Đề tài Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 đến nay - Thực trạng và giải pháp

Lời mở đầu

MỤC I: Tổng quan Đầu tư trực tiếp nước ngoàI

1)Khái niệm & đặc điểm

2)Các hình thức Đầu tư trực tiếp nước ngoài

3)Tác động Đầu tư trực tiếp nước ngoài

4)Nhân tố ảnh hưởng FDI

5)Xu hướng vận động của luồng FDI trên thế giới

MỤC II: Thực trạng và những vấn đề đang đặt ra trong quá

 trình thu hút của Việt Nam từ 2000 đến nay

1)Quy mô đầu tư và thực trạng cấp giấy phép đầu tư tại

Việt Nam thời gian qua

2)Cơ cấu FDI tại Việt Nam

3)Nguyên nhân

MỤC III: Một số giải pháp nâng cao khả năng Thu hút vốn

FDI ở Việt Nam

Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

doc57 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 đến nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với cùng kỳ năm 2001) +Tăng vốn : Cho đến nay,nhiều dự án ĐTNN do hoạt động ổn định , hiệu quả nên đã có 181 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng vốn đăng ký đạt thêm là 601 triệu USD. +Đến 25/09/2002.Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp 21 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 94,3 triệu USD chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư đăng ký.UBND các tỉnh cấp giấy phép cho 294 dự án(chiếm 61,5% số dự án) với tổng vốn đầu tư đăng ký là 375,7 triệu USD(chiếm 42%).Ban quản lý các KCN-KCX cấp giấy phép cho 163 dự án(chiếm 34%) với vốn đăng ký là 416 triệu USD(chiếm 46,9%) Qua các số liệu trên ta rút ra một số nhận xét sau: Số lượng vốn đăng ký mới kể cả vốn bổ sung đạt hơn 1,4 tỷ USD ,đây là một kết quả không nhỏ song có thể thấy rằng số dự án tăng 27% so với cùng kỳ năm 2001 nhưng số vốn đăng ký lại giảm (chỉ bằng 45% so với cùng kỳ năm 2001) Bởi vì,do các dự án được cấp mới trong 9 tháng đầu năm 2002 có quy mô vốn đầu tư khá nhỏ trong khi đó năm 2001 có hai dự án điện đầu tư theo hình thức BOT là dự án điện Phú Mỹ 3 và dự án Phú Mỹ 2.2 với tổng vốn đầu tư là 834,8 triệu USD (Báo cáo cuối năm 2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho nên việc số lượng dự án tăng song số vốn đầu tư lại không bằng năm trước là điều có thể hiểu được. Các dự án bổ sung vốn chỉ có 181 lượt dự án song số vốn bổ sung là 601 triệu USD bằng 2/3 số vốn đăng ký mới(Với số dự án cấp giấp phép mới là 478 dự án) qua đó ta thấy rằng các dự án năm 2001 đang hoạt động là các dự án tương đối lớn so với quy mô nhỏ hơn nhiều của dự án năm 2002. Mục tiêu của Việt Nam hiện nay là thu hút khoảng trên 2 tỉ đô-la Mỹ đầu tư nước ngoài mỗi năm. Năm ngoái, chỉ tiêu này đạt được nhờ việc cấp phép cho một số dự án có quy mô lớn như hai dự án điện Phú Mỹ đầu tư theo hình thức BOT có tổng vốn đầu tư 834,8 triệu đô-la Mỹ; dự án tổ hợp nhà máy điện, dệt sợi Formosa với vốn đầu tư 245 triệu đô-la Mỹ; và dự án điện thoại di động CDMA 230 triệu đô-la Mỹ... Năm nay, tính đến 25 tháng 9, Việt Nam mới chỉ thu hút được tổng cộng 886 triệu đô-la Mỹ vốn đầu tư mới. Mặc dù vậy, đến cuối năm nay Việt Nam vẫn có thể đạt được chỉ tiêu thu hút 2 tỉ đô-la Mỹ nếu căn cứ vào ý định của một số nhà đầu tư nước ngoài: chẳng hạn dự án Formosa dự định tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 với vốn đầu tư khoảng 1 tỉ đô-la Mỹ, dự án thép cán mỏng của China Steel khoảng 500 triệu đô-la Mỹ, dự án hoá chất