Đề tài Thu hút và sử dụng vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam đến 2010

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Chương 1: Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam 3

1.1. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam 3

1.1.1. Tình hình thu hút và giải ngân ODA tại Việt Nam 3

1.1.2. Thực trạng sử dụng ODA tại Việt Nam 7

1.1.2.1. Cơ cấu sử dụng ODA theo ngành, lĩnh vực 7

1.1.2.2. Cơ cấu sử dụng ODA theo vùng 10

1.1.2.3. Cơ cấu sử dụng ODA theo nhà tài trợ 12

1.2. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam 14

1.2.1. Thu hút ODA cho NN&PTNT ở Việt Nam 14

1.2.1.1. Thu hút ODA cho NN&PTNT theo lĩnh vực 18

1.2.1.2. Thu hút ODA cho NN&PTNT theo vùng, lãnh thổ 25

1.2.1.3. Thu hút ODA cho NN&PTNT theo nhà tài trợ 26

1.2.2. Sử dụng ODA trong NN&PTNT ở Việt Nam 28

1.2.2.1. Sử dụng ODA cho NN&PTNT theo lĩnh vực 28

1.2.2.2. Sử dụng ODA cho NN&PTNT theo vùng 39

1.2.2.3. Giải ngân ODA cho NN&PTNT theo các nhà tài trợ 43

1.2.3. Đánh giá kết quả thu hút và sử dụng ODA trong NN&PTNT 46

1.2.3.1. Kết quả đạt được trong NN&PTNT 46

1.2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân 51

1.2.3.2.1. Tốc độ giải ngân chậm 51

1.2.3.2.2. Chính sách, thể chế và tổ chức bộ máy quản lý 54

1.2.3.3.3. Khó khăn trong công tác di dân, giải phóng mặt bằng 55

1.2.3.3.4. Hạn chế trong công tác đấu thầu 56

1.2.3.3.5. Hạn chế về trình độ cán bộ quản lý 58

Chương 2: Giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn 59

2.1. Định hướng thu hút và sử dụng ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn 59

2.1.1. Định hướng thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam nói chung thời kì 2006-2010 59

2.1.1.1. Chính sách thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam nói chung thời kỳ 2006 – 2010 59

2.1.1.2. Định hướng cơ cấu vốn ODA ưu tiên sử dụng tại Việt Nam 60

2.1.2. Định hướng thu hút và sử dụng ODA cho NN&PTNT 61

2.1.2.1. Các lĩnh vực chủ yếu cần ưu tiên sử dụng ODA trong NN&PTNT 61

2.1.2.2. Định hướng cơ cấu vốn ODA ưu tiên sử dụng trong NN&PTNT thời kì 2006-2010 62

2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA cho NN&PTNT 64

2.2.1. Nhóm các giải pháp tổng thể 65

2.2.1.1. Xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng ODA 65

2.2.1.2. Tạo ra khung pháp lý thống nhất và hài hoà trong việc quản lý và sử dụng ODA 66

2.2.1.3. Hài hoà thủ tục pháp lý của Việt Nam với chính sách và hoạt động của nhà tài trợ 66

2.2.1.4. Tăng cường kiểm tra, giám sát các dự án ODA 67

2.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể cho ngành NN&PTNT 69

2.2.2.1. Hỗ trợ phát triển hạ tầng nông thôn, tạo cơ hội cho ngưòi nghèo tiếp cận các dịch vụ công cộng 70

2.2.2.2. Tăng cường vốn ODA hỗ trợ sản xuất nông nghiệp 72

2.2.2.3. Tiếp tục các chương trình hỗ trợ tín dụng cho người dân nông thôn nhất là những người ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số 73

2.2.2.4. Nguồn vốn ODA cần tập trung cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho người dân nông thôn 75

2.2.2.5. Sử dụng ODA để xây dựng hệ thống giáo dục công bằng hơn với người dân nông thôn 76

Kết luận 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78

 

 

 

