Đề tài Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn trong những năm thực hiện đường lối đổi mới

Trong những năm qua, nhìn chung thu nhập của các tầng lớp dân cư đều tăng, nhưng vẫn có một bộ phận dân cư thiếu lao động, vốn và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh nên thu nhập của họ tăng chậm hơn, làm cho khoảng cách chênh lệch giầu nghèo và bất bình đẳng trong phân bổ thu nhập giữa các nhóm dân cư gia tăng. Đồng thời vẫn còn một số vấn đề xã hội khác đang chậm được khắc phục như vấn đề thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn vẫn còn ở mức cao; các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc chưa được chặn đứng; ách tắc giao thông ở các đô thị và tai nạn giao thông có xu hướng gia tăng, vẫn còn nhiều trẻ em chưa được đến trường và cơ cấu đào tạo còn nhiều bất hợp lý, tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” trong nền kinh tế có xu hướng ngày càng trầm trọng; chỉ số giá cả tăng cao .

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùng nhau phấn đấu xây dựng một xã hội tốt đẹp trong đó mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Trải qua 19 năm thực hiện công cuộc đổi mới, những kết quả ban đầu khả quan đã càng củng cố và khẳng định chúng ta có đầy đủ khả năng để thực hiện thành công quá trình quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cũng có lúc, có nơi chúng ta mắc phải những sai lầm và trong đó có những sai lầm bắt nguồn từ việc nhận thức chưa đúng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, để tránh lặp lại những sai lầm đã mắc phải, chúng ta cần luôn nhận thức đúng về con đường quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cần phải hiểu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa về chính trị là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản và của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa chứ không có nghĩa là bỏ qua sở hữn tư nhân và kinh tế tư bản tư nhân. Còn về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng chúng ta phải biết nhận thức, tiếp thu và tranh thủ tận dụng những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là về khoa học, công nghệ, vốn và kinh nghiệm quản lý để đẩy nhanh quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta và rút ngắn thời gian xây dựng nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta cũng phải xác định rõ con đường rút ngắn chỉ có thể thực hiện thành công khi chính quyền thực sự thuộc về tay nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và biện pháp thực hiện là phải phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có được như vậy thì mọi tiềm năng của đất nước đều được phát huy và sử dụng có hiệu quả, những mặt tích cực của kinh tế thị trường được phát huy và những khuyết tật của nó bị hạn chế. Từ những hiểu biết đầy đủ và đúng đắn về con đường quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhằm làm thay đổi căn bản tình trạnh kinh tế-xã hội, xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển ở trình độ cao tại Việt Nam, Đảng ta đã đề ra những nhiệm vụ kinh tế cơ bản cần thực hiện trong thời kỳ quá độ ở nước ta như sau: + Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải phát triển lực lượng sản xuất thông qua việc thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước. Chúng ta phải thực hiện CNH để chuyển nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp phát triển, giúp nước ta xây dựng được cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Tuy nhiên, vì nước ta có xuất phát điểm quá thấp, lại thực hiện CNH quá muộn nên khoảng cách chênh lệch giữa nước ta và các nước phát triển đã rất xa và ngày càng xa hơn. Vì vậy chúng ta phải thực hiện CNH gắn liền với HĐH nhằm kết hợp những bước phát triển tuần tự với những bước phát triển nhẩy vọt để thu hẹp khoảng cách chênh lệch này. Trong quá trình thực hiện CNH-HĐH đất nước, chúng ta phải ưu tiên phát huy nhân tố con người vì đây là nhân tố quan trọng nhất và mang tính quyết định nhất. Do đó, chúng ta cần đầu tư một cách thoả đáng và hiệu quả thông qua các chính sách giáo dục, đào tạo và các vấn đề về tuyển dụng, sử dụng, quản lý và đãi ngộ… những người lao động. + Cùng với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất, nước