sản xuất DAP và LAB khoảng 200 triệu đô-la Mỹ, một số nhà đầu tư Nhật đang dự định mở sân golf ở Vĩnh Phúc, Công ty Pouchen Đài Loan dự định đầu tư xây dựng nhà để bán thí điểm với tổng vốn khoảng 200-300 triệu đô-la Mỹ... Những dự án này vẫn còn đang nằm trên giấy và muốn trở thành hiện thực cần có nỗ lực của cả nước chủ nhà Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài. . Sơ đồ 1: Vốn đăng ký và thực hiện qua thời kỳ 2000-2002 Quan sát đồ thị ta thấy số dự án đăng ký qua các năm đang tăng lên với mức độ tăng thấp tổng vốn đăng ký cũng có xu hướng tăng lên song rất chậm Số vốn bổ sung qua các năm 2000,2001,2002 tương đối ổn định điều này chứng tỏ rằng các dự án đang thực hiện tương đối hiệu quả do đó các nhà đầu tư của các dự án này vẫn tăng vốn đều đặn hàng năm.Đó là một tín hiệu đáng mừng và cũng là một thực tế chứng minh rằng doanh nghiệp nước ngoài còn đứng vững thì tức là ở đó vẫn còn chỗ để kinh doanh thu lợi nhuận. Bảng 1: Một số chỉ tiêu về Đầu tư trực tiếp nước ngoài qua giai đoạn 2000-2002 Chỉ tiêu 2000 2001 09-2002 Dự kiến năm 2002 Năm2001 so với năm 2000(%) 9 tháng đầu năm2002 so với cùng kỳ 2001(%) 1.Số dự án 365 460 478 - +26 +27 2.Vốn đăng ký mới 1.987 2.436 886 - +22.6 -55 3.Tăng vốn 600 580 601 - -3.3 +20 4.Còn hiệu lực 36.514 38.177 20.700 - - - 5.Vốn thực hiện 2.100 2.300 1.650 2.345 +9,5 +3 6. Doanh thu 6.167 7.400 6.500 8.400 +20 +12 7.Xuất khẩu 3.300 3.560 3.079 4.200 +7,88 +12 8. Nộp ngân sách 260 250,87 286 460 -3,5 +14 9. Lao động trực tiếp đến cuối năm( 1.000 người) 327 380 460 - +16,21 +19 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cơ cấu FDI tại Việt Nam - Cơ cấu FDI theo ngành: Phân tích cơ cấu đầu tư theo nghành cho thấy: các dự án có mặt ở hầu khắp mọi nghành của nền kinh tế quốc dân và đang có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước. Các nhà đầu tư nước ngoài đã tập trung vào các ngành (dầu khí, công nghiệp sản xuất và chế biến như may và giầy da, thực phẩm và giải khát) chiếm khoảng 2.743 dự án với tổng số vốn cam kết là 23 tỉ US$, tương ứng 60% dự án và 55% số vốn đã cam kết. Ngành nông nghiệp, đánh cá và lâm nghiệp chỉ chiếm 11% tổng số dự án (462 dự án) và 3,6% tổng số vốn đã cam kết. Ngành thứ ba (khách sạn, nhà hàng, giao thông, viễn thông và các ngành dịch vụ khác như bảo hiểm v.v...) chiếm khoảng21,6% tổng số dự án và 40% tổng số vốn đã cam kết (Sơ đồ 2) Sơ đồ 2: Số lượng dự án theo ngành đến ngày 2 / 7 /2002 Nguồn: Báo đầu tư Việt nam số 563/29tháng 7- 4/8/2002 Như vậy,có thể nói rằng hầu hết các dự án đều là các dự án công nghiệp có quy mô nhỏ.Các dự án xây dựng ở nước ta trong giai đoạn này như năm 2002 chỉ có 29 dự án cho tới thời điểm này nhưng vốn đăng ký là 3.195 triệu USD với quy mô trung bình của một dự án là hơn 110 triệu USD chủ yếu là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như xây dựng cầu Thanh Trì do Liên doanh Obayashi và Sumitomo Construction của Nhật Bản đảm nhiệm,bên cạnh đó các dự án về lĩnh vực dịch vụ tuy có ít hơn về số lượng dự án song quy mô của các dự án là lớn hơn nhiều so với các dự án công nghiệp và các dự án nông nghiệp.Mặt khác,Nhà nước lại khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp với rất nhiều ưu đãi thì lại có rất ít dự án đăng ký.