Đề tài Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA: Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Mục tiêu nghiên cứu 2

2.1. Mục tiêu chung 2

2.2. Mục tiêu cụ thể 2

3. Phương pháp nghiên cứu 2

3.1. Phương pháp thu thập số liệu 2

3.2. Phương pháp phân tích số liệu 2

4. Phạm vi nghiên cứu 3

4.1. Phạm vi không gian 3

4.2. Phạm vi thời gian 4

4.3. Đối tượng nghiên cứu 4

PHẦN NỘI DUNG 5

1. Cơ sở lý luận chung về nguồn viện trợ phát triển chính thức 5

1.1. Tổng quan về ODA 5

1.1.1. Khái niệm vốn ODA 5

1.1.2. Lịch sử hình thành nguồn vốn ODA 6

1.1.3. Các hình thức của ODA 7

1.1.4. Phân loại ODA 7

1.2. Đặc điểm và vai trò của ODA 8

1.2.1. Đặc điểm 8

1.2.2. Vai trò 9

1.3. Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA 11

1.4. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu 11

2. Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam 12

2.1. Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA trong giai đoạn 2008 – 2009 12

2.1.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam 12

2.1.2. Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA 13

2.2. Một số kết quả đạt được và tồn tại cần khắc phục trong quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA 21

2.2.1. Một số kết quả đạt được 21

2.2.2. Những tồn tại cần khắc phục trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA 23

2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến những thành công, hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn ODA và bài học rút ra 24

2.3.1. Nguyên nhân thành công 24

2.3.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế 25

2.3.3. Một số bài học rút ra 26

3. Những giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA và kinh nghiệm của một số quốc gia 27

3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong thu hút và sử dụng vốn ODA 27

