MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2
1. Các khái niệm cơ bản 2
1.1. Nguồn vốn là gì? 2
1.2.Thu hút nguồn vốn 2
1.3.Đầu tư 2
1.4. Đầu tư cho GDĐH 2
2. Phân loại các nguồn vốn đầu tư cho GDĐH 3
2.1. Theo các nguồn đầu tư 3
2.1.1. Đầu tư trong nước 3
2.1.2. Nguồn vốn nước ngoài 3
2.2. Nguồn vốn dùng để đầu tư theo lĩnh vực ngành đào tạo 4
2.2.1. Khối ngành Khoa học kĩ thuật 4
2.2.2. Khối nghành kinh tế, tài chính, ngân hàng 4
2.2.3. Khối ngành y tế 4
2.2.4. Khối ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ hải sản 5
2.2.5. Khối ngành văn hoá xã hội 5
3. Đầu tư cái gì 5
4.1. Trường học 5
3.1.1. Phải thuận lợi về vị trí 5
3.1.2. Cơ sở trường lớp 6
3.1.3. Đầu tư vào cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, vào các phòng thực hành thực nghiệm, vào khu KTX cho sinh viên 6
3.2. Đầu tư vào chất lượng giáo dục 7
3.2.1. Đội ngũ giảng viên 7
3.2.2. Đội ngũ sinh viên 8
3.2.3. Đầu tư vào các phòng ban nghiên cứu 8
3.2.4. Đầu tư vào các chương trình đào tạo, vào việc mua bản quyền giáo dục cho trường 9
4.Các nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH 9
4.1.Ngân sách nhà nước 9
4.2. Đầu tư của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước 10
4.2.1. Góp vốn ủng hộ các quỹ khuyến học 10
4.2.2. Đầu tư trực tiếp cho việc xây dựng, và phát triển đại học 10
4.3. Các nguồn tài trợ của các tổ chức khác trên thế giới 12
4.4. Nguồn thu sự nghiệp 12
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH 12
5.1. Chính sách và cơ chế quản lý giáo dục 12
5.1.1. Môi trường pháp lý 13
5.1.2. Môi trường chính trị xã hội 13
5.1.3. Chính sách về phân bổ sử dụng các nguồn lực tài chính 13
5.2. Môi trường và chất lượng giáo dục, đóng góp của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước 14
5.3. Nhu cầu của xã hội 15
5.4. Các nguồn cung ứng vốn 16
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN 17
1. Thực trạng chung của nền giáo dục ở Việt Nam 17
1.1. Quy mô phát triển GDĐH 17
1.2. Chất lượng GDĐH 18
2. Thực trạng các nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH ở Việt Nam 19
3. Thực trạng của vấn đề thu hút đầu tư, và đầu tư cho GDĐH ở Việt Nam hiện nay 20
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ 23
1.Chính sách của chính phủ 23
2. Tăng học phí 24
3. Tăng tính chủ động cho các trường 26
4. Đào tạo ĐH theo hai chương trình 24
5.Cổ phần hoá ĐH có phải là câu trả lời 24
KẾT LUẬN 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2258 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
theo cơ chế thị trường, hoặc là học theo quy tắc thị trường. Dĩ nhiên, quá trình quá trình giáo dục con người không phải là quá trình sản xuất dây chuyền, không phải là quá trình tiếp nhận đơn thuần. Vấn đề ở đây là đầu tư cho GDĐH hiện vẫn là một vấn đề lớn mà mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển cần phải chú trọng và tập trung nguồn lực nhiều. Cho nên, chúng ta vẫn luôn ủng hộ cho mọi nguồn đầu tư cho GDĐH.
Ở đây ta cũng cần xem xét sự khác nhau giữa nguồn đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài :
Đầu tư của các tổ chức kinh tế trong nước thường có nguồn vốn nhỏ, mang tính cấp thiết về nguồn lực. Chẳng hạn như đầu tư vào các ngành hiện tại có nhu cầu lớn như kế toán, ngân hàng, công nghệ thông tin… hoặc họ sẽ đầu tư vào các ngành mà hiện tại tổ chức của họ đang cần. Mặc dù như vậy sẽ rất mất thời gian và tốn kém, nhưng đó cũng là vấn đề sống còn của tổ chức họ.