Điều này cho thấy các nhà đầu tư đang còn chưa mấy hào hứng với thị trường nông lâm thuỷ sản cho nên họ vẫn còn “bỏ ngỏ” một thị trường rộng lớn với hơn 70% dân số đang sống bằng nông nghiệp.Chẳng hạn,trong thị trường chế biến thức ăn cho gia súc,gia cầm hiện nay cả một trị trường Miền Bắc rộng lớn chỉ có duy nhất một nhà máy sản xuất và chế biến thức ăn cho gia cầm.Song điều đáng mừng là ngày 26/10/2002 nhà máy chế biến thức ăn gia súc Con heo vàng có cơ sở sản xuất tại Thành phố Hải phòng đi vào hoạt động.Có thêm một nhà máy mới đồng nghĩa với việc thì trường này sẽ giảm bớt đi phần nào tình trạng cầu thì nhiều nhưng chẳng đáp ứng được bao nhiêu,còn lại là hầu hết phải đi nhập các loại thức ăn gia súc của Mỹ và Châu Âu. - Cơ cấu FDI theo vùng: Tới thời điểm này, tất cả 61 tỉnh và thành phố của Việt nam đã thu hút được FDI, nhưng thực tế các nhà đầu tư nước ngoài tập trung đầu tư theo địa lý cho một số vùng kinh tế chủ chốt ở phía Nam như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu và một số vùng kinh tế chủ chốt ở phía Bắc như Hà nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng và Quảng Ninh, trong khi đó miền Trung chỉ thu hút được một số lượng FDI rất nhỏ (Bảng 2). Bảng 2: Cấu trúc FDI theo tỉnh / thành phố đến ngày 2/7/2002 Thành phố/tỉnh Dự án (%) Vốn (%) Tổng số 100.00 100.00 Bà rịa - Vũng Tàu 2.36 4.73 Bình Dương 16.44 7.05 Đồng Nai 10.54 13.73 Hải Dương 1.12 1.30 Hải Phòng 3.20 3.38 Hà Nội 12.30 20.42 T.P Hồ Chí Minh 34.11 26.56 Lâm Đồng 1.60 2.20 Quảng Ngãi 0.15 3.44 Thanh Hoá 0.21 1.15 Khác 17.98 16.05 Nguồn : Báo Đầu tư VN, số 563/29/7-4/8/2002 Phân tích đầu tư nước ngoài trên cơ sở FDI theo vùng cho thấy các nhà đầu tư không chỉ trong năm 2002 đầu tư mạnh vào các vùng kinh tế trọng điểm như TPHCM,Hà Nội…mà đã đầu tư rất nhiều các dự án lớn vào các khu vực này,điều này cũng dễ hiểu bởi lẽ các khu vực này tập trung rất nhiều các khu công nghiệp lớn với đầy đủ cơ sở hạ tầng và chính sách ưu đãi,Ví dụ như ở Hà Nội cho đến nay đã thu hút được thêm 50 dự án tăng 66,7% số dự án cấp phép và 40,8% vốn đăng ký và thu hút được 13 dự án FDI mới với tổng trị giá 223,1 triệu USD vào Khu công nghiệp Sài Đồng B tập trung vào một số ngành gia công chính là may mặc xuất khẩu ,sản xuất kinh kiện điện tử.Đặc biệt,dự án Vietnam Semi Conductor sản xuất tấm bán dẫn vốn đầu tư 30 triệu USD ,đây là dự án lớn nhất từ trước tới nay của các nhà đầu tư Hoa Kỳ.Dự án sản xuất sứ vệ sinh TOTO của Nhật Bản cũng là dự án lớn được cấp giấy phép trong 9 tháng qua với tổng số vốn 23 triệu USD,công suất 400.000 sản phẩm/năm,trong đó 50% sản phẩm xuất khẩu đầu tư vào KhuCN Thăng Long. Việt nam đã triển khai một hệ thống các khu công nghiệp trên toàn quốc để cung cấp cơ sở hạ tầng phù hợp cho các nhà đầu tư. Cho tới nay Việt nam đã triển khai một hệ thống các khu công nghiệp, có 67 khu công nghiệp đã được triển khai. Trong số đó có 1 khu công nghiệp 100% vốn nước ngoài, 14 khu công nghiệp liên doanh(ví dụ KCN Nhơn Trạch 1,Hố Nai, các KCN Amata,Loteco…) và 52 khu công nghiệp do phía Việt nam chủ sở hữu(KCN Biên Hoà 2, Gò Dầu , Nhơn Trạch 2 ,Nhơn Trạch 3…).Tỉ lệ chiếm giữ của các khu công nghiệp này là 35% với 870 dự án đầu tư nước ngoài và 9 tỉ US$ vốn cam kết. 85 % dự án được cấp giấy phép trong các khu công nghiệp này là các công ty 100% vốn nước