 

docx85 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2179 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút và sử dụng vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y tế nông thôn ở Quảng Ngãi 2001-2005 ADB 4 Tăng cường quản lý khẩn cấp sức khoẻ cộng đồng và chống bệnh dịch GĐII 2006-2009 UNDP FAO WHO 16.212 Y tế nông thôn Hoà Bình 2002-2005 ADB 3.2 Nguồn: ADB và isgmard.org.vn Tín dụng nông thôn Bất kì một quốc gia nào muốn phát triển đều cần có những nguồn vốn khác nhau. Đối với một nước còn nghèo, đã trải qua hai cuộc chiến tranh như Việt Nam, thì vốn phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế là rất cần thiết để phát triển kinh tế- xã hội. Khi Chính Phủ quyết định mở cửa nền kinh tế thì nhu cầu tín dụng của nhân dân càng tăng, trong khi việc cung cấp nguồn tín dụng cho nông thôn còn nhiều hạn chế do việc đầu tư vào sản xuất nông nghiệp rủi ro cao (sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên). Vấn đề này đã phần nào được giải quyết nhờ vào sự tài trợ của cộng đồng quốc tế với 48 dự án cho phát triển doanh nghiệp và phát triển nông thôn, chiếm 3.8% tổng số viện trợ không hoàn lại và 9.3% vốn vay trong nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các nhà tài trợ trong lĩnh vực này chủ yếu là ADB, WB, IMF,… Ví dụ từ năm 1998-2001, WB đã chi 650000 USD cho dự án cấp tín dụng cho 250000 hộ nông thôn, trong đó một phần ba là phụ nữ. Các khoản vay tín dụng trung bình là 360 USD, được phân phối qua bảy ngân hàng và tỷ lệ hoàn trả rất cao 98%. Với 159 chiếc xe ngân hàng lưu động của WB trung bình mỗi tháng đến 62 địa điểm vùng xa phục vụ thêm 500 người vay. ADB, năm 2003 đã cho Ngân hàng NN&PTNT vay 90 triệu USD để mở rộng phạm vi tín dụng ngắn và trung hạn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nông nghiệp, đa số doanh nghiệp này đều thiếu vốn. Còn với các nhà tài trợ nói chung thì các khoản tài trợ thường qua Ngân hàng NN&PTNT hoặc Ngân hàng dành cho người nghèo rồi đến tay người vay. Tuy nhiên, trong thời gian qua hiệu quả sử dụng đồng vốn này chưa cao do người nông dân chưa biết cách thức vay, chưa dám đầu tư vào nông nghiệp, lĩnh vực chịu nhiều rủi ro do thiên tai gây nên. Bảng 1.18: Ba vốn vay lớn trong lĩnh vực tín dụng nông thôn Nhà tài trợ Mục đích tài trợ WB 122 triệu USD 1997-2000 Tín dụng nông thôn: Tăng các nguồn sẵn có về tín dụng ngắn, trung, dài hạn trong lĩnh vực nông thôn. huy động tiền gửi tiết kiệm trong số hộ nghèo; tăng sự cạnh tranh trong việc cung cấp của các tổ chức tài chính nông thôn; nâng cao sự tiếp cận của người nghèo với các dịch vụ tài chính chính thức. ADB 46.37 triệu USD 1997-2001 Tài chính nông thôn: Tăng thu nhập của nông dân nghèo và phát triển lao động sản xuất bằng cách tăng cường cung cấp tín dụng ngắn và trung hạn. Tăng cường hệ thống tài chính nông thôn nhằm gia tăng sự đa dạng hoá và tính cạnh tranh trong hệ thống và cung cấp dịch vụ tốt hơn. Pháp 15.02 triệu USD 1996-2000 Tái cung cấp tài chính của Chương trình tín dụng ngân hàng nông thôn: cung cấp vốn cho ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để cho phép ngân hàng này tạo nguồn tín dụng nông thôn trung và dài hạn. Nguồn: UNDP Giáo dục nông thôn Các dự án ODA tập trung hỗ trợ những cải thiện trong giáo dục tiểu học, một số dự án hướng vào vùng sâu, vùng xa và trẻ em dân tộc thiểu số như dự án phát triển giáo dục tại vùng dân tộc thiểu số của ADB trị giá 1.5 triệu USD, giúp xây dựng 103 phòng ở tập thể cho 824 học sinh ở những vùng khó khăn nhất như Lai Châu, Đắc Nông, Hà Giang và trợ giúp cải tiến chương trình đào tạo dạy học bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Nguồn vốn ODA dành cho giáo dục nông thôn chủ yếu là viện trợ không hoàn lại, trong đó số tiền chi cho giáo dục tiểu học lên tới 12.7 triệu USD. Các chương trình dành cho trung học cơ sở đạt 50.8 triệu USD với ba nhà tài trợ lớn là ADB, Bỉ, Newzealand. Trong lĩnh vực dạy nghề, Đức cung cấp khoản viện trợ lớn, dự án có số vốn lớn như: Hợp tác tài chính về đầu tư một số trường dạy nghề - 12.64 triệu USD. Bên cạnh đó lĩnh vực dạy nghề còn được nhiều nhà tài trợ khác quan tâm: dự án tăng cường xoá đói giảm nghèo thông qua đào tạo cán bộ xã hội (Canada – DANIDA)- 0.927 triệu USD; dự án giáo dục kỹ thuật dạy nghề (ADB, AFD, NDF, JICA)- 95.5 triệu USD; dự án nâng cao chất lượng và tăng cường hệ thống đào tạo giáo dục kĩ thuật và dạy nghề nông lâm nghiệp theo nhu cầu (Hà Lan)-6.887 triệu USD (không hoàn lại); dự án phổ cập và đào tạo nông lâm nghiệp vùng cao- pha bắc cầu (SDC)- 0.99 triệu USD (không hoàn lại) . Tuy tiền hỗ trợ cũng như sự quan tâm của các nhà tài trợ dành cho giáo dục không phải là nhỏ nhưng rất nhiều chương trình giáo dục không được giải ngân do trình độ quản lý yếu kém, nhiều dự án khi đi vào hoạt động đã không thực hiện đúng như mục tiêu ban đầu đã đặt ra. Lĩnh vực đa ngành Số lượng các dự án liên ngành chiếm tỷ lệ khá lớn 21.79% trong tổng số dự án cho nông nghiệp và phát triển nông thôn với 112 dự án. Tuy số lượng dự án khá lớn nhưng tổng giá trị của các dự án này chỉ có 66.1 triệu USD, trung bình 0.59 triệu USD/dự án, thấp hơn so với các dự án thuộc ngành khác. Nhìn chung, các dự án liên ngành đều nhằm mục đích giảm nghèo ở nông thôn và nâng cao đời sống của người nông dân. Trọng tâm của những dự án này thường theo vị trí địa lý được xác định rõ và thường hướng mục tiêu vào những nhóm nghèo nhất và phụ nữ. Các dự án này nhằm cung cấp sự hỗ trợ đa dạng hoá trong một số lĩnh vực như: tín dụng và tiết kiệm, cấp nước và vệ sinh môi trường, hướng nghiệp, đào tạo và nâng cao năng lực, phát triển cộng đồng, sức khoẻ và dinh dưỡng, hỗ trợ nông nghiệp,… Các dự án thường nhằm kết hợp với các vấn đề như bất bình đẳng giới và ảnh hưởng về suy thoái môi trường, hoặc tăng cường công tác quy hoạch và biện pháp thực hiện có sự tham gia của dân. Hỗ trợ chính sách và thể chế Hành chính là lĩnh vực nhỏ nhất của ODA với tổng giá trị viện trợ là 24.99 triệu USD. Một số dự án này tập trung vào việc nâng cao hiệu quả hành chính công cấp tỉnh ở Đắc Lắc (Đan Mạch tài trợ), Quảng Trị (Thuỵ Điển tài trợ), Quảng Bình (UNDP, Hà Lan). Ở cấp quốc gia, Thuỵ Điển đang hỗ trợ hai dự án nhằm cải thiện công tác quản lý và phân bổ đất đai, trong khi UNDP và Hà Lan cùng chung dự án hỗ trợ cải cách hành chính công ở Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chính Phủ Đức đang tài trợ nhằm đóng góp vào quá trình phát triển dân chủ và cải cách bộ máy nhà nước trong khi đang hỗ trợ quá trình phát triển các tổ chức xã hội và khu vực tư nhân nông thôn. Đức cũng đang hỗ trợ tài chính cho dự án nhằm tăng cường hệ thống hành chính sự nghiệp ở cấp trung ương và cấp tỉnh. Các tổ chức khác như FAO, ADB, Đan Mạch cũng có những dự án hỗ trợ cải cách chính sách nông nghiệp. 1.2.2.2. Sử dụng ODA cho NN&PTNT theo vùng Các dự án khi thực hiện ở một vùng thì kết quả của nó thường không chỉ dành cho vùng đó mà có tác động lan toả tới các vùng khác. Vì vậy, trong những phân tích dưới đây, khi một dự án được thực hiện ở nhiều vùng thì các nơi liên quan đều được liệt kê. Con số tổng dự án sẽ lớn hơn con số dự án thực tế được thực hiện. Bảng 1.19: ODA thực hiện theo vùng giai đoạn 1993-2005 Vùng Số dự án Số dự án /1000 dân Tổng ODA (triệu USD) % ODA Miền núi phía Bắc 345 0.258 371.114 20.8 Đồng bằng sông Hồng 154 0.102 132.407 11.30 Băc Trung Bộ 216 0.211 195.208 16.7 Duyên hải Nam Trung Bộ 109 0.163 142.227 12.1 Tây Nguyên 81 0.253 93.451 13.38 Đồng Bằng sông Cửu Long 173 0.105 32.027 6.85 Đông Nam Bộ 111 0.085 205.148 15.55 Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư Vùng miền núi phía Bắc có số dự án tập trung nhiều nhất với 345 dự án với 371.114 triệu USD, cũng là vùng có số dự án/người cao nhất, vùng này chủ yếu là các dân tộc thiểu số sinh sống với tập quán du canh du cư, sản xuất lạc hậu nên có số người nghèo đói cao. Vùng Tây Nguyên cũng là nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống nhưng lại có số dự án ít nhất 81 dự án với số vốn 93.451 triệu USD; tuy nhiên dân cư vùng này thưa thớt, chỉ chiếm 4% dân số cả nước, bởi vậy thực tế số dự án/người cao thứ hai. Vùng Đông Nam Bộ có 111 dự án nhưng dân số chiếm 17% dân số cả nước, lại là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi, công nghiệp- dịch vụ phát triển, số người sống bằng nông nghiệp rất ít nên có tỷ lệ dự án/ người thấp nhất. Trong thời gian qua, các chương trình nâng cấp cơ sở hạ tầng có nguồn vốn ODA được thực hiện trên phạm vi toàn quốc với việc xây dựng các hệ thống giao thông và đường dây tải điện mới. Tuy nhiên, mạng lưới giao thông và điện cho nông thôn vẫn chưa nhận được tỷ lệ đáng kể trong tổng vốn ODA. Đây là vấn đề cần được quan tâm, vì có khoảng 20% số xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc chưa có đường giao thông tốt với 30% đường cấp huyện và 50% đường cấp xã không thể sử dụng được trong mùa mưa. Tương tự như vậy, hệ thống kênh rạch rất quan trọng cho việc vận chuyển nông sản ở đồng bằng sông Cửu Long và tưới tiêu, ngăn lũ đang rất cần được cải thiện và nâng cấp. Vùng núi phía Bắc vẫn là khu vực nghèo khó nhất Việt Nam, với 59% dân cư nghèo đói. Trong những năm gần đây, nguồn vốn ODA đã tăng lên, chủ yếu tập trung vào các chương trình khắc phục khó khăn về cơ sở vật chất, các dự án bảo vệ rừng và phát triển cộng đồng ở vùng dân tộc ít người. Đức đã trợ giúp cho các dự án nhằm cải tiến công tác quản lý rừng bền vững cho các cộng đồng dân cư ở sông Đà và Bắc Giang; dự án nâng cấp nhà máy nhiệt điện Phả Lại, đường quốc lộ 10 và quốc lộ 18. Đây cũng là vùng dân trí chưa cao, người dân còn nặng hủ tục nên vấn đề chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dân số và kế hoạch hoá gia đình cũng được quan tâm hơn. Khu vực Tây Nguyên là nơi dân cư thưa thớt và là khu vực nghèo thứ hai trong cả nước. Năm 1997, số dự án giảm sút do một số dự án trong lĩnh vực nước sạch kết thúc, nhưng sau đó ODA tính theo đầu người lại tăng lên. ODA đặc biệt gia tăng trong các lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi trường, như hai dự án ở Buôn Mê Thuột, Đà Lạt do DANIDA hỗ trợ. Hai lĩnh vực khác cũng tiếp nhận một phần đáng kể nguồn vốn ODA ở Tây Nguyên là các dự án trồng rừng và chương trình cải tạo đường giao thông của WB. Bắc Trung Bộ vẫn là khu vực nghèo thứ ba trong cả nước và là khu vực duy nhất có mức ODA theo đầu người hầu như không đổi mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm từ 75% xuống còn 48%. Số vốn ODA giải ngân cao thứ hai chiếm 16.7%; tập trung vào các lĩnh vực phát triển nông thôn, hỗ trợ nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. WB, ADB, Đức cũng đã hỗ trợ một số dự án lâm nghiệp nhằm tăng độ che phủ của rừng và khuyến khích các hoạt động tạo thu nhập ổn định bền vững cho nhân dân địa phương. Mức ODA tăng trong các lĩnh vực năng lượng, y tế với một số dự án về sức khoẻ gia đình và dân số. Tuy nhiên, tiến độ của các dự án lớn khôi phục và cung cấp thiết bị cho các trường học bị chậm lại. Duyên hải Nam Trung Bộ đứng ở hàng thứ ba với mức ODA theo đầu người thay đổi rất ít trong những năm qua. Các nhà máy điện Phú Mỹ, Hàm Thuận và Đa My hoạt động ở cả hai khu