Đầu tư của các tổ chức kinh tế nước ngoài thường có nguồn vốn rất lớn, thứ nhất, đó thường là những tập đoàn kinh tế mạnh, thứ hai, do có sự chênh lệch về tỷ giá hối đoái mà đồng tiền của họ cũng thường có giá trị hơn. Và thường đây là sự đầu tư của các tổ chức kinh tế của các nước phát triển hơn đến các nước kém phát triển hơn. Thường ở những trường này có mức học phí rất cao, nhưng bù lại thì cơ sở học tập lại cực kỳ tốt, môi trường học tập tốt, đội ngũ giảng viên vừa trong nước vừa nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có phương pháp giảng hiệu quả, và tại đây sinh viên có điều kiện học ngoại ngữ rất tốt, cùng với học hỏi được nền văn hoá của các nước…
Nói chung, cái gì cũng có cái giá đích thực của nó, tuỳ từng điều kiện hoàn cảnh mà mỗi người sẽ tự lựa chọn cho con đường học của mình.
4.3. Các nguồn tài trợ của các tổ chức khác trên thế giới
Đó là các nguồn tiền viên trợ từ các tổ chức như IMF ( quỹ tiền tệ quốc tế), UNESCO ( tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp Quốc), nguồn tài trợ ODA của các nước khác, …Các nguồn viện trợ này thường dành cho các nước nghèo, kém phát triển, tạo điều kiện cho họ có thêm nguồn lực đầu tư cho giáo dục, để họ có điều kiện học tập trong môi trường tốt hơn, họ có thể được tiếp cận với tri thức khoa học của thế giới… họ viện trợ để xây dựng trường lớp, để cung cấp các máy móc trang thiết bị trường học tiên tiến. Có như thế thì các nước này mới có điều kiện để phát triển nền kinh tế, mới có thể sánh vai với các nước khác trên thế giới.
4.4. Nguồn thu sự nghiệp
Đó là nguồn thu từ học phí, lệ phí, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất dịch vụ…).
Học phí là nguồn thu chủ yếu của tất cả các trường đại học. Học phí thu được, một phần để trả lương cho các cán bộ, công nhân viên trong trường, phần khác được giữ lại để tái đầu tư…
Các tổ chức đầu tư với mục đích để kiếm lợi nhuận thì học phí là vấn đề quan tâm hàng đầu của họ. Một mức học phí cao nhưng hợp lý thì mới tạo điều kiện cho trường phát triển, tạo được danh tiếng cho trường.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH
5.1. Chính sách và cơ chế quản lý giáo dục
Chính sách của chính phủ tác động đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội nói chung, việc thu hút đầu tư cho GDĐH cũng không nằm ngoài quy luật đó. Cơ chế quản lý giáo dục là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình giáo dục của quốc gia. Chính sách và cơ chế quản lý giáo dục phải tập trung tạo ra được đòn bẩy quan trọng và đúng đắn trong thị trường giáo dục, dựa vào những quy định luật pháp phù hợp và chi tiết hơn , trong đó luật giáo dục có vai trò cơ bản .
5.1.1. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư cho tất cả mọi lĩnh vực nói chung và cho GDĐH nói riêng. Một hành lang pháp lý đầy đủ, minh bạch, rõ ràng sẽ tạo cho nhà đầu tư cảm thấy yên tâm, an toàn với nguồn vốn của mình. Họ sẽ cảm thấy có một điều kiện tốt để phát huy được giá trị của nguồn vốn của mình theo mục đích nào đó. Cho dù nhà đầu tư mở trường với mục tiêu lợi nhuận, nhưng luật, chính sách và cơ chế quản lý sẽ buộc họ phải kiếm lời qua chất lượng giáo dục và giá trị thực sự mà trường mang lại cho người học, xã hội và đất nước. Khi nhà nước có một hệ thống pháp luật phù hợp xu thế phát triển của đất nước cũng như của thế giới, thì việc thu hút nguồn vốn cho GDĐH sẽ dễ dàng hơn.
5.1.2. Môi trường chính trị xã hội
Để có thể thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư của nước ngoài thì môi trường chính trị xã hội là nhân tố cực kỳ quan trọng. Một môi trường chinh trị ổn định sẽ tạo được sự an tâm cho các nhà đâu tư, họ cảm thấy tự tin với môi trường an toàn, sẽ sẵn sàng đầu tư nhiều hơn nữa. Khi mà môi trường chính trị xã hội tốt, đầu tư đạt được mục đích của mình, họ sẽ lại tiếp tục đầu tư nhiều hơn nữa. Một đất nước có một nền chính trị không ổn định sẽ rất khó thu hút được nguồn đầu tư nói chung và đầu tư cho GDĐH nói riêng. Người ta cảm thấy bất an với nguồn vốn của mình, không ai muốn mạo hiểm trong khi có những nơi an toàn hơn cho họ đáp xuống.
5.1.3. Chính sách về phân bổ sử dụng các nguồn lực tài chính
Phân bổ là một nhân tố cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút đầu tư cho giáo dục, sự phân bổ phải hợp lý, rõ ràng, và cần thiết. Nếu phân bổ nguồn tài chính không rõ ràng rất dễ gây bức xúc đối với xã hội và các nhà đầu tư. Cần thực hiện việc phân bổ một cách công băng nhất. Công bằng ở đây không có nghĩa là “cào bằng”. Một thực tế hiện nay là “ai cũng muốn như ai”, không tỉnh nào, không trường nào muốn mình thua thiệt về nguồn vốn hơn các tỉnh, các trường khác. Tuy nhiên, không cào bằng, đó là cần phải có chính sách, cơ chế phân bổ hợp lý, cũng cần phải có trọng tâm, trọng điểm. Có như vậy, đất nước mới có một điểm tựa vững vàng, xây dựng và phát triển tốt ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
5.2. Môi trường và chất lượng giáo dục, đóng góp của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước
Một quốc gia dù giàu hay nghèo thì cũng luôn luôn đặt giáo dục lên hàng đầu, đặc biệt là GDĐH - đào tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Môi trường giáo dục là tập hợp tất cả các yếu tố xung quanh, có mối quan hệ tương hỗ, ảnh hưởng đến quá trình giáo dục và đào tạo. Có môi trường giáo dục lành mạnh, người ta sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi rót vốn vào.
Chất lượng giáo dục cũng là nhân tố quyết định đến việc thu hút vốn.. Nó làm cho nhà đầu tư cảm thấy hứng thú với hiệu quả của nguồn vốn mình bỏ ra. Nội dung chương trình giảng dạy cần gắn liền với tiến trình phát triển của nền kinh tế. Kinh tế xã hội ngày càng phát triển với tiến độ chóng mặt, trong khi đó GDĐH trì trệ, không theo kịp được với tiến độ phát triển đó thì người đầu tư sẽ cảm thấy không thoả mãn. GDĐH phải đi bên cạnh, song song với sự phát triển của đất nước. GDĐH là động lực của phát triển xã hội, là trung tâm tri thức của xã hội. Lấy thực tiễn kinh tế, xã hội làm kim chỉ nam cho định hướng phát triển nội dung giảng dạy, học tập trong nhà trường. Những sinh viên do nhà trường đào tạo ra không chỉ là để cầm tấm bằng giỏi, bằng khá, mà họ là những con người đi sâu đi sát với thực tiễn, có khả năng thích ứng với nền kinh tế trong tương lai. Sinh viên sau khi tốt nghiệp, ra trường, họ sẽ là chủ nhân của đất nước, họ sẽ là đường lối, là sức trẻ nhiệt huyết xây dựng và phát triển đất nước.
Đóng góp của nền GDĐH đối với sự phát triển đất nước.
Nguồn nhân lực có vai trò chính trong sự phát triển kinh tế của đất nước, con người luôn luôn là lực lượng nòng cốt trong mọi vấn đề. Nguời sinh viên sau khi ra trường, họ sẽ cống hiến sức trẻ, cống hiến tài năng của minh. Họ sẽ làm đất nước vận động lên theo một hướng mới, hướng nên kinh tế đất nước phát triển theo xu hướng chung của thế giới. Những lớp con người mới sẽ có cái nhìn mới về xây dựng đất nước, không theo quan điểm bảo thu lạc hậu của thế hệ đi trước. Họ sẽ đưa đất nước đi lên bằng chính sức lực của mình, đưa một luồng gió mới đến cho đất nước. Làm cho đất nước vận động theo chiều hướng tốt mới tốt hơn.
