân sự về thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 và theo hướng dẫn tại Thông tư Liên tịch số 01/1999/TTLT ngày 25/1/1999 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội” thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 không tính vào thời điểm khởi kiện. Ngày 20/10/1995, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua BLDS 1995 (có hiệu lực từ ngày 1/7/1996), Điều 4 Nghị quyết Quốc hội khóa 9, kì họp thứ 8 về việc thi hành BLDS này có quy định: “Đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 thì sẽ thực hiện theo quy định của Quốc hội”. Do đó, sau khi Nghị quyết nói trên có hiệu lực, Tòa án không thụ lí giải quyết các giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991, nếu đã thụ lí thì tạm đình chỉ giải quyết, chờ quy định mới của Quốc hội. Ngày 20/8/1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sựu về nhà ở xác lập trước ngày 1/7/1991 (viết tắt là Nghị quyết số 58/1998) đã có quy định cụ thể về hướng giải quyết các tranh chấp này. Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 của Nghị quyết số 58/1998 nói trên thì “thời gian từ 1-7-1996 đến ngay Nghị quyết này có hiệu lực (ngày 1-1-1999) không tính vào thời hiệu trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991”. Như vậy đối với các giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 1-7-1991 thì thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện là 2 năm 6 tháng. Do đó, đối với các vụ án tranh chấp di sản thừa kế có di sản là nhà ở mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 10-9-1990, thì thời điểm để kết thúc thời hiệu của các tranh chấp về di sản thừa kế được kéo dài hơn, (đến ngày 10-3-2003 mới hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế). Đối với các trường hợp mở thừa kế từ ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện 10 năm được tính từ ngày mở thừa kế. Vì vậy, thời điểm hết thời hiệu khởi kiện dài nhất theo quy dịnh của Nghị quyết số 58/1998 đối với các trường hợp mở thừa kế trước ngày 1-7-1991 mà có di sản là nhà ở (chưa có tình huống có trở ngại khách quan hoặc trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện) sẽ là ngày 30-12-2003 (vì thời gian từ ngày 1-7-1996 đén ngày 1-1-1999 là 2 năm 6 tháng không tính vào thời hiệu khởi kiện). Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định của Nghị quyết 1037/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 58/1998 đã quy định “Nghị quyết này không áp dụng đối với giao dịch được xác lập trước nVgày 1-7-1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia”. Do đó, đối với các giao dịch dân sự về nhà thuộc sỏ hữu tư nhân, được xác lập trước ngày 1-7-1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia thì Tòa án vẫn chưa thụ lí giải quyết, nếu đã thụ lí thì tiếp tục tạm đình chỉ giải quyết chờ nghị quyết của Quốc hội. Nghị quyết 1037/2006 có hiệu lực từ ngày 1/9/2006. tại khoản 2 Điều 39 Nghị quyết 1037/2006 đã quy định: “thời gian từ ngày 1-7-1996 đén ngày Nghị quyết này có hiệu lực không tính vào thời hiệu trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự là nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia”. Như vậy, đối với các tranh chấp thừa kế có di sản là nhà ở, có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia được quy định trong Nghị quyết 1037/2006 thì cần chú ý: Nếu thời điểm mở thừa kế là trước ngày ban hành pháp lệnh thừa kế (trước ngày 10-9-1990) thì thời hiệu được tính từ ngày 10-9-1990. Thời gian từ ngày 1-7-1996 (ngày BLDS 1995 có hiệu lực) đến ngày 1-9-2006 (ngày Nghị quyết 1037/2006 có hiệu lực) là 10 năm 2 tháng không tính vào thời hiệu khởi kiện chia thừa kế. Do đó, tất cả các trương hợp tranh chấp thừa kế về nhà ở có thời điểm mở thừa kế trước ngày 10-9-1990 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia thì đến ngày 10-11-2010 là hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế (chưa kể tình huống có trở ngại khách quan hoặc trường hợp bắt đầu lại thời hiệu). Trường hợp thời điểm mở thừa kế bắt đầu từ ngày 10-9-1990 cho đến ngày 1-7-1991 thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là 10 năm kể từ ngày mở thừa kế, nhưng thời gian từ ngày 1-7-1996 đến ngày 1-9-2006 là 10 năm 2 tháng không tính vào thời hiệu khởi kiện. Ngoài các trường hợp nêu trên không thấy có quy định nào khác trong việc tính lại thời hiệu khởi kiện các vụ án thừa kế nói chung và thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng. Do đó, đối với các tranh chấp thừa kế về quyền sử dụng đất hoặc trong một vụ án vừa có tranh chấp về thừa kế nhà đất, vừa tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất ( trên đất không có nhà ở) thì thời hiệu khởi kiện sẽ theo các quy định chung đã được quy định trong Pháp lệnh thừa kế và BLDS. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế quyền sử dụng đất. Có hai quan điểm về tính thời hiệu khởi kiện về thừa kế quyền sử dụng đất. Quan điểm thứ nhất: Thời điểm tính thời hiệu khởi kiện thừa kế quyền sử dụng đất là từ khi mở thừa kế.Quan điểm này dựa trên các căn cứ sau: Căn cứ pháp luật: các quy định của pháp luật hiện hành, đó là điều 36 Pháp lệnh thừa kế, Điều 648 BLDS năm 1995, Điều 645 BLDS 2005, Bộ luật tố tụng dân sự 2004, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành pháp lệnh thừa kế năm 1990, Nghị quyết số 58/1998 và luật Đất đai 1987, luật Đất đai 1993 và luật Đất đai 2003. Các văn bản pháp luật nói trên và các văn bản pháp luật liên quan khác, không có văn bản nào quy định về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất được tính thời hiệu khởi kiện khác. Căn cứ thực tiễn xét xử: do các văn bản pháp luật quy định thời điểm tính thời hiệu khởi kiện thừa kế quyền sử dụng đất là 10 năm tính từ thời điểm mở thừa kế, trừ các trường hợp mở thừa kế trước ngày Pháp lệnh thừa kế được công bố (ngày 10-9-1990) thì theo quy định tại khoản 4 Điều 36 pháp lệnh thừa kế, thời điểm tính thời hiệu 10 năm từ ngày công bố pháp lệnh và có hai trường hợp kéo dài thời hiệu được quy định trong Nghị quyết số 58/1998 và Nghị quyết số 1037/2006 nói trên. Ngoài ra, không có văn bản nào quy định khác về việc tính thời hiệu khởi kiện thừa kế quyền sử dụng đất, nên phần lớn các bản án của các Tòa án đều tính thời hiệu giải quyết các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất là 10 năm kể từ ngày mở thừa kế. Quan điểm thứ hai về thời điểm tính thời hiệu khởi kiện thừa kế quyền sử dụng đất. Thời điểm tính thời hiệu khởi kiện thừa kế quyền sử dụng đất là từ khi luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực (ngày 15-10-1993). Hiện nay có quan điểm cho rằng, phải tính thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất từ khi luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực, vì cho rằng trước đó nhà nước chưa cho công dân thừa kế quyền sử dụng đất, chỉ đến khi có luật Đất đai năm 1993, tai điều 3, Điều 46 của luật này đã công nhận công dân có quyền thừa kế quyền sử dụng đất, nên việc tính thời hiệu thừa kế quyền sử dung đất phải lấy từ thời điểm luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực để đảm bảo quyền thừa kế của công dân. Thời điểm BLDS 1995 có hiệu lực, có những thừa kế không được quyền khởi kiện chia thừa kế, vì không đủ điều kiện được quyền thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản (Điều 740, 744 BLDS) hoặc đất đó không được coi là di sản thừa kế. Để công bằng với các trường hợp khác cũng không tính thời hiệu trong thời gian luật không cho họ quyền được kiện và thời hiệu khởi kiện bắt đầu kể từ khi rào cản này bị dỡ bỏ (ngày BLDS năm 2005 có hiệu lực) thì họ mới không bị thiệt thòi so với thừa kế khác.Nếu đã coi thời gian pháp luật không cho công dân được khởi kiện chia thừa kế quyền sử dụng đất là trở ngại khách quan để không tính vào thời hiệu khởi kiện thừa kế quyền sử dụng đất sẽ dẫn đến có loại đất đến nay vẫn chưa xác định được thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của thời hiệu. Đó là đất do người chết tạo lập được, nhưng chưa có một loại giấy tờ gì theo quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003.Do đó, thời điểm tính thời hiệu tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất phải được xác định như sau: Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 1-7-1991 có di sản thừa kế là nhà ở (trên đất có tài sản là nhà ở) thì thời hiệu được tính theo Nghị quyết số 58/1998, Nghị quyết số 1037/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đối với di sản thừa kế là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài snr là cây lưu niên, nhà dùng để chăn nuôi, sản xuất hoặc các công trình khác (không phải là nhà ở)…nếu thời điểm mở thừa kế trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu khởi kiện là 10 năm (tính từ ngày 10-9-1990). Đối với các trường hợp mở thừa kế từ ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện là 10 năm (kể từ ngày mở thừa kế). Đối với các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất (trên đất không có tài sản) mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 15-10-1993 (ngày luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực), mà đất đó có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp theo luật Đất đai 1993, thì thời hiệu 10 năm được tính từ ngày 15-10-1993. (lấy thời điểm 15-10-1993 là chưa phù hợp với thực tế, vì lúc luật Đất đai có hiệu lực không có người dân nào được cấp ngay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo luật Đất đai năm 1993, mà phải sau một thời gian khá dài mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lấy thời điểm ngày 15-10-1993 chỉ là lựa chọn đơn thuần về pháp lí, đó là thời điểm nhà nước cho công dân thừa kế quyền sử dụng đất và theo Điều 38 luật Đất đai 1993, thông tư liên tịch số 02-TTLT ngày 28-7-1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục địa chính hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo khoản 3 Điều 38 luật Đất đai năm 1993 thì đất được cấp giấy chứng nhậnquyền sử dụng đất theo luât Đất đai năm 1993 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tòa án sẽ chia thừa kế khi có yêu cầu). Đối với các trường hợp tranh chấp di sản thừa kế là quyền sử dụng đất mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 18-1- (Ngày thông tư số 01/2002/TTLT/TANDTC- VKSNDTC- TCĐC của tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục địa chính hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất có hiệu lực) mà đất đó được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo luật Đất đai năm 1987, thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế tính từ ngày 18-1-2002 (đây là thời điểm mà đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo luật Đất đai năm 1987 mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và mới coi di sản thừa kế để chia, còn thời gian trước đó không được coi là di sản không được chia thừa kế theo pháp luật về thừa kế). Đối với đất có một trong các loại giấy tờ được quy định trong khoản 1, 2 và 5 Điều 50 luật Đất đai 2003 thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế quyền sử dụng đất là 10 năm tính từ ngày luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực (ngày 1-7-2004) Đối với đất nông nghiệp để trông cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản được cấp cho hộ gia đình thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là 10 năm tính từ ngày 1-1-2006 ngày BLDS 2005 có hiệu lực. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự. Theo quy định tại điều 427 BLDS 2005 thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi íc hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo quy định tại điều 607 BLDS 2005 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Theo quy định tại Nghị quyết số 03/2006/NQ/HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì việc xác định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại được thực hiện như sau: Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh kể từ ngày 1/1/2005 (ngày Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực) thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm; đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trước ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày 1/1/2006. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trước ngày 01/01/2006 (ngày Bộ luật dân sự 2005 có hiệu lực), thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự 1995, các văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Bộ luật dân sự năm 1995 và hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2004/NQ/HĐTP ngày 28/4/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để giải quyết. Đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành mà trong đó có quyết định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hướng dẫn trong Nghị quyết này, thì không áp dụng Nghị quyết này để kháng nghi theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, trử trường hợp việc kháng nghị bản án hoặc quyết định có căn cứ khác. Phần hai: Thực tiễn áp dụng các quy định về thời hiệu trong dân sự. Thực trạng áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện các vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn. Tình hình giải quyết. Năm 2009 và đầu năm 2010 Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn đã nhận được 30 đơn khởi kiện về dân sự. Trong số 30 đơn thì Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn thụ lí 28 vụ, trả lại 2 đơn kiện do hết thời hiệu khởi kiện. Trong số 28 vụ thì có 20 vụ là tranh chấp về hợp đồng dân sự, 3 vụ về khởi kiện bồi thường thiệt hại và 5 vụ là tranh chấp về thừa kế. Trong suốt quá trình thực tập tại Tòa án tôi nhận thấy Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn đã áp dụng đúng theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thời hiệu khởi kiện đối với các vụ án dân sự. Về quá trình thụ lí đơn được thực hiện như sau: đối với các đơn còn thời hiệu khởi kiện thì tiến hành thụ lý theo quy định của pháp luật. Đối với những đơn khởi kiện đã hết thời hiệu khởi kiện thì có hai trường hợp có thể xảy ra. Một là trả lại đơn kiện. Hai là thụ lí đơn kiện trong trường hợp nguyên đơn đưa ra được lí do chính đáng được quy định tại Điều 161 BLDS 2005. 