vực Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Do vậy, các dự án này làm tăng nhanh mức giải ngân ODA trong lĩnh vực năng lượng ở đồng bằng sông Cửu Long. Việc nâng cấp hệ thống giao thông cũng được ưu tiên trong những năm gần đây, như dự án cầu Mỹ Thuận, các công trình giao thông đường thuỷ và các chương trình cải tạo đường giao thông khác. Hỗ trợ nông nghiệp cũng thu hút được sự quan tâm của các nhà tài trợ đối với khu vực sản xuất nhiều lúa gạo này, như DANIDA đã giúp đỡ một số tỉnh nâng cao chất lượng sản xuất và chế biến gạo cũng như cải tiến hoạt động tiếp thị sản phẩm gạo. Các chương trình hỗ trợ sức khoẻ gia đình và dân số cũng góp phần giữ mức ổn định ODA cho ngành y tế. Tại đồng bằng sông Hồng vốn ODA thực hiện đứng thứ tư với 132.407 triệu USD, chiếm 11.3%. Đây là vùng có dân số đông thứ hai toàn quốc chiếm 20% trong đó tỷ lệ người nghèo chiếm 12% so với cả nước nên số dự án/người thấp 0.102 (chỉ cao hơn Đông Nam Bộ). Nguồn vốn ODA trong giai đoạn 1993-2005 tập trung vào cơ sở hạ tầng như đường giao thông chính, cải tạo cầu cống, năng lượng, nước sạch và vệ sinh môi trường. Ngành y tế cũng có mức tăng cao do các chương trình cấp ngành về sức khoẻ gia đình và dân số cũng như chương trình phòng chống HIV- AIDS. Đông Nam Bộ là vùng giàu có nhất Việt Nam với tỷ lệ nghèo thấp 6.6% nhưng thu hút tới 15.5% vốn ODA. Vốn ODA cho vùng này chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng. Mức giải ngân tăng lên do khoản vay xây dựng nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ (cùng với đường dây tải điện và các trạm cung cấp điện), các nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận và Đa My. Các dự án giao thông tập trung vào việc nâng cấp đường bộ, chuyển giao công nghệ và năng lượng bảo trì. Cung cấp nước sạch thông qua hệ thống xử lý bảo đảm vệ sinh cũng thu hút một phần quan trọng vốn ODA. Đồng bằng sông Cửu Long, có số dân đông nhất cả nước chiếm 22% , trong đó tỷ lệ nghèo là 14.4% nhưng số vốn ODA thu hút thấp 32.07 triệu USD chiếm 6.85%. Nguồn vốn ODA dành cho vùng này chủ yếu tập trung vào lĩnh vực giao thông, cung cấp nước sạch, chế biến nông sản. Bảng 1.20: Một số dự án đã thực hiện tại miền Trung Đơn vị: triệu USD STT Tên dự án Nhà tài trợ Thời gian Số vốn Địa điểm 1 Năng lượng nông thôn WB 2000-6/2005 12 Quảng Ngãi 2 Các dự án cải tạo lớn phân phối điện miền Trung Thuỵ Điển 1998-2005 13.09 Các tỉnh Miền Trung 3 Khu vực lâm nghiệp (khôi phục rừng đầu nguồn khu vực sông Chu) ADB 1998-2005 5.9 Thanh Hoá 4 Chương trình nước sạch nông thôn UNICEF 1993-2005 1.6 Bình Thuận 5 Chương trình xoá đói giảm nghèo nông thôn Canada 2000 13.3 Thanh Hoá 6 Mạng viễn thông nông thôn Nhật Bản 2003-2006 18.3 Thanh Hoá Nguồn: ADB 1.2.2.3. Giải ngân ODA cho NN&PTNT theo các nhà tài trợ Tổng nguồn vốn ODA giải ngân trong nông nghiệp và phát triển nông thôn của các nhà tài trợ song phương khá lớn với những dự án có quy mô vốn nhỏ, chiếm 51% số vốn được giải ngân. Trong khi đó các nhà tài trợ đa phương đứng thứ hai với 39% và tiếp theo là các tổ chức phi Chính Phủ với 10%. Biểu đồ 1.4: ODA cho NN&PTNT phân theo nhà tài trợ (1993-2005) Nguồn: ISG- Vụ Hợp tác Quốc tế- Bộ NN&PTNT Các nhà tài trợ tuỳ theo chức năng hoạt động của mình mà chú trọng vào từng lĩnh vực khác nhau. Các tổ chức ADB, WB thì đầu tư vào tín dụng nông thôn, phát triển kinh tế tư nhân; UNDP thì quan tâm đến các vấn đề phát triển như xoá đói giảm nghèo, vấn đề giới; WHO viện trợ cho các chương trình y tế… WB và ADB là hai nhà tài trợ lớn nhất, cũng là hai nhà tài trợ có tỷ lệ giải ngân cao nhất, ADB cung cấp khoảng 27.5%; WB là 26.7%. Bình quân giai đoạn 1993-2004, ADB đã cung cấp cho Việt Nam khoảng 200 triệu USD, trong đó chủ yếu