ta phải thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Để thực hiện nhiệm vụ này, trước hết cần xác định đối với nước ta, tất yếu phải tồn tại nhiều chế độ sở hữu khác nhau và do đó nền kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần. Từ thực tế này, chúng ta cần phải thực hiện chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, trong đó tạo điều kiện để thành phần kinh tế nhà nước dần vươn lên giữ vai trò chủ đạo nhưng vẫn đảm bảo tính dân chủ và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Do tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau nên dẫn đến trong nền kinh tế cùng tồn tại nhiều hình thức phân phối khác nhau. Nhưng chúng ta luôn phải xác định rõ phân phối theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vì đây là hình thức phân phối cơ bản nhất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. + Để thực hiện thành công con đường quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì một nhiệm vụ rất quan trọng và không thể thiếu là phải mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ giúp chúng ta thu hút được các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước, góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới, nâng cao năng suất lao động. Đồng thời, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại cũng có ý nghĩa to lớn về mặt quan hệ sản xuất đối với nước ta, giúp chúng ta đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt mục tiêu này, Việt Nam cần có những chính sách nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong nước được bình đẳng tham gia vào các quan hệ kinh tế đối ngoại, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước theo tiêu chuẩn của thị trường thế giới, phải thực hiện mở cửa và hội nhập với nước ngoài theo phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Phần II: Những thành tựu và hạn chế của Việt Nam khi thực hiện quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Với việc xem chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của mình và vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế của Việt Nam, trong những năm qua, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức to lớn. Đặc biệt là sau khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đến nay chúng ta đã thu được những thành tựu rất cơ bản và có ý nghĩa nhiều mặt, mặc dù cũng bộc lộ không ít mặt còn hạn chế. Những thành tựu chủ yếu của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Mặc dù đường lối đổi mới toàn diện được bắt đầu thực hiện từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, nhưng những kết quả mà nó đem lại chỉ thực sự hiện rõ từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Kể từ năm 1990, nền kinh tế Việt Nam có xu hướng tăng trưởng ổn định ở mức khá cao. Chỉ đến khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực xẩy ra vào cuối năm 1997 thì xu hướng này tạm thời bị gián đoạn trong hai năm 1998 và 1999. Tuy nhiên, từ năm 2000 cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã lấy lại đà tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước và thuộc vào hàng những nước có nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới. Bảng 1: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) từ năm 1990 đến 2004 (đơn vị: %) 1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 GDP 5,09 9,54 9,34 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,08 7,26 7,7 Nông, lâm, thuỷ sản 1,0 4,8 4,4 4,33 3,53 5,23 4,63 2,98 4,16 3,25 3,5 Công nghiệp – xây dựng 2,27 13,6 14,46 11,62 8,33 7,68 10,07 10,39 9,48 10,35 10,2 Dịch vụ 10,19 9,83 8,8 7,14 5,08 2,25 5,32 6,1 6,54 6,57 7,5 Nguồn: Niên giám thống ke 2003, NXB Thống kê-Hà Nội, 2004 tr 50. Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 30/12/2004. Đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của nền kinh tế là sự phát triển của những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Trong những năm qua, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản duy trì được mức tăng trưởng trung bình qua các năm. Đặc biệt trong ngành nông nghiệp, lĩnh vực sản xuất lương thực đã thu được những thành công quan trọng. Sản lượng lương thực tăng nhanh nên mặc dù dân số nước ta cũng tăng nhưng mức lương thực bình quân đầu người đã tăng từ 303,2 kg năm 1990 lên 443,9 kg năm 2000 Tình hình kinh tế – xã hội 10 năm 1991-2000, NXB Thống kê 2001, tr 2. , và lượng lương thực sản xuất được hàng năm không những đủ cho tiêu dùng trong nước mà còn được xuất khâủ. Mỗi năm nước ta xuất khâủ được từ 3 - 4 triệu tấn gạo, thuộc nhóm các nước xuất khâủ gạo hàng đầu thế giới. Sản lượng thuỷ sản khai thác và nuôi trồng từ năm 1999 đến nay luôn duy trì được mức tăng cao, và mức tăng trung bình trong thời kỳ 2001-2003 là 11,2% Kinh tế xã hội 3 năm 2001-2003, NXB Thống kê 2003, tr 4 . Sản xuất công nghiệp của Việt Nam từ năm 1991 đến nay luôn duy trì mức tăng trưởng cao, kể cả trong thời gian chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực. Một số ngành công nghiệp quan trọng phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Từ năm 1990 đến năm 2000, sản lượng than khai thác đã tăng 2,3 lần, dầu thô tăng 6,0 lần, điện tăng 3,0 lần xi măng tăng 5,3 lần, thép cán tăng 16,5 lần, phân hoá học tăng 3,8 lần, ti-vi lắp ráp tăng 7,2 lần và quần áo may sẵn tăng 2,7 lần Tình hình kinh tế – xã hội 10 năm 1991-2000, NXB Thống kê 2001, tr 4 . Ngành dịch vụ đã có những bước phát triển mạnh, đặc biệt là lĩnh vực liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế và phát triển đô thị. Nhưng kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực, ngành dịch vụ luôn có mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng chung của toàn bộ nền kinh tế. Một trong những mục tiêu đặt ra trong đường lối đổi mới mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là tăng trưởng đi liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tốt trong cơ cấu kinh tế và rõ nét nhất là chuyển dịch cơ cấu ngành. Tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp và dịch vụ theo giá hiện hành chiếm trong GDP đã tăng dần, trong khi tỷ trọng nông nghiệp trong GDP dần giảm xuống. Bảng 2: Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế. (đơn vị: %) Ngành 1990 1995 2000 2003 2004 Nông, lâm, thuỷ sản 38,7 27,2 24,5 21,8 20,4 Công nghiệp, xây dựng 22,7 28,8 36,7 40,0 41,1 Dịch vụ 38,6 44,0 38,7 38,2 38,5 Nguồn: Tình hình kinh tế-xã hội 10 năm 1991-2000, Tổng cục thống kê, tr 2. Kinh tế Việt Nam 2003, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, tr 24. Cơ cấu kinh tế cũng có những chuyển biến tích cực theo hướng hình thành các vùng động lực phát triển kinh tế, vùng chuyên canh và các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất quy mô lớn. Ngoài ra, chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo động lực cho sự tăng trưởng và giúp cơ cấu kinh tế các thành phần kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Các doanh nghiệp nhà nước đã được tổ chức, sắp xếp lại và thực hiện chủ trương cổ phần hoá nên số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm nhiều nhưng tỷ trọng của khu vực này trong GDP đã tăng từ 31,1% năm 1991 và 34,3% năm 1992 lên 38,31% năm 2002 và 39,08% năm 2003, luôn là thành phần kinh tế có tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước. Các thành phần kinh tế khác cũng đều được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển, nhờ đó phát huy được tiềm năng và các nguồn lực của chúng. Những năm qua, thành phần kinh tế tư nhân có xu hướng tăng nhanh, tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực kinh tế tư nhân đạt 13,9% năm 2002 và 10,5% năm 2003 nhưng đóng góp của khu vực này vào giá trị gia tăng chung còn thấp, chỉ khoảng 4,1% năm 2003. Còn thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tăng nhanh, nhưng gần đây tốc độ tăng giá trị gia tăng của thành phần này lại giảm sút từ mức 11,4% năm 2000 xuống còn 8,1% năm 2003 Kinh tế Việt Nam 2003, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Hà Nội 2004, tr 26. . Kinh tế tập thể cũng đã có bước phát triển mới với nhiều hình thức đa dạng, góp phần tích cực tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo một cách bền vững. Nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng cùng với những biện pháp nhằm bình ổn giá cả, thực hiện tốt các chương trình xã hội nên đời sống các tầng lớp dân cư ở cả thành thị và nông thôn đều đã được cải thiện đáng kể. Theo kết quả của các cuộc điều tra khảo sát mức sống dân cư, điều