Trong bất kì một tổ chức nào, con người cũng là nhân tố quyết định đến thành công của tổ chức đó. Phát triển hay tiêu vong? Đó chính là nhờ nguồn nhân lực chất lượng cao đó.
Sự đóng góp của họ được nhìn chung, một cách tổng thể đó là đưa đất nước lên một tầm cao mới, đưa nền kinh tế đất nước phát triển. Mọi người có cuộc sống vật chất no đủ, có đời sống tinh thần được tăng cao…
5.3. Nhu cầu của xã hội
Sinh viên là lực lượng kế cận nhất nắm lấy vai trò là người lãnh đạo đất nước vì vậy đầu tư cho GDĐH không chỉ là nhu cầu, mong muốn của các bạn sinh viên mà đó còn là đòi hỏi cấp thiết của toàn xã hội.
Thời đại ngày nay không những là thời đại của nền kinh tế công nghiệp với kĩ thuật tiên tiến, hiện đại mà đó còn là thời đại của nền “kinh tế tri thức”.Nắm bắt được tri thức sẽ cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về mọi mặt của đời sống. Đó là hành trang để bước vào thời đại mới, để hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Vì nền kinh tế nước ta đang trên đà hội nhập nên nhu cầu của các ngành nghề trong xã hội cũng có sự thay đổi so với trước. Trước đây, những ngành về công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, ngân hàng… chưa được xã hội quan tâm nhưng ngày nay do đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế đất nước và sự hội nhập kinh tế nên những ngành này ngày càng được quan tâm, chú ý hơn. Bên cạnh đó, những ngành mới xuất hiện như: tự động hoá, thời trang… cũng được đông đảo bạn trẻ đón nhận và xã hội quan tâm.
Nói điều đó để biết rằng các nhà đầu tư cho GDĐH không chỉ cần nhận biết về nhu cầu ngành nghề ở hiện tại mà cũng phải đi trước, đoán nhận biết xu hướng phát triển ngành nghề trong tương lai để từ đó đầu tư cho hợp lí và có hiệu quả hơn
Hơn nữa vấn đề nên đầu tư vào ngành, lĩnh vực gì cũng cần phải chú ý đến nhu cầu ngành nghề hiện tại của địa phương. Chẳng hạn, ở một thành phố lớn, đô thị sầm uất thì việc đầu tư vào khối ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng là một sự đầu tư hợp lý, ở những địa phường mà có rất nhiều khu công nghiêp thì khối ngành khoa học kĩ thuật là sự lựa chọn hàng đầu… Có cầu mới có cung, cung cầu gặp nhau, tạo điều kiện chọ nền giáo dục phát triển.
5.4. Các nguồn cung ứng vốn
Như chúng ta đã nói ở trên, để hình thành nên một trường đại học thì không chỉ có cầu thôi mà cung cũng là một nhân tố rất quan trọng. Họ là những người bỏ vốn ra để xây dựng trường học, chiêu mộ giảng viên, tổ chức học tập. Họ là những người đóng vai trò quyết định đến việc thành lập trường, hoặc tài trợ cho chính phủ để đầu tư vào giáo dục. Họ ở đây là những cá nhân hoặc tổ chức.
Cá nhân ở đây là những người đơn lẻ tham gia vào quá trình đầu tư cho giáo dục. Đó có thể là một doanh nhân, một tỷ phú, một người nghệ sỹ… tóm lại họ phải là những người có rất nhiều tiền, và họ là những người quan tâm đến nền giáo dục. Họ có thể đầu tư toàn bộ xây dựng một trường, tham gia mọi công việc của trường, tức là với hình thức đầu tư trực tiếp. Cũng có thể họ đứng ra mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ và chuyên môn cho đội ngũ giảng viên, hay đơn thuần họ chỉ đầu tư trang thiết bị hiện đại cho một trường nào đó…. Dù đầu tư dưới hình thức nào thì người đầu tư cũng phải nhìn thấy triển vọng , tương lai của nó. Nếu họ nhìn thấy ở đó sẽ khả quan thì họ sẽ đầu tư, và sẽ đầu tư nhiều hơn, ngược lại nếu sự án không khả quan thì họ không cảm thấy thích thú đầu tư, không muốn đầu tư và họ có thể sẽ không đầu tư nữa. Không chỉ là những người đầu tư nhằm kiếm lợi nhuận mới có suy nghĩ như vậy mà kể cả những người viện trợ, làm từ thiện cũng vậy. Tức là, đã xác định đầu tư cái gì thì cũng phải mang một hiệu quả nhất định nào đó.
Các tổ chức ở đây là các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các tổ chức chính trị xã hội khác. Việc đầu tư của họ cũng có hai mục đích hoặc là để giúp đỡ các quốc gia đang phát triển, hoặc cũng có thể là đầu tư để kiếm lợi nhuận Ngành giáo dục đang là một lĩnh vực đầu tư mới rất nhiểu triển vọng, đó thực sự là một ngành siêu lợi nhuận. Viêc các cá nhân, hoặc tổ chức đầu tư vào đây với mục đích kiếm lời là một hướng đúng.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng chung của nền giáo dục ở Việt Nam
1.1. Quy mô phát triển GDĐH
Từ năm 1998 đến nay, quy mô GDĐH đã tăng đáng kể. Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn 2001-2010 đã được chính phủ phê duyệt, trong đó chú ý đến việc xây dựng các trường đại học, cao đẳng tại các vùng khó khăn, thành lập thêm các trường đại học công lập tại Thanh Hoá, An Giang, Vĩnh Long, Tây Bắc nhằm tạo điều kiện đào tạo cho nguồn nhân lực tại chỗ, đồng thời qua đó có các trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội trên đia bàn.
Bằng nhiều nguồn vốn, các trường đã cố gắng nâng cấp thư viện, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành, mua sắm thiết bị hiện đại và nối mạng Internet. Tuy nhiên, tình trạng chung là cơ sở vật chất kĩ thuật của các trường đại học còn thiếu và lạc hậu, diện tích sử dụng của các trường mới chỉ đáp ứng được 1/3 chuẩn quy định. Việc xây dựng chương trình khung và công tác biên soạn giáo trình chưa được quan tâm đúng mức, giáo trình đại học hiện nay còn thiếu nhiều và lạc hậu.
Phần đông giảng viên nòng cốt, chuyên gia đầu ngành đã cao tuổi trong khi chưa xây dựng được đội ngũ kế cận. Thêm vào đó, chưa có chính sách thích hợp để xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học của các cơ quan nghiên cứu tham gia giảng dạy tại các trường đại học. Hoạt động nghiên cứu khoa học tại các trường đại học chưa được quan tâm đúng mức. Đa số giảng viên chỉ tập trung vào giảng dạy, ít tham gia nghiên cứu khoa học.
Trong 5 năm qua, số sinh viên tăng bình quân 6,4%. Hàng năm, số sinh viên từ khu vực nông thôn miền núi chiếm khoảng 70 % số sinh viên tuyển mới.
Số lượng tuyển sinh đại học, cao đẳng tuy tăng hàng năm song mới đáp ứng được một phần nhu cầu đại học trong cả nước.
Theo đề án Đổi mới GDĐH do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) soạn thảo, đến 2020 sẽ xây dựng 900 trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) với tổng số 4,5 triệu sinh viên, tổng kinh phí đầu tư là 20 tỷ USD.
Đây là lần đầu tiên vấn đề đổi mới GDĐH được đặt ra trong một kế hoạch tổng thể và dài hơi, thực hiện từ năm 2006 - 2020. Đề án này thu hút được sư quan tâm chú ý bởi những giải pháp đột phá mạnh mẽ có thể tạo ra bước chuyển cơ bản cho GDĐH nước ta nhưng bên cạnh đó, đề án cũng đặt ra những thách thức không hề nhỏ.
Để đạt được mục tiêu trên vào năm 2020, trước mắt, ngành giáo dục cần tập trung đổi mới ngay cơ chế quản lý với sự xoá bỏ cơ quan chủ quan, tiến tới các trường đại học sẽ không còn cơ quan chủ quan, xoá bỏ sự cách biệt giữa người ở trong biên chế và người ở ngoài biên chế; mạnh dạn mở rộng đầu vào và sàng lọc trong quá trình đào tạo để thắt chặt đầu ra; đổi mới và đào tạo theo hệ thống tín chỉ; nhập khẩu một số chương trình đào tạo để một số ngành giảng dạy bằng tiếng Anh và thành lập những trường có 100% vốn đầu tư nước ngoài…
Đổi mới GDĐH là một vấn đề lớn với bảy nhóm nội dung và giải pháp. Để thực hiện đề án này, Bộ sẽ chia thành ba giai đoạn với những giải pháp mang tính đột phá.
Giai đoạn 2006 -2007, trọng tâm là xây dựng sự thông nhất về ý chí và hành đông của xã hội tham gia đổi mới GDĐH, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, xây dựng các tiểu dự án.
Giai đoạn 2008 - 2010, trọng tâm là tạo được chuyển biến bước đầu về chất lượng GDĐH, về cơ chế quản lý và tài chính hiệu quả, về xây dựng, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý GDĐH.
Giai đoạn 2011 - 2020, trọng tâm là hình thành hệ thống giáo dục đại học hiện đại, mạng lưới các trường ĐH hợp lý, hội nhập quốc tế và đạt trình độ chất lượng khu vực.
1.2. Chất lượng GDĐH
Những năm gần đây, nhiều trường đại học, cao đẳng thực hiện các biện pháp có hiệu quả để nâng cao trình độ giảng viên, tăng cường cơ sở vật chất. Ở một số trường trọng điểm có truyên thống như trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trình độ của sinh viên tốt nghiệp đã tiếp cận trình độ của các trường đại học trong khu vực.
Trong đội ngũ giảng viên được đánh giá chuyên môn tốt có khoảng 81% số tiến sĩ, 93% số thạc sĩ, 47% số cán bộ có trình độ đại học và 30% có trình độ cao đẳng. Về tinh thần trách nhiệm, có 85% số tiến sĩ, 85% số thạc sĩ, 54% số cán bộ trình độ đại học, và 76% số cán bộ trình độ cao đẳng đạt tiêu chuẩn. Tuy nhiên đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng còn rất mỏng, chỉ hơn 50% so với chuẩn quy định.
Tuy việc tuyển sinh chặt chẽ, nhưng cách đánh giá quá trình học tập lại lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên chưa chăm chỉ học tập. Một số sinh viên còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, chưa tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, cờ bạc, rượu chè trong sinh viên tuy có giảm nhưng vẫn còn cao.
Chất lượng đào tạo đại học có sự phân tầng rõ rệt giữa các hệ chính quy và không chính quy, giữa các trường công lập trọng điểm với trường công lập địa phường và dân lập. Sinh viên ít có điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học; năng lực tự học, tự nghiên cứu, thực hành, khả năng giao tiếp và hợp tác trong công việc còn yếu. Trình độ ngoại ngữ của sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Thực trạng các nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH ở Việt Nam
Tình trạng khá phổ biến ở các nước đang phát triển là nguồn đầu tư cho GDĐH một phần quan trọng do Chính phủ cấp (từ ngân sách giáo dục công cộng) hàng năm trên cơ sở quy mô đào tạo theo kế hoạch của Chính phủ. Một phần kinh phí khác do nguồn học phí của sinh viên nộp theo quy định. Nguồn kinh phí còn lại do các trường tự khai thác thông qua kiên kết đào tạo và các hoạt động khác. Ở các nước đang phát triển, Ngân hàng thế giới đã khuyến cáo các Chính phủ chuyển mạnh hơn từ hệ thống cung cấp tài chính công cộng sang thu tiền người học cùng với việc cung cấp vốn vay cho sinh viên rộng rãi hơn kết hợp với một số lượng hạn chế học bổng.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng. Điều lệ trường đại học, ban hành Quyết định số:153/2003/QĐ-TTg ngày 20/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ, các loại hình trường đại học bao gồm: công lập, bán công, dân lập và tư thục được quy định tại Điều 13 Nghị định số 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật của giáo dục. Nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH bao gồm: NSNN cấp (kinh phí hoạt động thường xuyên, kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học) , vốn đầu tư xây dựng cơ bản; nguồn thu sự nghiệp, (học phí, lệ phí, hợp tác đào tạo, sản xuất dịch vụ…) ; các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật. Kinh phí có GDĐH ngoài các khoản đầu tư hàng năm từ ngân sách còn có nguồn viện trợ từ các tổ chức quốc tế, vay vốn của ngân hàng thế giới và ngân hàng phát triển châu Á qua các dự án phát triển GDĐH. Ngoài ra còn có nguồn ngoại tệ từ quỹ chuyên gia và dạy nghề, các khoản thu học phí của các sinh viên và đóng góp của nhân dân xây dựng trường sở, các khoản thuế phải nộp nhưng được cấp lại để bổ sung kinh phí cho sự nghiệp giáo dục.