là vốn vay ưu đãi (ADF) và có một phần nhỏ vốn vay thông thường (OCR) với tỷ lệ đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn là 31%. Đây là tỷ lệ khá cao so với các lĩnh vực khác (giao thông vận tải 25%, năng lượng 12%…). WB, ADB là những tổ chức lớn và việc tổ chức quản lý sử dụng ODA khá chặt chẽ và có hiệu quả. Trong khi đó, quỹ tiền tệ quốc tế lại chủ yếu hỗ trợ khoản vay để thúc đẩy tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (PRGF) hiện đã giải ngân được 159 triệu USD. Một số dự án mà các tổ chức chức này đã thực hiện: dự án giao thông nông thôn 1 do WB tài trợ thực hiện trên địa bàn 15 tỉnh với tổng giá trị 60.9 triệu USD, nhằm củng cố và xây dựng trục đường giao thông (cầu, đường đô thị, xây dựng đường từ huyện tới trung tâm xã); dự án giao thông nông thôn 2 có số vốn 145.3 triệu, trong đó WB cho vay 1032.9 triệu USD, Anh viện trợ 26.2 triệu USD, còn lại là vốn đối ứng của Việt Nam, đây là sự tiếp nối của dự án giao thông nông thôn 1, thực hiện tại 38 tỉnh; dự án xây dựng và cải tạo đường tỉnh do ADB tài trợ với 33.21 triệu USD. Bảng 1.21: Năm nhà tài trợ lớn cho NN&PTNT giai đoạn 1993-2004 Đơn vị: triệu USD Nhà tài trợ WB ADB Nhật Bản Thuỵ Điển Pháp Giải ngân 194.2 200 145.3 90.25 136.8 Nguồn: Báo cáo Hỗ trợ phát triển nông thôn Việt Nam - UNDP Các nhà tài trợ song phương cung cấp nguồn vốn ODA nhỏ hơn, hầu hết vốn cho cơ sở hạ tầng lớn nông thôn và hoạt động định hướng sản xuất là vốn vay. Chẳng hạn, hai vốn vay của OECF đã giải ngân cho cơ sở hạ tầng nông thôn tổng hợp chiếm 47.6% nguồn viện trợ của Nhật Bản. Tương tự, 16.2% ODA của Đức và 96.2% ODA của Pháp cho các dự án là dạng vốn vay. Theo so sánh, tất cả ODA do tám tổ chức nhỏ hơn trong mười tổ chức song phương hàng đầu (Australia, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Anh, Canada, Thuỵ Sỹ, Phần Lan) là dưới dạng viện trợ. Nhật Bản là nhà tài trợ hàng đầu với lượng vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn khá lớn. Vốn này tập trung chủ yếu vào xoá đói giảm nghèo, thuỷ lợi, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường,… như dự án cầu nông thôn 1, 2, 3 do Nhật tài trợ có số vốn 112.48 triệu USD được triển khai tại tất cả các vùng trong cả nước, trong đó số vốn tập trung cho vùng Đông Nam Bộ là nhiều nhất 32.5 triệu USD, tiếp đến là khu vực miền núi phía Bắc với 21.69 triệu USD; dự án phát triển cơ sở hạ tầng và cải thiện đời sống nông thôn của JBIC (1996-2002) - 243.16 triệu USD; xây dựng cầu cho nông thôn các tỉnh đồng bằng Nam Bộ của JICA(2001-2013)- 33 triệu; xây dựng cầu khu vực miền Trung (2003)- 31.25 triệu; mạng viễn thông nông thôn Thanh Hoá (2003-2006) – 18.3 triệu USD; xây dựng hệ thống thông tin 10 tỉnh miền Trung (2000-2006)- 83.79 triệu USD. Trong khi đó, Thuỵ Điển từ năm 1969 đến nay đã cung cấp khoảng hơn 2.5 tỷ USD viện trợ không hoàn lại. Trong 5 năm 2001-2005, Thuỵ Điển đã đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn 57.54 triệu USD nhằm phát triển y tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo, cung cấp năng lượng, tài nguyên thiên và môi trường. Một số dự án của Thuỵ Điển: xoá đói giảm nghèo ơrGio Linh, Vĩnh Linh- Quảng Trị (2003-2008)- 11.57 triệu USD; năng lượng nông thôn (2002-2005)- 9.43 triệu USD; cải tạo phân phối điện miền Trung (1998-2005) – 13.09 triệu USD. 1.2.3. Đánh giá kết quả thu hút và sử dụng ODA trong NN&PTNT 1.2.3.1. Kết quả đạt được trong NN&PTNT Việc thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời gian qua về cơ bản phù hợp với định hướng và ưu tiên của Đảng và Nhà nước, tập trung cho hỗ trợ tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá. Năm 1993, chúng ta đã nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế, đây là thắng lợi của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong hoàn cảnh Việt Nam còn bị bao vây, cấm vận. Trong khi hơn 70% dân số nước ta sống ở nông thôn và hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp việc thu hút hơn gần 3 tỷ USD cho lĩnh vực này trong giai đoạn 1993-2005 là đã góp phần cải thiện hạ tầng cơ sở nông thôn, phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đây cũng là minh chứng về sự đồng tình của các nhà tài trợ với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế -xã hội của Đảng và Nhà nước. Các nhà tài trợ song phương và đa phương đã cung cấp một lượng ODA cam kết 3.316 tỷ USD trong đó có 2.467 tỷ USD là vốn vay, 0.849 tỷ USD là viện trợ không hoàn lại. nguồn vốn này đã được sử dụng để phát triển nông nghiệp (39%), phát triển lâm nghiệp (33%), xây dựng thuỷ lợi (18%) và phát triển nông thôn tổng hợp (10%). Các dự án ODA đã có những tác động to lớn tới đời sống của người dân ở các vùng nông thôn: Thứ nhất, nhờ có ODA, cơ sở hạ tầng nông thôn đã được cải thiện đáng kể. Các dự án ODA đã trực tiếp hỗ trợ nhiều tỉnh xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt, phát triển lưới điện nông thôn, giao thông nông thôn, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, trường học, trạm xá, bệnh viện. Các dự án ODA đã giúp giao thông nông thôn trở nên tốt hơn. Những làng xã trước đây chưa có đường ô tô vào nay đã có đường rải nhựa với chất lượng tốt (có 85% số xã thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, khu vực duyên hải miền Trung, miền núi phía Bắc… đã có đường tới trung tâm xã). Các dự án giao thông nông thôn đã giúp cải tạo và nâng cấp 4771.5 km đường bộ trong đó có 4422.6 km đường cấp huyện và 348.9 km đường cấp xã, xây dựng 281 cây cầu với tổng chiều dài 9694m (hầu hết những cầu này đều xây dựng kiên cố bằng bê tông cốt thép). Trong đó, WB đã giúp nâng cấp khoảng 300 km đường liên tỉnh và đường nông thôn, 50km đường thuỷ ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Các tuyến đường giao thông nông thôn tới từng đơn vị nhỏ (cấp xã) đã giúp giaolưu thương mại, văn hoá nội vùng và với các vùng khác thuận tiện hơn; người dân có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ thương mại, y tế, … Về điện có số hộ nông dân được dùng điện là 85.3% và khoảng 90% tổng số xã thuộc các khu vực như đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng đã được sử dụng điện lưới quốc gia. Tại 32 tỉnh nghèo nhất nước, thông qua dự án ODA do WB tài trợ đã có 2 triệu người đã được sử dụng điện. Thông qua các dự án ODA người dân đã được cung cấp nước sạch, nhất là những người dân ở vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Các dự án này đã góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, việc tiếp cận nước sạch cũng là một yếu tố làm giảm những dịch bệnh trong dân cư. Bên cạnh đó, các dự án thoát nước và xử lý nước thải cũng góp phần cải thiện môi trường nông thôn. Thứ hai, sức khoẻ cộng đồng của người dân ở nông thôn được chú trọng, tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận với các dịch vụ y tế được nâng cao. Các dự án y tế cũng đã cung cấp những loại thuốc chủ chốt cho các trung tâm y tế; đào tạo cho 22000 lượt cán bộ y tế đặc biệt là nhân viên y tế của hơn 2800 xã và 180 huyện ở 18 tỉnh nghèo nhất của Việt Nam; xây dựng và nâng cấp 15 trung tâm chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hoá gia đình, 137 phòng khám sản và phẫu thuật của các bệnh viện tuyến huyện, 2606 trung tâm y tế xã ở các vùng núi. Các chương trình y tế như phòng chống sốt rét, suy dinh dưỡng ở trẻ em, bệnh bướu cổ, tiêm chủng mở rộng, tăng cường trang thiết bị cho các trạm y tế tuyến huyện, xã đã đem lại những kết quả