1.2. Nguyên nhân và những vướng mắc. Nguyên nhân: Vì thời hiệu khởi kiện là một vấn đề rất phức tạp do đó có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về thời hiệu khởi kiện và mỗi văn bản lại có quy định khác nhau. Chính vì thế đã gây ra khó khăn cho người dân khi xác định thời hiệu khởi kiện một vụ án dân sự, bởi vì mỗi loại vụ án dân sự lại có quy định thời hiệu khởi kiện khác nhau, nên đã gây ra nhầm lẫn cho người dân khi xác định thời hiệu khởi kiện. Nguyên nhân thứ hai là do có nhiều văn bản quy định khác nhau về thời hiệu khởi kiện do đó dẫn đến sự chồng chéo nhau giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì thế gây ra khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết vụ án để đảm bảo thực hiện đúng pháp luật. Vướng mắc: Qua việc nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật về thời hiệu khởi kiện thì nhận thấy có một số vướng mắc sau: Nhận thấy điểm 2.4, mục 2 phần 1 của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP có thiếu sót như sau: Tại điểm a tiểu mục 2.4 Mục 2 phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP quy định hai trường hợp: Một là, trường hợp trong thời gian 10 năm, kể từ thời diểm mở thừa kế mà các đông thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết. Hai là, sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết. Cả hai trường hợp trên đây đều chưa có sự kiện pháp lí để chấm dứt quan hệ thừa kế và làm phát sinh quan hệ sở hữu. Vì vậy, di sản thừa kế là khách thể của quan hệ thừa kế không thể trở thành khách thể của quan hệ sở hữu. Hay nói cách khác là di sản thừa kế của các đồng thừa kế không thể trở thành tài sản chung của các chủ sở hữu (các thừa kế) được. Do đó, khi có tranh chấp không thể áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết. Vướng vắc thứ hai gặp phải trong việc quy định thời hiệu đó là còn nhiều quan điểm về việc tính thời hiệu khởi kiện quyền sử dụng đất. Chính vì thế đã gay ra nhiều vướng mắc trong quá trình giải quyết, cụ thể là: Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đã được Ủy ban nhân dân giải quyết theo thẩm quyền. Những năm 1980 thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân rất hạn chế nhưng thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai (trong đó có quyền sử dụng đất do người chết để lại) của Ủy ban nhân dân rất rộng. việc Ủy ban nhân dân xử lí di sản thừa kế là quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của mình có thể xuất phat từ hai lí do sau: + Một là: các thừa kế có tranh chấp với nhau; + Hai là: người đang quản lí, sử dụng di sản thừa kế có yêu cầu Ủy ban nhân dân công nhận quyền sử dụng đất cho họ v.v… họ đã làm thủ tục kê khai, xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi xử lí các trường hợp này, với chức năng nhiệm vụ của người được giao quản lí đất, Ủy ban nhân dân không căn cứ vào pháp luật về thừa kế để phân chia, mà dựa vào luật Đất đai, pháp luật đất đai để xử lí. Thông thường, Ủy ban nhân dân lấy tiêu chí là người nào đang có ít đất, hoặc đang quản lí, sử dụng đất đó v.v… đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật ở thời điểm đó. Nay có nên coi quyền sử dụng do người chết để lại. Đã coi thời gian pháp luật không cho công dân được thừa kế quyền sử dụng đất là trở ngại khách quan để kéo dài thời hiệu khởi kiện thừa kế quyên sử dụng đất thì không thể chỉ lấy một thời điểm là năm 1993 mà phải căn cứ vào Luật Đất đai, BLDS để xác định thời điểm, mới tạo ra sự công bằng và thống nhất trong xử lí bởi vì: luật Đất đai mới quy định chung về nguyên tắc công dân đượ thừa kế quyền sử dụng đất, nhưng chưa quy định cụ thể loại đất nào được chia thừa kế. Trong khi đó thì BLDS năm 1995 lại quy định rất cụ thể, chặt chẽ về thừa kế quyền sử dụng đất: chỉ quy định một số loại đất được để thừa kế. Đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản cấp cho hộ gia đình thì không được chia t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThời hiệu trong dân sự.doc