tra giầu nghèo và điều tra hộ gia đình từ năm 1999 đến nay cho thấy thu nhập bình quân mỗi người một tháng theo giá thực tế đã tăng từ 92,1 nghìn đồng năm 1992 lên 206,1 nghìn đồng năm 1995, 295,0 nghìn đồng năm 1999 và trong năm 2001-2002 là 356,8 nghìn đồng Bảng 3: Thu nhập bình quân mỗi người một tháng (đơn vị: nghìn đồng) 1992 1995 1999 2001-2002 Chung 92,1 206,1 295,0 356,8 Thành thị 151,2 452,8 832,5 625,9 Nông thôn 77,4 172,5 225,0 271,9 Nguồn: : Tình hình kinh tế-xã hội 10 năm 1991-2000, Tổng cục thống kê. Kinh tế xã hội 3 năm 2001-2003, Tổng cục thống kê. Những hộ có thu nhập cao ngoài chi tiêu cho đời sống hàng ngày còn có tích luỹ xây dựng nhà ở, mua sắm đồ dùng đắt tiền, sử dụng điện nước và chi các khoản khác góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Một thành tựu hết sức nổi bật và được thế giới đánh giá rất cao là thành công của Việt Nam trong xoá đói giảm nghèo thời kỳ đổi mới. Tỷ lệ hộ nghèo về lương thực, thực phẩm đã giảm từ 55% năm 1990 xuống còn 16,5% năm 1995 và 11,3% năm 2000 Tình hình kinh tế – xã hội 10 năm 1991-2000, NXB Thống kê, Hà Nội 2001, tr 8. . Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2004 chỉ còn khoảng 8,3%, giảm hơn một nửa so với năm 2001 Thời báo Tài chính Việt Nam – Xuân 2005. . Nếu dựa trên chỉ số phát triể con người (HDI) vốn được coi là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp thể hiện mức sống kết hợp với giáo dục và y tế thì trong những năm qua, Việt Nam đã có những thành tựu rất đáng coi trọng. Đường lối mở cửa và hội nhập kinh tế của Việt Nam trong những năm qua cũng đã đem lại những thành tựu quan trọng, làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên rõ rệt. Mỹ đã chấm dứt chính sách bao vây cấm vận kinh tế chống Việt Nam và hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12/07/1995, ngày 27/08/1995, Việt Nam ký với Liên minh Châu Âu Hiệp định chung về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật ngày 17/07/1995. Ngày 28/07/1995, nước ta gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) và năm 1998 nước ta đã trở thành thành viên của Diễn đàn kinh tế các nước Châu á – Thái Bình Dương (APEC). Nhờ vậy, cùng với việc mở rộng quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ, đa dạng hoá thị trường nên tổng mức lưu chuyển ngoại thương của Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Bảng 4: Giá trị Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam. (đơn vị: tỷ USD) 1990 1995 2000 2003 2004 Xuất khẩu 2,4 5,44 14,48 20,18 26,0 Nhập khẩu 2,75 8,16 15,64 25,23 31,5 Nguồn: Niên giám thống kê 2003, NXB Thống kê, tr 324. Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 03/01/2005. Nhìn chung, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến, giảm dần tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản; các mặt hàng xuất khẩu được giữ vững, mở rộng và khai thác tốt, đặc biệt là những mặt hàng có tỷ trọng lớn, đảm bảo đầu ra ổn định cho nông sản và các hàng hoá khác; cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam cũng được mở rộng và đa dạng hoá. Nhập khẩu cũng hướng chủ yếu tới các mặt hàng là tư liệu sản xuất phục vụ sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, do môi trường kinh doanh được cải thiện, Luật Đầu tư nước ngoài sau 7 lần được sửa đổi đã tăng sức hấp dẫn, thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tính đến năm 2003, Việt Nam đã thu hút được trên 4000 dự án với tổng số vốn đăng ký là 44.706,8 triệu USD Những vấn đề kinh tế thế giới, số 10 năm 2004, tr 69. . Riêng năm 2004, tổng số vốn FDI đưa vào Việt Nam đã đạt ngưỡng 4 tỷ USD, tăng 900 triệu USD so với năm 2003 và là mức tăng cao nhất trong vòng 7 năm qua. Cộng đồng quốc tế cũng đánh giá cao mức tăng trưởng kinh tế ổn định của Việt Nam và quyết tâm của Chính Phủ Việt Nam trong việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, do đó số vốn mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam luôn tăng, mặc dù xu thế hiện nay là các nước cắt giảm nguồn vốn viện trợ. Riêng năm 2005, các nhà tài trợ đã cam kết cho Việt Nam vay 3,4 tỷ USD. Những hạn chế và bất cập còn tồn tại trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam. Mặc dù đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng và nổi bật, nhưng quá trình thực hiện đổi mới toàn diện, đưa nước ta quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại một số hạn chế và bất cập. Những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và khá ổn định nhưng do xuất phát điểm thấp nên đến nay quy mô nền kinh tế nước ta vẫn ở mức thấp. Mặt khác, mức tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn còn bị hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Nước ta tuy co quy mô dân số lớn và thu nhập của cư dân đã tăng lên nhưng nhìn chung, sức mua của thị trường trong nước vẫn còn hạn hẹp, trong khi đó hàng hoá và dịch vụ lại thiếu sức cạnh tranh nên xuất khẩu còn bị hạn chế. Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng khác hạn chế tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế nước ta những năm qua là do cơ cấu kinh tế của nước ta tuy đã chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng nhìn chung vẫn chưa ra khỏi cơ cấu ngành truyền thống với tỷ trọng tương đối cao của khu vực sản xuất vật chất nói chung và của khu vực nông-lâm-thuỷ sản nói riêng. Trong khi đó, khu vực dịch vụ lại chưa được tập trung đầu tư thích đáng về mọi mặt nên tốc độ tăng của khu vực này vẫn còn thấp hơn tốc độ tăng chung của nền kinh tế. Đồng thời, cơ cấu thành phần kinh tế còn nhiều bất hợp lý, khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các ngành quan trọng, giành vị trí có lợi nhất trong kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh lại thấp. Trong khi đó, khu vực kinh tế hợp tác, kinh tế dân doanh chậm được củng cố và phát triển, các cơ chế chính sách còn phân biệt đối xử giữa khu vực Nhà nước và phi Nhà nước. Ngoài ra, cơ cấu vùng lãnh thổ còn chưa phát huy được lợi thế của từng vùng, còn lúng túng trong việc hình thành cơ cấu kinh tế có hiệu quả của mỗi vùng và mối liên kết giữa các vùng. Trong những năm qua, nhìn chung thu nhập của các tầng lớp dân cư đều tăng, nhưng vẫn có một bộ phận dân cư thiếu lao động, vốn và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh nên thu nhập của họ tăng chậm hơn, làm cho khoảng cách chênh lệch giầu nghèo và bất bình đẳng trong phân bổ thu nhập giữa các nhóm dân cư gia tăng. Đồng thời vẫn còn một số vấn đề xã hội khác đang chậm được khắc phục như vấn đề thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn vẫn còn ở mức cao; các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc chưa được chặn đứng; ách tắc giao thông ở các đô thị và tai nạn giao thông có xu hướng gia tăng, vẫn còn nhiều trẻ em chưa được đến trường và cơ cấu đào tạo còn nhiều bất hợp lý, tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” trong nền kinh tế có xu hướng ngày càng trầm trọng; chỉ số giá cả tăng cao…. Quá trình thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta những năm qua cũng bộc lộ một số yếu kém bên cạnh những thành công bước đầu. Quá trình cải cách các thể chế kinh tế-hành chính chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của thực tiễn cũng như yêu cầu của cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nước ta vẫn còn thiếu một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế trên cấp độ toàn cầu, khu vực và song phương trong khi áp lực hội nhập ngày càng gia tăng. Mặt khác, môi trường đầu tư và cơ cấu hàng xuất khẩu còn nhiều hạn chế, hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn vốn ODA còn chưa cao. Phần III: Những giải pháp cơ bản để thực hiện thắng lợi con đường quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực tế những năm thực hiện chiến lược đổi mới vừa qua đã đem lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm quý báu. Quá trình này cũng đòi hỏi Đảng và toàn dân ta phải tiếp tục thực hiện và nâng cao hiệu quả chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa kết hợp với việc đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Để thực hiện chủ trương đó, trong điều kiện cụ thể của giai đoạn hiện nay, cần có những giải pháp chủ yếu sau đây: 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Mục tiêu và động lực trực tiếp của kinh tế hàng hoá về mặt kinh tế là phải thu được lợi nhuận tối đa. Cơ cấu kinh tế mới, hợp lý nghĩa là cơ cấu kinh tế đó phải theo hướng tiến lên hiện đại, tạo những điều kiện thuận lợi cho