ngoài. - Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư: FDI đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt nam: Các công ty FDI đã đóng góp 13.3% vào GDP, 35% vào sản phẩm công nghiệp, 23% vào xuất khẩu, 15% vào tổng số thu ngân sách của năm 2001 nhưng chỉ tạo được 0.3% tổng số việc làm do hầu hết các ngành,các lĩnh vực mà các chủ ĐTNN đầu tư vào cần nhiều vốn chứ không phải là lao động . Nói một cách gián tiếp, FDI đã cung cấp thêm một số việc làm thông qua nhà thầu phụ hoặc bên cung cấp. Một mặt nó đã đạt được một thành công cho Việt nam khi xem xét đến cổ phần thế chấp FDI tại Việt nam (năm 1999) là 56 US$ cao hơn Thái Lan (49US$), Malaysia (47 US$), Trung Quốc (41 US$) và cao gấp đôi số trung bình của ASEAN (21US$). Mặt khác, FDI được thu hút vào Việt nam theo chuẩn khu vực tương đối ít (FDI vaò Việt nam bằng 2% FDI vào Trung Quốc) nhưng số lượng FDI ít ỏi này có tầm quan trọng lớn đối với nền kinh tế quốc dân như số liệu đã minh hoạ do mô hình kinh tế nhỏ của Việt nam (GDP năm 2000 là 30.3 tỉ US$, IMF). Cho đến nay, 73 nước và nền kinh tế trên thế giới đã và đang đầu tư vào Việt nam, nhưng Châu á chiếm 64%, châu Âu chiếm 21%, Mỹ và các nước vùng Caribê chiếm 13%. Singapo là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất với 254 dự án với vốn đã đăng ký là 6.9 tỉ US$, tiếp theo là Đài loan, Nhật bản, Hồng kông và Hàn Quốc. 5 nền kinh tế đứng đầu về đầu tư tại Việt nam này đã đầu tư 2.062 dự án (59.7% tổng số dự cán được cấp giấy phép) với tổng số vốn cam kết là 22.6 tỉ US$ (53.5% tổng số vốn cam kết). 5 nước đầu tư lơn tiếp theo là Pháp, British Virgin Islands, Hà Lan, Nga và Vương Quốc Anh. Các nhà đầu tư “top ten” chiếm 75% tổng số dự án đã cấp giấy phép và tổng số vốn đã cam kết (Bảng số 3). Bảng số 3: 10 nước và lãnh thổ có số vốn FDI lớn tính đến 2 / 7 /2002 Nước và lãnh thổ Số lượng dự án Vốn (tỉ $) Singapore 254 6,907.67 Đài Loan 832 5,298.33 Nhật Bản 339 4,119.02 Hàn Quốc 403 3,461.86 Hồng Kông 234 2,819.21 Pháp 117 2,039.57 B.V. Island 144 1,759.48 Hà Lan 42 1,655.56 Nga 41 1,506.36 Vương Quốc Anh 40 1,171.56 Nguồn : Báo đầu tư Việt nam số 563/29/7-4/8/2002 Tuy nhiên trong 9 tháng đầu năm 2002 Đài Loan có vốn đầu tư gần 196 triệu USD chiếm 20% và đứng thứ nhất trong số 32 nước đầu tư vào Việt Nam.Sau đó là Hàn Quốc(95 dự án,vốn đầu tư 181 triệu USD),Malaysia(20 dự án,vốn đầu tư 86 triệu USD),Nhật Bản (37 dự án,vốn đầu tư 85 triệu USD)…Chứng tỏ rằng khu vực châu á vẫn là khu vực tập trung hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài của Việt Nam - Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư: Theo hình thức đầu tư thì bức tranh về ĐTNN tại Việt Nam đang chuyển biến theo khuynh hướng.Hình thức 100% vốn nước ngoài ngày càng tăng,hình thức liên doanh ngày càng giảm.Về mặt pháp lý, có ba hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt nam: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), liên doanh (JV) và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Đối với ngành dầu khí và viễn thông, hình thức BCC phải được áp dụng theo đúng Luật ĐTNN, trong khi đó một loạt các ngành khác như giao thông, du lịch và một số ngành khác thì Luật ĐTNN ngầm định JV như là một hình thức đầu tư. Đối với các hoạt động khác, các nhà đầu tư tự do lựa chọn hình thức đầu tư cũng như mô hình và địa điểm đầu tư. Như vậy, các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng thích hình thức sở hữu toàn bộ sau khi thấy những khó khăn mà công ty liên doanh gặp phải với đối tác phía Việt nam. Để có một cái nhìn tổng quan hơn ta xem xét thu hút FDI của Việt Nam qua các giai đoạn nhỏ.Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài ra đời 12/1987 *Giai đoạn 1988-1992: Hình thức liên doanh đóng vai trò chủ đạo,chiếm trên 70% tổng số dự án ĐTNN,hình thức 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 12%. *Giai đoạn 1993-1996: Số dự án 100% vốn nước ngoài tăng lên 38% *Giai đoạn 1996-1999: Số dự án 100% vốn nước ngoài chiếm tới 64% tổng số dự án. *Riêng năm 2001 số dự án 100% vốn nước ngoài đã lên đến 1858 dự án so với 1043 dự án liên doanh gấp 1,78 lần. Hầu hết các công ty liên doanh đều tiến hành hoạt động với doanh nghiệp nhà nước VN (SOEs) (98% số dự án), các công ty liên doanh với khu vực kinh tế tư nhân là rất ít và hạn chế. Sáu dự án BOT đã được áp dụng cho ngành cung cấp điện và nước, nhưng thời gian và các cuộc đàm phán phức tạp đã làm cho hình thức này không được phổ biến trong các nhà đầu tư. Khác với Trung Quốc, đầu tư từ Hồng Kông, Đài Loan và người TQ ở nước ngoài đóng một vai trò chủ yếu trong FDI, đầu tư của người Việt nam ở nước ngoài thì quá ít. Nguyên nhân: Nguyên nhân khách quan: Sự giảm sút ĐTNN vào Việt Nam là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực,cuộc khủng hoảng có nguy cơ lan rộng toàn cầu và gây hậu quả nặng nề cho các quốc gia,buộc các nhà đầu tư nước ngoài xem xét cân nhắc lại các chiến lược đầu tư tập trung của mình.Hiện nay Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước Châu á vào Việt Nam chiếm 67% vốn đầu tư,trong đó các nước ASEAN chiếm khoảng 23%,Nhật Bản,Hàn Quốc,Đài Loan và HồngKông chiếm 40,5%.Do khủng hoảng kinh tế nên FDI của các nền kinh tế trong khu vực giảm đi rõ rệt vì các công ty mẹ phá sản hoặc gặp khó khăn do chính sách của Chính Phủ hạn chế ĐTNN và cũng do khó khăn trong huy động vốn của các tổ chức tài chính quốc tế và vay từ các ngân hàng ,để ổn định tình hình kinh tế trong nước và tránh nguy cơ khủng hoảng của sự mất giá của hàng loạt các đồng tiền Châu á như đồng Bath của TháiLan,Đồng Ringit của Indonesia… các nhà đầu tư rút vốn về nước hoặc cắt giảm dần vốn đầu tư để có thể bảo toàn vốn của mình,do đó tốc độ đầu tư vào Việt Nam giảm sút rất mạnh sau năm 1997 và đến 2000 đã bắt đầu có sự tăng trưởng trở lại và qua năm 2001 và 9 tháng của năm 2002 cho thấy Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đang khởi sắc hứa hẹn đóng góp nhiều cho nền kinh tế quốc dân. Thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tình trạng suy thoái kinh tế và khủng hoảng ,đặc biệt là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị trường nước ngoài bị suy giảm do các đồng tiền trong khu vực bị mất giá nghiêm trọng cho nên hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN bị giảm sút,hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp không cao,thị trường tiêu thụ thu hẹp lại. Chiều hướng dịch chuyển của dòng vốn đầu tư quốc tế đã làm cho sự cạnh tranh trong thu hút DFI trên thế giới và khu vực tăng lên mạnh mẽ.Bên cạnh đó, Việt Nam nằm trong khu vực có nhiều “nền kinh tế mới nổi” và thị trường lớn như ấn