tốt. Chương trình phòng chống sốt rét được triển khai tại các vùng trọng điểm về căn bệnh này với hơn 10 triệu người cần được bảo vệ và tập trung ưu tiên 70% nguồn lực cho các vùng có nhiều người bị sốt rét nặng như miền Trung, Tây Nguyên, Bình Phước, Cà Mau,… Chương trình phòng chống lao tiếp tục được triển khai trên phạm vi cả nước với 99.3% số xã, phường được bảo vệ; số người mắc bệnh đã giảm nhiều so với trước đây. Công tác tuyên truyền về phòng và chống bệnh lao đã được tiến hành trên toàn quốc và là chương trình hành động lớn của quốc gia nhằm xoá bỏ dịch bệnh này. Vấn đề y tế quan trọng nữa là tiêm chủng và phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em. Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em đã được triển khai trên 100% số xã, đặc biệt ưu tiên cho 1000 xã khó khăn, tiếp theo là 1993 xã nghèo do các tỉnh lựa chọn và cuối cùng là các xã còn lại. Bên cạnh đó, chương trình tiêm chủng đã được thực hiện cho hơn 90% trẻ em dưới 1 tuổi như tiêm vắc xin phòng lao, ho gà, bạch hầu, uốn ván, sởi, bại liệt; 98% trẻ em dưới 5 tuổi được uống vắc xin phòng bại liệt. Ngoài ra còn có các chương trình chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, trợ giúp một phần viện phí với những bệnh nhân nghèo,… Thứ ba, ODA đã tăng khả năng được tiếp cận với giáo dục ở nông thôn đặc biệt là vùng sâu, vùng xa và trẻ em dân tộc thiểu số. Hệ thống giáo dục đã có nhiều cải thiện, các lớp học kiên cố đã được xây dựng thay cho những lớp học tạm, một số vùng được cung cấp trang thiết bị giáo dục. Một số dự án của WB đã hỗ trợ nâng cao chất lượng giảng dạy tiểu học, dự án này đã cung cấp 70 triệu sách tiếng Việt và sách Toán cho các trường tiểu học ở khu vực nông thôn và tạo điều kiện cho khoảng 350 nghìn học sinh ở những cộng đồng nghèo nhất được mượn sách giáo khoa miễn phí. Tại những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các dự án đã cung cấp sách giáo khoa và dụng cụ giảng dạy cho 320 lớp học của trẻ em dân tộc thiểu số, giúp những trẻ em này có điều kiện được học bằng ngôn ngữ của mình. Thứ tư, thông qua các dự án hỗ trợ tín dụng ODA người dân đã được hỗ trợ vốn phát triển sản xuất, góp phần xoá đói giảm nghèo. Cụ thể: Hàng năm Chính Phủ Đức thông qua ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã hỗ trợ cho 55000 lượt hộ gia đình ở các tỉnh miền núi phía Bắc khó khăn vay vốn để tổ chức, mở rộng sản xuất. Phần lớn trong số họ thoát được đói nghèo, nhiều gia đình trở thành hộ gia đình khá giả. Dự án hợp tác tài chính “ Quỹ tín dụng quay vòng xoá đói giảm nghèo” của Chính Phủ Đức tài trợ với mục tiêu cho các hộ gia đình đói nghèo ở 16 tỉnh trên địa bàn khu 4 cũ, miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng vay vốn tổ chức và mở rộng sản xuất theo hướng “ tự vượt, tự cứu”. Dự án được triển khai từ năm 1995 với tổng số vốn tài trợ 22 triệu DM và 110 tỷ VND. Kết quả dự án đã cho 156487 lượt hộ gia đình vay vốn sản xuất, kinh doanh với tổng doanh số cho vay 389480.52 triệu đồng. Dự án tạo thêm nhiều việc làm mới, tăng thu nhập và xoá đói giảm nghèo tại vùng dự án đã triển khai. Dự án đã góp phần giảm bình quân 5%/năm hộ nghèo vay vốn dự án, 9.94% hộ vay vốn dự án có tiết kiệm. Như vậy, tỷ lệ nghèo đói nói chung đã giảm từ 50% năm 1993 xuống dưới 7% năm 2005 (theo tiêu chuẩn Việt Nam). Như vậy so với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ là giảm 50% tỷ lệ nghèo trong giai đoạn 1990-2015 thì Việt Nam đã hoàn thành sớm so với kế hoạch. Dự án “Tài chính nông thôn” với tổng vốn vay 122 triệu USD của WB đã mang lạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThu hút và sử dụng vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam đến 2010.docx
Tài liệu liên quan