Như vậy, nguồn lực tài chính đầu tư cho GDĐH ở nước ta hiện nay đã được xã hội hoá. Muốn khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính cùng với việc tăng thêm và sử dụng có hiệu quả chủ yếu là NSNN, tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, của nước ngoài, cải tiến chế độ học phí, huy động sự đóng góp của cha mẹ học sinh và của các tổ chức sản xuất kinh doanh… để phát triển giáo dục trong quá trình hội nhập quốc tế, nhiệm vụ quan trọng của các nhà quản lý GDĐH hiện nay là: tạo ra và triệt để khai thác các nguồn lực tài chính hợp pháp đảm bảo mọi chi phí chính đáng của GDĐH, đồng thời phải có chiến lược khai thác các nguồn đầu tư đảm bảo cho GDĐH tăng trưởng bền vững và ổn định.
3. Thực trạng của vấn đề thu hút đầu tư, và đầu tư cho GDĐH ở Việt Nam hiện nay
Từ sau đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã khởi sắc và phát triển, đời sống nhân dân đã được tăng lên đáng kể, làm cho nhu cầu học tập ngày càng gia tăng. Cũng từ đó mà vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư cho giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng đã được Đảng và nhà nước chú ý hơn và việc thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH có vẻ dễ dàng hơn. Nhà nước đã có rất nhiều chính sách khuyến khích đầu tư cho GDĐH, kêu gọi các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có điều kiện tốt nhất để thực hiện công việc của họ. Đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Đã có rất nhiều dự án đã được lên kế hoạch đầu tư. Các dự án đầu tư của các tổ chức trong nước và các tổ chức nước ngoài. Họ là các tổ chức, cá nhân đã thấy được rằng môi trường đầu tư của Việt Nam rất tốt, khi đầu tư ở Việt Nam học được rất nhiều ưu đãi. Đó là các chính sách ưu đãi về đất đai, về thuế. Chẳng hạn khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cho GDĐH Việt Nam thì họ sẽ được nhà nước tạo điều kiện bằng cách cho họ quyền sử dụng đất, rồi một thời gian rất dài kể từ khi dự án được đi vào hoạt động mà không phải đóng thuế, ở đây tức là miễn thuế thu nhập cho các khoản đóng góp cho giáo dục. Chính hoạt động này có thể huy động những khoản tiền không nhỏ cho giáo dục.
Hơn nữa, môi trường chính trị xã hội ở Viêt Nam rất ổn định. Chính nhờ điều kiện này mà việc thu hút đầu tư trở nên dễ dàng hơn. Các nhà đầu tư đã không phải lo lắng về sự đầu tư của mình bị ảnh hưởng do môi trường chính trị không tốt. Rất ít bạo loạn, rất ít đình công, nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Đó là một yếu tố quan trọng mà Việt Nam đã tạo được trong tâm trí các nhà đầu tư nói chung và đầu tư cho GDĐH nói riêng..
Một yếu tố không thể không kể đến đó là nhu cầu học tập và sức học hiện nay ở Việt Nam. Một đất nước đang trên đà phát triển, kinh tế tri thức ngày càng cần thiết thì vấn đề học tập để mình trở thành nguồn nhân lực giỏi là nhu cầu bức thiết của mọi người.
Việc liên kết đào tạo nguồn nhân lực giữa các trường đại học hiên nay cũng đang tiến triển rất tốt. Điển hình đó là đại học RMIT ( 100% là vốn nước ngoài, có trụ sở chính tại Úc), năm 1998 đã được xây dựng, nó là đại học đầu tiên ở Việt Nam là trường đại học đẳng cấp quốc tế, với số vốn đầu tư 20 triệu USD, đặt tại thành phố HCM. Tuy nhiên, phải đến năm 2000, các hoạt động GDĐH của RMIT như giảng dạy, nghiên cứu mới bắt đầu. Khóa đầu tiên chỉ có 30 sinh viên theo học nhưng hiên nay tình hình đã khác, số sinh viên tại đại học RMIT gia tăng nhanh chóng qua từng năm. Hiện nay RMIT đã thu hút được hàng ngàn sinh viên Việt Nam, mỹ, Đức, Pháp, Singapore, Malaysia, Nam Phi, Hàn Quốc, Trung Quốc,… theo học. Trường có quy mô rộng 12,4 ha. Toà nhà chính hơn 100m với 4 tầng có sức chứa lên tới 3000 sinh viên. Có thể nói rằng trong những năm gần đây, RMIT đang chiếm vị thế độc tôn đào tạo nguồn nhân lực bậc cao cho các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước.
Tuy nhiên, RMIT sẽ không còn chiếm giữ vị trí độc tôn trong GDĐH bậc đại học quốc tế tại Việt Nam, bởi một dự án tầm cỡ về đầu tư xây dựng khu đô thị -đại học quốc tế thành phố HCM đã được kí kết. Dự án đầu tư Khu đô thị - Đại học Quốc tế tại TP.HCM, với tổng số vốn đầu tư lên đến 3,5 tỷ USD, của Công ty Berjaya Land Berhad (thuộc Tập đoàn Berjaya Berhad của Malaysia) được ký kết đang tạo ra một tín hiệu lạc quan trong đào tạo nguồn nhân lực bậc cao. Cùng với đó, hiện đang có một số trường đại học lớn đang tiến hành khảo sát về thị trường GDĐH và khả năng đầu tư vào những ngành học đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam. Tháng 1-2009 thời điểm mà các trường đại học nước ngoài chính thức được lập chi nhánh tại Việt Nam theo lộ trình cam kết với WTO. Dự án trên của Malaysia đã phát lên một tín hiệu khá rõ về “làn sóng” cạnh tranh trong hoạt động đào tạo bậc đại học đẳng cấp quốc tế từ các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư trong lĩnh vực GDĐH quốc tế cũng đã nhận thấy được sự phát triển và nhu cầu tất yếu về nguồn nhân lực bậc cao ở Việt Nam.
Nếu như RMIT Việt Nam đi tiên phong trong việc xây dựng một môi trường giảng dạy sáng tạo và đổi mới, cam kết mang đến cho sinh viên nền giáo dục đào tạo chất lượng quốc tế thì dự án của Tập đoàn Berjaya Berhad bứt phá với quy mô lớn hơn nhiều. Đây là dự án có vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất từ trước tới nay tại TP.HCM. Dự án này mang tính chất cụm trường đại học và liên hoàn với các cụm dân cư, thu hút một số lượng lớn sinh viên và giáo viên. Những trường đại học nước ngoài trong dự án này cũng có thể mở ra cơ hội liên kết với các trường đại học ở trong nước về nhiều mặt như liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học... Và, đương nhiên sẽ trở thành một đối trọng cạnh tranh với các trường đại học quốc tế khác trong nước hiện nay. Đây là dự án điển hình tại Việt Nam, do kết hợp hài hòa giữa giáo dục và cộng đồng, giữa nét hiện đại và bản sắc văn hóa nhằm đáp ứng các nhu cầu của một cộng đồng đa văn hóa.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
Qua bài nghiên cứu trên ta nhận thấy có một số vấn đề nổi cộm của tình hình thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH . Cần phải có giải pháp như thế nào để có thể thu hút được nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Sau đây là một số giải pháp
1.Chính sách của chính phủ
Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư cho GDĐH, một số giải
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26351.doc