3.1.1. Các giải pháp thực hiện 27

3.1.2. Kết quả mà Trung quốc đạt được 28

3.2. Những giải pháp tăng cường thu hút vốn ODA 28

3.3. Những giải pháp nhằm sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả hơn 29

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 31

TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1795 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt các khoản trợ giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ. ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ sung cho đầu tư tư nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ. ODA giúp các nước đang phát triển tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế. Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA Theo điều 3 Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ban hành kèm theo nghị định số 131/2006/NĐCP ngày 9 tháng 11 năm 2006 của Chính Phủ) thì vốn ODA được ưu tiên sử dụng cho những công trình, dự án thuộc các lĩnh vực sau: Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản) kết hợp xoá đói giảm nghèo. Xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại. Phát triển kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, lao động, việc làm, dân số và một số lĩnh vực khác). Bảo vệ môi trường và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên Tăng cường năng lực thể chế, quản lý, kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai. Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu Cho đến nay, sau 16 kỳ hội nghị CG được tổ chức, Việt Nam có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương có các chương trình ODA thường xuyên. Một số nhà tài trợ song phương lớn như: Australia, Đức, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Singapore, Thụy Sĩ, Trung Quốc, Vương Quốc Anh, … Một số nhà tài trợ đa phương lớn gồm: Các tổ chức tài chính quốc tế: Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB) Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Ủy ban châu Âu (EC) Liên minh Châu Âu (EU) Các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc bao gồm: Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA) Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD) Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO) Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Các tổ chức phi Chính phủ quốc tế tại Việt Nam (NGO) Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA trong giai đoạn 2008 – 2009 Cơ sở pháp lý cho hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam Năm 1993 việc quản lý và sử dụng vốn ODA được điều tiết bởi từng quyết định riêng lẻ của Thủ tướng Chính phủ đối với từng dự án và nhà tài trợ cụ thể. Kể từ Hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam họp tại Paris diễn ra vào tháng 11 năm 1993, nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức tại Việt Nam, Chính phủ đã không ngừng hoàn thiện khung thể chế về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA trên nhiều mặt theo hướng đồng bộ hóa với các quy định về quản lý nguồn vốn nước ngoài, các văn bản pháp quy trong nước cũng như chủ trương phân cấp mạnh mẽ quản lý đầu tư và xây dựng của Chính phủ, đó là: Định hướng quản lý nợ nước ngoài đến năm 2010 (theo quyết định số 135/2005/QĐ-TTg ngày 8 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ) Nghị định số 131/2006/QĐ-TTg ngày 9 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Trên cơ sở này, các cơ quan quản lý nhà nước về ODA đã ban hành nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn này, như là: Thông tư số 03/2007/TT-BKH ngày 12 tháng 03 năm 2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Ban quản lý chương trình, dự án ODA Quyết định số 803/2007/QĐ-BKH ngày 30 tháng 7 năm 2007 ban hành chế độ báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA Thông tư số 01/2008/TT-BNG ngày 04 tháng 02 năm 2008 hướng dẫn quy trình, thủ tục ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về hướng dẫn trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về nguồn vốn ODA Quyết định số 883/2008/QĐ-BKH ngày 14 tháng 07 năm 2008 về việc ban hành kế hoạch hành động cải thiện tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thời kỳ 2008 – 2009 Quyết định số 119/2009/QĐ-TTg ngày 01 tháng 10 năm 2009 ban hành Quy chế chuyên gia nước ngoài thực hiện các chương trình, dự án ODA Quyết định 747/QĐ-BKH ngày 28/05/2010 ban hành kế hoạch hành động cải thiện tình hình thực hiện các chương trình, dự án thời kỳ 2010-2011 Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA Công tác thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trong giai đoạn 2008 – 2009 đã được thực hiện tích cực, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đó là "Việt Nam sẵn sàng là một đối tác vững chắc trong cộng đồng quốc tế, nổi bật cho hòa bình, độc lập và phát triển". Việc thu hút ODA được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và ở tất cả các cấp từ Trung ương đến cơ sở cũng như ở các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Mặc dù tình hình kinh tế trong nứớc gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2008, song các nhà tài trợ tiếp tục thực hiện các cam kết ODA dành cho Việt Nam với mức cam kết năm sau luôn cao hơn năm trước. BẢNG 2.1: KHỐI LƯỢNG VỐN ODA CAM KẾT, KÍ KẾT VÀ SỬ DỤNG TRONG 2 NĂM 2008 – 2009 ĐVT: triệu USD Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch Cam kết 5.426 5.914 488 8,99% Ký kết 3.950 5.793 1.843 46,66% Sử dụng 2.253 3.653 1.400 61,14% (Nguồn: Bộ KH & ĐT) BẢNG 2.2: BẢNG THỂ HIỆN TỈ LỆ VỐN VAY VÀ VỐN VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI TRONG TỔNG VỐN ODA ĐVT: triệu USD Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch Ký kết Sử dụng Ký kết Sử dụng Ký kết Sử dụng Vốn vay 2.904 1.933 5.530 3.283 2.626 90,43% 1.350 69,84% Viện trợ không hoàn lại 1.046 320 263 370 -783 -74,86% 50 15,63% Tổng cộng 3.950 2.253 5.793 3.653 1.843 46,66% 1.400 61,14% (Nguồn: Bộ KH & ĐT) Để hiện thực hóa số vốn 5,914 tỷ USD ODA đã cam kết tại Hội nghị thường niên Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (Hội nghị CG) năm 2008, cũng như những cam kết của các năm trước, các nhà tài trợ đã hợp tác chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương trong việc xây dựng và phê duyệt dự án, ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA. Tổng vốn ODA đã ký từ năm 2009 đạt 5.793 triệu USD (trong đó, vốn vay: 5.530 triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 263 triệu USD), cao hơn 46,66% so với vốn ODA ký kết năm 2008 Một số nhà tài trợ có giá trị vốn ODA đã ký lớn như Nhật Bản (2.112,28 triệu USD), WB (1.445,86 triệu USD) và ADB (1.330,7 triệu USD). Những chương trình, dự án có giá trị lớn được ký kết tập trung chủ yếu vào lĩnh vực giao thông, cấp thoát nước và phát triển đô thị, bao gồm: "Xây dựng đường vành đai 3 Hà Nội" (245,27 triệu USD); “Cải thiện môi trường nước thành phố Huế” (182,48 triệu USD) do JBIC tài trợ; “Khoản vay hỗ trợ khắc phục tác động khủng hoảng” trị giá 500 triệu USD, “Phát triển toàn diện thành phố Thanh Hóa” trị giá 104,7 triệu USD do ADB và Hàn Quốc tài trợ; “Tín dụng ngành giao thông vận tải để nâng cấp mạng lưới đường bộ giai đoạn 2” trị giá 183,51 triệu USD; “Xây dựng tuyến đường sắt đô thị thành phố Hà Nội” trị giá 150,43 triệu USD do Nhật Bản tài trợ; và “Khoản tài trợ bổ sung cho Dự án năng lượng nông thôn II” trị giá 200 triệu USD, “Chương trình bảo đảm chất lượng trường học” trị giá 127 triệu USD, “Cung cấp nước sạch và thủy lợi tỉnh Bình Thuận” trị giá 19,74 triệu USD và “Thoát nước và xử lý nước thải thành phố Cà Mau” trị giá 17,89 triệu USD do Ý tài trợ, …Ngoài ra, còn có một số khoản viện trợ không hoàn lại như: “Phát triển nông nghiệp miền Tây Nghệ An giai đoạn III” trị giá 7,79 triệu USD do Luxembourg viện trợ, “Chương trình hợp tác chung với Liên Hợp Quốc về bình đẳng giới” trị giá 4,6 triệu USD do Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) viện trợ,… Các khoản tài trợ này góp phần hỗ trợ cho phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn và giúp vốn cho nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp và ngành nghề thủ công. Sự hỗ trợ này hết sức quý báu trong bối cảnh khu vực nông nghiệp và người dân nông thôn chịu tác động rất tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu, nhất là giá hàng nông sản xuất khẩu sụt giảm nghiêm trọng và thị trường tiêu thụ bị thu hẹp. Khoản vay hỗ trợ khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế của ADB trị giá 500 triệu USD tạo ra nguồn vốn quan trọng để kích cầu sản xuất, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hàng. Khoản vay kích thích kinh tế và tín dụng hỗ trợ giảm nghèo lần thứ 8 trị giá 54,9 tỷ Yên do Nhật Bản tài trợ được ký ngày 7/11/2009 nhân chuyến viếng thăm Nhật Bản và tham dự Hội nghị GMS cấp cao các nước tiểu vùng Mê-kông mở rộng tại Tokyo của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, đã cung cấp nguồn vốn quan trọng góp phần kích thích phát triển mạnh động thái hồi phục tích cực của nền kinh