Độ,Indonesia …,và đặc biệt là Trung Quốc (một thị trường rộng lớn hơn 1,3 tỷ người với GDP hơn 1000 tỷ USD,tốc độ tăng trưởng cao 7% năm, là thành viên của WTO và đang xúc tiến khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA)…Tất cả những điều đó đã và đang đặt Việt Nam trước thách thức cạnh tranh gay gắt. Tại khu vực Đông Nam á, với triển vọng thực hiện khu vực mậu dịch tự do AFTA bắt đầu từ năm 2003, các nhà đầu tư khu vực cũng phải tính toán nhiều trước khi quyết định đầu tư vào nước nào có giá lao động rẻ hơn nhưng có mức thuế quan ngang bằng với nước khác. Một nhà đầu tư ở Malaysia đã từ bỏ ý định đầu tư một nhà máy sản xuất kẹo tại Việt Nam trị giá 10 triệu USD vì ông ta tính toán rằng với việc thực hiện AFTA, mức thuế quan của sản phẩm sẽ giảm nhiều và như vậy việc đầu tư sản xuất mới tại một nước khác sẽ tốn kém và ít hiệu quả hơn là tập trung phát triển việc tiếp thị, kinh doanh sản phẩm tại nước đó. Sự suy giảm kinh tế và lâm vào suy thoái của các cường quốc kinh tế như Mỹ trong những năm gần đây,đặc biệt là kể từ sau vụ khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 11-09-2001 đã làm cho nền kinh tế Mỹ nói riêng và kinh tế thế giới nói chung có dấu hiệu một sự suy thoái cả về kinh tế và nguồn vốn đầu tư quốc tế.Theo dự báo của các nhà kinh tế học thì nền kinh tế Mỹ chưa thể nào phục hồi lại mức tăng trưởng được,và tổng mức đầu tư giảm khá mạnh do sự quan ngại của các nhà đầu tư về tình trạng gian lận trong công tác kiểm toán và tài chính ở các tập đoàn lớn như Tập đoàn năng lượng khổng lồ EnRon,Tập đoàn viễn thông Worldcom…Đặc biệt là sự e ngại Mỹ sẽ lún sâu vào cuộc chiến tranh với Irắc gây nên tình trạng suy giảm về chỉ số NASDAQ và Dow Jones trên thị trường chứng khoán NewYork (NYSE) tạo nên phản ứng dây chuyền suy giảm hàng loạt các chỉ số chứng khoán của các thị trường khác như chỉ số Nikkei của Nhật Bản đã giảm thấp nhất trong 20 năm qua. Bên cạnh đó cường quốc Nhật Bản vẫn chưa lấy lại được sức mạnh của mình sau khi “nền kinh tế bong bóng” của họ vỡ ra vào những năm 1999-2000 hàng loạt các công ty chứng khoán như công ty CK Himaichi, các ngân hàng lớn đồng loạt phá sản…do đó nguồn vốn FDI trên thế giới giảm mạnh,không phải ngoại lệ FDI vào Việt Nam cũng giảm khá mạnh.Xét về nguồn gốc đầu tư Nhật Bản là đối tác hàng đầu trong đầu tư FDI và ODA cho Việt Nam trong thời gian qua.(hầu hết các tập đoàn lớn của Nhật như Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo, Nissho Iwai... đã mở Văn phòng đại diện tại Việt Nam) với tổng vốn đầu tư 10 năm qua lên tới 4 tỷ 563 triệu USD và tổng vốn thực hiện gần 3 tỷ 148 triệu USD. Như vậy, Nhật Bản là nước có tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đầu tư (73,4%) thuộc loại cao so với mức thực hiện trung bình của tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (51,6%). Do vậy, khi nước ta tham gia lộ trình AFTA với thuế suất thuế nhập khẩu sản phẩm điện tử nguyên chiếc chỉ còn 0 - 5% vào năm 2006 và không hạn chế nhập khẩu từ các nước ASEAN, sẽ khiến các nhà đầu tư Nhật Bản phải cân nhắc việc có tiếp tục đầu tư mới ở VN nữa hay không. Bởi họ đã có các nhà máy lắp ráp và sản xuất linh kiện quy mô lớn (hàng triệu sản phẩm/năm) ở các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia... đang hoạt động rất hiệu quả, nhiều