phát triển lực lượng sản xuất, khoa học – kỹ thuật và công nghệ; khai thác và phát huy được những lợi thế so sánh của đất nước về tài nguyên, nhân lực, vị trí địa lý kinh tế. .. tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế, sản xuất ra nhiều hàng hoá có giá trị cao, thoả mãn nhu cầu thị trường trong nước và có gía trị xuất khẩu cao, thay thế nhập khẩu một cách có hiệu quả, đưa nền kinh tế đất nước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngoài ra, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần chú ý đến tính ổn định, trên cơ sở đó để xác định đúng đắn và có hiệu quả kinh tế các phương án đầu tư. Muốn vậy, Nhà nước cần có quy hoạch tổng thể, mang tính chất định hướng; phải xác định được khá chính xác nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai... 2. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Cần khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài và nhất quán, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. - Đối với kinh tế nhà nước, điều quan trọng và cấp bách là tiếp tục sắp xếp và đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, với nội dung cốt lõi là hướng tới một cơ cấu sản xuất và đầu tư năng động của nền kinh tế, cho phép tận dụng và phát huy được lợi thế so sánh về tài nguyên, vị trí địa lý, nguồn lực con người của đất nước. - Kinh tế tập thể cần được phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. - Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. - Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò to lớn trong việc động viên vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý. .. Vì vậy, cần phát triển phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. - Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Với tinh thần đó, Nhà nước cần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy được tiềm năng của mình, đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá một cách có hiệu quả. 3. Đẩy mạnh và tổ chức tốt phân công lao động xã hội. Thực trạng của sự phân công lao động xã hội ở nước ta hiện nay còn ở trình độ thấp, có nhiều vấn đề bất hợp lý như: tỷ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ quá cao; phân bố lao động chưa hợp lý giữa các vùng, giữa các ngành kinh tế, giữa lao động sản xuất và dịch vụ... Vì vậy, để tiến hành phân công lao động xã hội một cách hợp lý thì Nhà nước phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi và tổ chức một cách có quy hoạch trong phạm vi từng ngành, từng vùng và cả nước. Mặt khác, ở từng ngành, từng địa phương, cơ sở và người lao động cần tạo mọi điều kiện tìm việc làm, tiến hành việc phân công lao động tại chỗ là chủ yếu. Trước mắt, cần tập trung đẩy mạnh sự phân công lao động trong nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 1) Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, và Nghị quyết Trung ương V (khoá IX), nhằm khai thác hợp lý các tiềm năng to lớn trong nông nghiệp (về lao động, về vốn, về thị trường) tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ cho nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Cần đẩy mạnh quá trình tham gia vào phân công lao động quốc tế bằng nhiều hình thức thích hợp. 4. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ vào sản xuất. Khoa học và công nghệ tiên tiến là một yếu tố quan trọng đối với phát triển kinh tế hàng hoá. Bởi vì, chính nó làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn với chất lượng cao, giá thành hạ. Do đó, nó thoả mãn nhu cầu đa dạng và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Để thực hiện được giải pháp này, cần phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, tiếp thu thành tựu khoa học thế giới, lựa chọn và làm chủ công nghệ chuyển giao và Việt Nam, từng bước đưa công nghệ nước ta đạt trình độ trung bình của khu vực; bước đầu phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao như: điện tử và tin học; công nghệ sinh học, vật liệu mới và tự động hoá; từng bước chuyển biến rõ nét về bảo vệ môi trường sinh thái. 5. Tiếp tục xây dựng phát triển các ngành công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng. Đối với phát triển công nghiệp, cần quan tâm phát t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35676.doc
Tài liệu liên quan