tế Việt Nam và giảm nghèo, đồng thời chuẩn bị cho những bước phát triển mạnh tiếp theo sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu... Tình hình giải ngân vốn ODA trong hai năm qua có những tiến bộ đáng kể. Kế hoạch giải ngân năm 2009 đề ra với tổng mức 1.900 triệu USD, trong đó vốn vay là 1.600 triệu USD và viện trợ không hoàn lại là 300 triệu USD. Mức giải ngân vốn ODA năm 2009 đã vượt kế hoạch đề ra, đạt khoảng 3.653 triệu USD (vốn vay: 3.283 triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 370 triệu (USD) nhờ một số khoản vốn ODA giải ngân nhanh do một số nhà tài trợ cung cấp để hỗ trợ khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tình hình giải ngân vốn ODA trong năm 2009 đã được cải thiện đáng kể là nhờ có sự điều hành sát sao của Chính phủ, nỗ lực to lớn của các ngành, các cấp và các nhà tài trợ trong việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA trong khung khổ thực hiện chủ trương và các giải pháp kích cầu của Chính phủ. Công tác quản lý và thực hiện vốn ODA ở các Bộ, ngành và địa phương (Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, TP. Cần Thơ, Thái Nguyên,...) đã được cải thiện thông qua việc ban hành các quy chế nội bộ về vận động, thu hút và sử dụng vốn ODA tạo thuận lợi cho việc tinh giản quy trình, thủ tục và tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ngành hoặc đơn vị liên quan. BẢNG 2.3: CƠ CẤU VỐN ODA SỬ DỤNG THEO NGÀNH VÀ LĨNH VỰC TRONG 2 NĂM 2008 - 2009 Các lĩnh vực ODA sử dụng (triệu USD) Cơ cấu (%) Nông - lâm nghiệp, thủy sản kết hợp phát triển nông nhiệp và nông thôn – Xóa đói giảm nghèo 1.096,97 18,57 Giao thông vận tải và bưu chính viễn thông 1.290,41 21,85 Cấp thoát nước và phát triển đô thị 785,03 13,30 Năng lượng và công nghiệp 976,91 16,54 Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác (bao gồm xây dựng thể chế, tăng cường năng lực, …) 1.756,68 29,74 Tổng cộng 5.906 100 (Nguồn: Bộ KH & ĐT) Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án ODA ký kết trong giai đoạn 2008 – 2009 đạt tổng trị giá khoảng 1,1 tỷ USD, chiếm 18,57% tổng vốn ODA; trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng, Dự án phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo khác đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục. Một số dự án tiêu biểu như: “Tín dụng giảm nghèo 7 (PRSC 7)” (150 triệu USD) do WB tài trợ, “Hiệp định khung Việt Nam - Thụy Điển về hợp tác phát triển” (100 triệu USD); Hiệp định khung về kế hoạch chung hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và 6 tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam (170 triệu USD) Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành sử dụng vốn ODA lớn nhất với tổng giá trị trên 1,29 tỷ USD (chiếm 21,85%) trong giai đoạn qua. Nhờ nguồn vốn này Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy nội địa. Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể nêu lên một số dự án như: hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường xuyên Á Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy. Hệ thống thông tin liên lạc ven biển, điện thoại nông thôn và internet cộng đồng... Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 0,9 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn như: Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360 MW nhằm cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị trấn, thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là nguồn vốn lớn và có ý nghĩa trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, khu vực tư nhân trong và ngoài nước trong giai đoạn phát triển ban đầu còn chưa mặn mà với đầu tư phát triển nguồn và lưới điện vì yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm. Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình, dự án đạt tổng số vốn trên 1,7 tỷ USD (chiếm 29,74%) Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại tại nước ngoài về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý. Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng 58% trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia,..., tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành. Nhiều chương trình và dự án ODA hỗ trợ Việt Nam bảo vệ môi trường và phát triển bền vững như các chương trình trồng rừng và phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; các chương trình và dự án xây dựng và bảo vệ các khu sinh quyển, rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,... Ngoài ra, hơn 1 tỷ USD vốn ODA còn được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách thông qua các khoản vay và viện trợ không hoàn lại gắn với chính sách của WB, ADB, IMF và một số nhà tài trợ song phương như hỗ trợ thực hiện các chính sách kinh tế trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng, phát triển khu vực tư nhân, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,… BẢNG 2.4: CƠ CẤU VỐN ODA SỬ DỤNG THEO VÙNG, LÃNH THỔ TRONG 2 NĂM 2008 - 2009 Vùng, lãnh thổ ODA sử dụng (triệu USD) Cơ cấu (%) Vùng trung du miền núi Bắc Bộ 925,47 15,67 Vùng Đồng bằng sông Hồng 1.102,65 18,67 Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 984,53 16,67 Vùng Tây Nguyên 747,70 12,66 Vùng Đông Nam Bộ 1.161,71 19,67 Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long 983,94 16,66 Tổng cộng 5.906 100 (Nguồn: Bộ KH & ĐT) Vùng trung du miền núi Bắc Bộ: ưu tiên sử dụng ODA (chiếm 15,67% tương đương 925,67 triệu USD) để thực hiện các chương trình và dự án trong các lĩnh vực như phát triển lâm nghiệp bền vững, tiếp cận các dịch vụ cơ sở hạ tầng bao gồm điện, thủy lợi, nước sạch và giao thông nông thôn, phát triển dân tộc thiểu số; xây dựng các trường dân tộc nội trú và tăng cường trang thiết bị cho các trường đại học, tăng cường trang thiết bị cho bệnh viện tuyến tỉnh và hình thành các trung tâm y tế; phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đẩy mạnh quan hệ kinh tế với Trung Quốc, tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp. Vùng đồng bằng sông Hồng là khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc: ưu tiên sử dụng ODA đạt 1.102,65 triệu USD (chiếm 18,67%) để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển trong các lĩnh vực như hiện đại hoá kết cấu hạ tầng (Dự án Phát triển giao thông đô thị Hà Nội trị giá 100 triệu USD), cải tạo các dịch vụ cơ sở hạ tầng khác; hỗ trợ xây dựng và trang bị một số trường đại học; phát triển hệ thống các trường đào tạo nghề; hỗ trợ đa dạng hóa thu nhập cho các hộ nông dân; tăng cường trang thiết bị cho hệ thống bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố; phòng chống ô nhiễm môi trường; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: ưu tiên sử dụng ODA trong thời gian qua đạt 98,453 triệu USD (chiếm 16,67%) để thực hiện các chương trình, dự án trong các lĩnh vực như quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên rừng; các hệ thống thủy lợi; giảm thiểu thảm hoạ thiên tai; giao thông nông thôn; hỗ trợ ngư dân ven biển và đồng bào thiểu số; phát triển cơ sở hạ tầng để thúc đẩy thương mại với các vùng khác trong nước và quốc tế; phát triển hệ thống các trường dạy nghề; phát triển hệ thống y tế; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp. Vùng Tây Nguyên ưu tiên sử dụng ODA cho các lĩnh vực như trồng rừng và bảo vệ các vườn quốc gia; xây dựng các công trình thủy lợi; phòng chống thiên tai, dịch bệnh; nâng cấp các quốc lộ nối các tỉnh duyên hải miền Trung, nâng cấp các tuyến đường sang Campuchia và Lào; cải thiện khả năng tiếp cận các cơ sở hạ tầng nông thôn; tăng cường các cơ hội tạo thu nhập cho người dân nông thôn; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp; tổng vốn ODA sử dụng thời gian qua đạt 74,77 triệu USD chiếm 12,66%. Vùng đông Nam Bộ bao gồm khu kinh tế trọng điểm phía Nam là vùng sử dụng vốn ODA nhiều nhất, đạt 116,171 triệu USD chiếm 19,67%; ưu tiên sử dụng ODA để thực hiện các chương trình, dự án trong các lĩnh vực thích hợp như hỗ trợ về khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp; đẩy mạnh trồng rừng phòng hộ ven biển; xây dựng hệ thống giao thông bao gồm các đường vành đai quanh thành phố Hồ Chí Minh, “Đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây” trị giá 410,20 triệu USD; hiện đại hoá hệ thống đường sắt và đường thủy, xây dựng cảng hàng không quốc tế mới và hệ thống giao thông công cộng ở thành phố Hồ Chí Minh; hoàn thiện và xây dựng hệ thống cấp và thoát nước nhằm cải thiện môi trường đô thị; tăng cường trang thiết bị y tế cho các bệnh viện tỉnh; xây dựng các trường đào tạo nghề; tăng cường năng lực quản lý đô thị. Vùng đồng bằng sông Cửu Long với số vốn ODA là 983,94 triệu USD (chiếm 16,66%) đã ưu tiên sử dụng ODA cho các lĩnh vực như: quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên; các hệ thống thủy lợi; giao thông nông thôn; phát triển giao thông đường thủy; khôi phục tuyến đường sắt thành phố Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho; phát triển cơ sở hạ tầng thành phố Cần Thơ (Dự án Giao thông đồng bằng sông Cửu Long (150 triệu USD), dự