chỉ tiêu đạt mức cao hơn so với xây dựng một nhà máy mới ở Việt Nam. Trong khi đó, điều kiện sản xuất kinh doanh của các liên doanh lắp ráp điện tử Nhật Bản ở Việt Nam có một số dấu hiệu chứng tỏ ngày càng trở nên ít hấp dẫn do cung - cầu đang có xu hướng bão hoà và thị trường (nhất là đối với hàng điện tử gia dụng) bị thu hẹp dần do phải chia sẻ với các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài khác. Với sự cạnh tranh ngày một khốc liệt, sản phẩm của các công ty Nhật Bản tuy có ưu thế về chất lượng, thương hiệu, nhưng lại yếu thế hơn về giá so với sản phẩm của các công ty nước ngoài khác như Samsung, LG, Daewoo (Hàn Quốc), TCL (Trung Quốc)... Đặc biệt, một số sản phẩm điện tử mang thương hiệu Việt Nam(VTB…) cũng đã bắt đầu có vị thế và đang dần chiếm được chỗ đứng nhất định trên thị trường. Bằng chứng rất rõ ràng là năm 2001, trong khi doanh thu của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam tăng tới 122% so với năm 2000 thì doanh thu của các liên doanh điện tử Nhật Bản lại không tăng. Các lĩnh vực đầu tư trước đây được coi là hấp dẫn nay đã bị lấp đầy và dẫn đến dư thừa ví dụ như các ngành như dệt may,công nghiệp lắp ráp ôtô,xe máy…cho nên dẫn tới tình trạng cạnh tranh trong các ngành này hết sức gay gắt, trong khi đó các nghành lĩnh vực khác còn chưa được các nhà ĐTNN quan tâm do thị trường đầu tư mới chưa xuất hiện hoặc chưa được khai thông. Nguyên nhân chủ quan: Theo nhận định của các chủ đầu tư thì vấn đề Chi phí kinh doanh cao là bất lợi đầu tiên đối với đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. JETRO của Nhật Bản đã thường xuyên công bố bảng so sánh chi phí kinh doanh giữa các nước trong khu vực và chi phí thanh toán các cuộc điện thoại quốc tế, phí Internet, phí cảng vụ quá cao. Việt Nam vẫn có hệ thống giá kép đối với giới đầu tư nước ngoài và áp dụng Luật khác về xúc tiến đầu tư trong nước cho giới đầu tư trong nước. Chính phủ cam kết sẽ từng bước xóa bỏ hệ thống giá kép và thống nhất hai luật đầu tư. Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam nhìn chung đã được nâng cấp nhưng chất lượng một số hàng hóa và dịch vụ công không cao. Tính ổn định thấp, nhiều biến động, khả năng cung cấp điện lực không ổn định gây ra chi phí tăng đáng kể đối với người sử dụng và cản trở giới đầu tư xúc tiến đầu tư công nghệ cao vào Việt Nam. Bảng 4: So sánh chi phí kinh doanh giữa các nước(Tháng 12 năm 2000 - Đơn vị: USD) Hà nội Hồ Chí Minh Thượng Hải Singapo Băng Cốc Kuala Lumpur Jakarta Manila Lương công nhân/tháng 94 113 248 468 176 329 64 228 Lương kỹ sư/tháng 251 221 447 1.313 378 668 190 344 Lương quản lý trung bình/tháng 511 488 453 2,163 727 1407 723 620 Chi phí thuê văn phòng /tháng/m2 23 16 24 42 13 17 19 28 Chi phí thuê nhà cho đại diện nước ngoài 1850 1800 1500 2,285 1420 920 2000 1970 Chi phí điện thoại quốc tế (một cuộc điện thoại 3 phút sang Nhật Bản) 8,52 8,52 4,3 2,23 3,11 2,61 2,59 3,78 Chi phí điện kinh doanh/ KWh 0,07 0,07 0,035 0,05 0,03 0,06 0,017 0,09 Vận chuyển côngtenơ (40/ft/côngtenơ) (từ nhà máy tới cảng Yukohama) 1825 1,375 880 670 1466 895 1252 994 Giá xăng dầu thường/ Lít 0,31 0,31 0,3 0,74 0,34 0,29 0,138 0,35 Thuế thu nhập cá nhân (thuế suất cao nhất,%) 50 50 45 29 37 29 30 33 Nguồn: JETRO Thật vậy ta thấy tình trạng suy giảm vốn đầu tư nước ngoài xuất phát từ những vấn đề còn tồn tại ở Việt Nam chứ không phải do ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài. Hạn chế lớn nhất là chi phí hạ tầng ở Việt Nam cao hơn nhiều so với Trung Quốc và các nước trong khu vực. Đơn cử, cước điện thoại quốc tế gọi từ TP HCM đi Nhật Bản là 8,52 USD/3 phút đầu, gọi từ Thượng Hải chỉ 4,3 USD, phí vận chuyển ở Việt Nam cũng cao gần gấp đôi... Trong khi đó, thuế thu nhập cá nhân và thuế doanh nghiệp ở Việt Nam được xếp vào loại cao nhất khu vực, chiếm tới 50% lợi nhuận của các công ty.Bên cạnh đó,chi phí về lao động không còn là một nhân tố thu hút FDI như thời gian đầu nữa,bởi vì một số nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp sau: Lợi thế của chi phí lao động thấp đang mất dần vì lương tăng lên nhưng sức sản xuất tăng chậm hơn khiến cho chi phí lao động tăng dần lên cộng thêm trình độ tay nghề và vốn ngoại ngữ không cao cho nên “lợi thế so sánh” này đang mất dần,tình trạng hiện nay vẫn là “thừa thầy thiếu thợ” thừa sinh viên mới ra trường nhưng thiếu công nhân lành nghề.Do vậy,lương kỹ sư ở TPHCM và Hà Nội tuy thấp hơn Bangkok nhưng nếu tính thêm trình độ chuyên môn và yếu tố khác vào sẽ tạo lợi thế cạnh tranh nghiêng về phía ThaiLan. Mặc dù một số sửa đổi đã được thực hiện nhưng Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam vẫn không có khả năng cạnh tranh so với các luật đầu tư khác trong khu vực. Các kế hoạch sáp nhập và mua sắm vẫn hết sức bị hạn chế, một nhà đầu tư nước ngoài chủ có quyền mua tối đa là 30% cổ phần của doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hóa, thậm chí tại doanh nghiệp Nhà nước của cùng một ngành nơi mà một nhà đầu tư nước ngoài có thể sở hữu hoàn toàn một doanh nghiệp. Dường như hạn chế này được xem là thái quá trong khi làn sóng sát nhập và mua bán đang diễn ra sôi động trong khu vực. Liên doanh với công ty tư nhân trong nước yêu cầu thủ tục cấp phép đặc biệt, tiêu tốn nhiều thời gian và khó khăn. Quyền phân phối bị hạn chế, yêu cầu trong nước chỉ có thể đạt được một cách chậm chạp do sự phát triển chậm của các nhà cung cấp trong nước. Một số ngành và thị trường vẫn chưa mở cửa cho giới đầu tư nước ngoài. Hình thức công ty được phép hoạt động một cách hợp pháp căn cứ vào Luật đầu tư nước ngoài cho đến nay là một công ty trách nhiệm hữu hạn, dự án thí điểm về cổ phần hóa JVs cần phải được thông qua và thực hiện. Thị trường chứng khoán ở thành phố Hồ Chí minh vẫn hoạt động với quy mô nhỏ và hạn chế đối với đầu tư nước ngoài. Dù có sự cải thiện rõ rệt trong những năm gần đây (đặc biệt là Luật doanh nghiệp và tự do hóa thương mại được đánh giá cao). Các quy định về pháp lý ở Việt Nam đang thay đổi nhanh chóng, khả năng dự đoán kém và độ phù hợp không cao đặc biệt là trong các quy định về thuế, ngoại hối, lao động, đất đai và pháp lý Công tác xúc tiến đầu tư ra nước ngoài chưa được chú trọng đúng mức.Nếu so sánh với các nước ASEAN,nhất là các nước ThaiLan,Indonesia,Malaysia,Singapore đã dành một khoản chi phí đầu tư khá lớn cho công tác xúc tiến đầu tư.Cụ thể như trong việc xuất bản tài liệu xúc tiến đầu tư,đưa lên Internet,đĩa CD-Rom,xây dựng mạng lưới xúc tiến ở nước ngoài,lập các văn phòng đại diện.Chẳng hạn Malaysia,hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0209.doc
Tài liệu liên quan