án Cầu Cần Thơ, Cầu Mỹ Thuận); phát triển cơ sở hạ tầng môi trường; đầu tư vào phát triển nông thôn tổng hợp; cải thiện các dịch vụ y tế, giáo dục; phát triển các trường dạy nghề; xây dựng trường Đại học Cần Thơ thành trường trọng điểm quốc gia; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp. Một số kết quả đạt được và tồn tại cần khắc phục trong quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA Một số kết quả đạt được Sau hơn 15 năm được huy động để phục vụ công cuộc phát triển của đất nước, nguồn vốn ODA đã đem lại những thành tựu bước đầu quan trọng. Hàng trăm dự án ODA được đưa vào thực hiện đã hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống của nhân dân đồng thời phù hợp với chủ trương và đường lối chỉ đạo của Đảng. Nguồn vốn ODA đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển, chiếm khoảng từ 22% đến 25% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả phần vốn ODA cho vay lại từ ngân sách nhà nước). ODA rõ ràng sẽ trở thành một kênh thu hút tài chính quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặc dù nhận được một số lượng vốn ODA tương đối lớn, nhưng nợ nước ngoài của nước ta vẫn còn trong khu vực an toàn như nhận xét của IMF (chiếm 30% GDP quốc gia và nằm trong giới hạn 50% GDP trong giai đoạn 2001 - 2010). Những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đã góp phần cải thiện cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Thông qua các dự án ODA, hệ thống đường bộ được phát triển đáng kể từ quốc lộ 1A, 10, 18, 9, đường xuyên Á (đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài), các cầu lớn (Mỹ Thuận, Cần Thơ, Thanh Trì,...); nâng cấp và mở rộng các cảng biển như Cái Lân (Hải Phòng), Sài Gòn, Tiên Sa (Đà Nẵng), xây dựng cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, phát triển giao thông nông thôn ở hầu hết các tỉnh... Nguồn vốn ODA đã đầu tư phát triển ngành điện bao gồm phát triển nguồn điện (các dự án Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2-1 với công suất 288MW, Phả Lại 2, Hàm Thuận - Đa My, Đại Ninh, Đa Nhim) và phát triển hệ thống đường dây 500 kV Plâyku - Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố. ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo. Số liệu các cuộc điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 70% vào năm 1986 xuống còn 13,5% năm 2008; tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 24,2% năm 2000 lên 30% năm 2009. Đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, thu nhập bình quân trên đầu người khoảng 1057 USD/người/năm năm 2009. Khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người so với các nước trong khu vực vẫn còn lớn, năm 2009 thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng 33% GDP/người của Trung Quốc, 11% của Malaysia và bằng khoảng 4% của Hàn Quốc. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng từ 71 tuổi năm 2002 lên 74,3 tuổi năm 2009. Thu nhập thực tế của mỗi người dân sau 10 năm tăng gấp 3,5 lần. Những kết quả này có sự góp phần quan trọng của ODA, điều này được thể hiện rõ nét thông qua các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xoá đói giảm nghèo (như dự án giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn II) trong đó nguồn vốn ODA đã giúp nông dân nghèo tiếp cận nguồn vốn vay để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm  y tế, trường học... ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tác động tích cực đến việc cải thiện chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như các dự án ODA hỗ trợ cải cách giáo dục tiểu học, trung học và đại học, tự án tạo nghề... Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc gia, ngành có ý nghĩa sâu rộng như chương trình dân số và phát triển, chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em, chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, …Lĩnh vực y tế cũng mang lại nhiều thành tựu tốt đẹp: tỷ suất tử vong mẹ giảm mạnh trong hai thập kỷ qua: từ 233/100.000 trẻ đẻ sống trong năm 1990 xuống còn 75/100.000 trẻ đẻ sống trong năm 2009; tỷ lệ phụ nữ mang thai được khám thai và tiêm phòng đã tăng lên rõ rệt trong thời gian qua; mạng lưới y tế cơ sở về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ được củng cố và nâng cấp. Việc thực hiện mục tiêu Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai dưới nhiều hình thức. Đại dịch HIV/AIDS ở Việt Nam đã bước đầu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) - Thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan