Đề tài Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 5

Chương 1:Tổng quan FDI- đầu tư trực tiếp nước ngoài 6

1.1. Khái niệm FDI 6

1.2. Mối quan hệ giữa cơ cấu FDI với cơ cấu ngành kinh tế. 7

1.2.1. FDI làm thay đổi cơ cấu ngành kinh tế: 7

1.2.2. FDI buộc nước nhận đâu tư phải điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế 9

1.3. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI 9

1.3.1 Doanh nghiệp liên doanh 9

1.3.2 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 11

1.3.2. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh 12

1.3.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT 13

1.3.5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company) 14

1.3.6. Hình thức công ty cổ phần 15

1.3.7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài 16

1.3.8. Hình thức công ty hợp danh 16

1.3.9. Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A) 17

2.1. Bài học mang tính quốc tế về thu hút trực tiếp nước ngoài 19

2.1.1. Chu chuyÓn vèn vµo c¸c n­íc thuéc khèi APEC 19

2.1.2. Chu chuyÓn vèn vµo c¸c thÞ tr­êng míi nổi 21

2.1.3. Chu chuyÓn vèn qua n¨m n­íc bÞ khñng ho¶ng ë Ch©u ¸ 22

2.2. Kinh nghiệm thu hút vốn FDI tại một số quốc gia cụ thể 26

2.2.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc. 26

2.2.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Thái Lan 32

2.2.3. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Malaysia 33

2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam 33

2.3.1. Cần thống nhất về mặt nhận thức rằng việc qui định các hình thức FDI phù hợp là công cụ để kiểm soát và quản lí có hiệu quả các hoạt động FDI 34

2.3.2. Cần đa dạng hoá hình thức đầu tư theo quan điểm lợi ích – chi phí phù hợp với xu hướng mở cửa thị trường đầu tư và tự do hoá đầu tư nước ngoài 34

2.3.3. Cần coi trọng việc bảo hộ lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài 35

2.3.4. Việc qui định hình thức đầu tư cần gắn với các điều kiện thực hiện hình thức đó và cần có cơ chế điều tiết, kiểm soát thích hợp. 36

2.3.5. Cần phát triển mạnh khoa học pháp lí về đầu tư nước ngoài để tăng tính chủ động và sang tạo của các nhà hoạch định chính sách trong việc đưa ra các hình thức đầu tư nước ngoài phù hợp với điều kiện Việt Nam. 37

 

doc67 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1509 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư nước ngoài để học tập kinh nghiệm quản lý, đào tạo tay nghề cho người lao động Trung Quốc, phát triển thị trường nội địa, mở rộng xuất khẩu, tiếp nhận công nghệ nước ngoài… Trong giai đoạn đầu thu hút vốn đầu tư, hình thức này đã được hưởng khá nhiều chính sách ưu đãi hơn so với các hình thức đầu tư khác như: miễn thuế xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan…và chỉ một số lĩnh vực thương mại và dịch vụ mới được phép thành lập xí nghiệp dưới hình thức liên doanh. Tuy nhiên, hình thức đầu tư này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, như: phía Trung Quốc đễ bị thiệt hại do thiếu kinh nghiệm liên doanh, đặc biệt là những thua thiệt trong quá trình đàm phán để kí kết hợp đồng liên doanh. Xí nghiệp liên doanh hợp tác: Đây là hình thức đầu tư, trong đó bên nước ngoài đóng góp toàn bộ hoặc phần lớn tiền vốn và kĩ thuật, còn phía Trung Quốc góp vốn bằng đất đai, nhà xưởng hiện có và một phần nhỏ vốn đầu tư. Hai bên cùng phối hợp hoạt động hoặc cùng hợp tác sản xuất kinh doannh.Tỷ lệ và phương thức phân phối lợi nhuận giữa các bên hợp tác được áp dụng khá linh hoạt. Xí nghiệp được thành lập theo hình thức này có thể là thực thể kinh tế độc lập có ban giám đốc điều hành, cũng có thể do các bên tiến hành hợp tác với tư cách là pháp nhân độc lập của từng bên thành thực thể kinh tế kết hợp mà các bên cùng phối hợp với nhau để thực hiện các hoạt động quản lí kinh doanh.Khi các bên không thành lập một pháp nhân mới, việc giám sát, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của hình thức đầu tư này khá phức tạp, đặc biệt về các mặt tài chính. Các giao dịch tài chính không rõ ràng, việc trốn thuế, thiếu trung thực trong các báo cáo tài chính, báo cáo thu nhập, lãi, lỗ…dễ xảy ra đối với hình thức đầu tư này. Xí nghiệp sở hữu nước ngoài hoàn toàn: Đây là hình thức đầu tư trong đó toàn bộ vốn góp thuộc sở hữu nhà đầu tư nước ngoài. Loại hình này thường được tổ chức theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Việc thành lập loại hình xí nghiệp này được đánh giá là mang lại nhiều lợi ích cho phía Trung Quốc. Cụ thể là: Trung Quốc sẽ tiếp nhận được trình độ kĩ thuật khá cao; không phải quan tâm nhiều đến việc chuẩn bị vốn đầu tư để góp vốn vào dự án với nhà đầu tư nước ngoài; không phải chịu rủi ro từ hoạt động đầu tư, mà chỉ thu tiền thuế của các hoạt động kinh doanh của xí nghiệp loại này; không có những sự xung đột, tranh chấp về quản lý và điều hành kinh doanh trong xí nghiệp giữa phía Trung Quốc và phía nước ngoài. Tuy nhiên, với hình thức đầu tư này, Trung Quốc cũng phải chịu những thua thiệt nhất định, cụ thể là: Trung Quốc không chủ động tiến hành cải tạo các doanh nghiệp hiện có; nhiều nhà đầu tư nước ngoài trốn thuế nghiêm trọng, thậm chí thay đổi cả mục tiêu dự án; khó đạt được mục tiêu tiếp nhận công nghệ nguồn của các công ty xuyên quốc gia. Hình thức hợp tác phát triển: Đây là cách rút gọn của hình thức hợp tác nghiên cứu và khai thác dầu khí trong đất liền và ngoài khơi. Hình thức này chủ yếu được áp dụng trong khai thác các nguồn khoáng sản tự nhiên. Hình thức này chiếm tỉ trọng nhỏ trong các hình thức đầu tư, vì tuy lợi nhuận thu được khá cao nhung mức độ rủi ro cũng khá cao, và nguồn vốn đầu tư lớn. Công ty cổ phần đầu tư nước ngoài: Đây là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài có thể thành lập công ty cổ phần ngay từ thời điểm thành lập hoặc lựa chọn các công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn đầu tư nước ngoài để chuyển đổi thành công ty cổ phần.Qui định này tạo điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài chuyển đổi hình thức đầu tư, thực hiện việc cổ phần hoá doanh nghiệp và tham gia thị trường chứng khoán. Trên thực tế, hình thức đầu tư này chưa thật phát triển mạnh do hoạt động quản lí trên thị trường chứng khoán Trung Quốc còn khá phức tạp và kinh nghiệm quản lí của Trung Quốc trên lĩnh vực này chưa nhiều. Hình thức công ty đầu tư Đây là hình thức nhằm khuyến khích các công ty nước ngoài có quy mô lớn, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia có vốn đầu tư lớn, công nghệ nguồn, thương hiệu mạnh, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và khả năng cạnh tranh cao tiến hành các hoạt động đầu tư.Các công ty xuyên quốc gia thông qua các công ty đầu tư thực hiện các dự án có quy mô lớn, kĩ thuật cao, phương thức quản lý khoa học và có hiệu quả. Đây là động lực và nền tảng cơ bản để nâng cao trình độ kĩ thuật của các xí nghiệp Trung Quốc, nâng cấp và đổi mới thế hệ sản phẩm, cải thiện cơ cấu ngành nghề. Hình thức BOT: Để mở rộng lĩnh vực đầu tư và thị trường đầu tư, Trung Quốc đã tích cực thực hiện các phương thức đầu tư mới như: BOT, BTO, BT nhằm khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá, bến cảng, cơ sở năng lượng… Tuy nhiên hình thức này có thời hạn thu hồi vốn dài và tỷ lệ thu hồi vốn không cao. Hình thức sát nhập và mua lại công ty: Đây là việc Trung Quốc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia được phép thực hiện các hoạt động sát nhập và mua lại các công ty Trung Quốc. Đồng thời thông qua hoạt động này, các nhà đầu tư trong nước có thể có được các bí quyết công nghệ và các qui trình sản xuất mà các hình thức khác khó thực hiện được. Hình thức này đang được triển khai áp dụng ở Trung Quốc và gắn với các qui định pháp luật về cạnh tranh và các qui định chống độc quyền. Một số hình thức khác Ngoài các hình thức trên, Trung Quốc cũng đã áp dụng nhiều phương thức thu hút đầu tư nước ngoài khác có tính đặc thù như: thành lập các đặc khu kinh tế, thành phố mở cửa, khu công nghiệp chế xuất … Đặc khu kinh tế là những khu vực kinh tế đặc biệt chuyên cung cấp những ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài nhưng vẫn chịu sự chỉ đạo của Nhà nước.Hoạt động kinh tế của nó chịu sự chi phối trực tiếp của thị trường thế giới. Sự phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào thu hút và sử dụng vốn, công nghệ và kiến thức quản lí nước ngoài. Thành phố mở cửa là những thành phố có hoạt động kinh doanh phát triển toàn diện, có truyền thống buôn bán lâu đời, có tiềm năng kinh doanh nguyên liệu, năng lượng, và các thành phố có cảng vận tải. Thành phố mở cửa bao gồm thành phố mở cửa ven biển và thành phố mở cửa ven biên giới. Khu chế xuất, khu công nghiệp là các khu chuyên môn hoá sản xuất hàng công nghiệp để xuất khẩu hoặc tiêu thụ trên thị trường trong nước. Các xí nghiệp hoạt động trong các khu này được hưởng các ưu đãi về tài chính, cơ sở hạ tầng, dịch vụ kinh doanh và các điều kiện lao động… 2.2.1.2. Thực hiện chính sách mở cửa từng bước Trong những năm qua, Trung Quốc đã thực hiện chính sách mở cửa từng bước, khuyến khích đầu tư nước ngoài theo quy hoạch phát triển vùng lãnh thổ phù hợp với từng giai đoạn phát triển: Năm 1979, Đảng cộng sản và Quốc vụ viện Trung Quốc đã quyết định hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại đặc thù, nhằm tích cực thu hút nguồn vốn của Hoa Kiều và kinh nghiệm quản lý kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài. Năm 1980, Uỷ ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân Trung Quốc thông qua “Điều lệ về Đặc khu kinh tế Quảng Đông” và quyết định thành lập 3 Đặc khu kinh tế: Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Dầu, đồng thời quyết định cho tỉnh Phúc Kiến xây dựng Đặc khu kinh tế Hạ Môn. Năm 1984, Trung Quốc thành lập tỉnh đảo Hải Nam và toàn tỉnh thành lập khu kinh tế thứ 5 (Đặc khu kinh tế Hải Nam) Năm 1988, Trung Quốc mở cửa tiếp 14 thành phố ven biển với tổng diện tích 10 vạn km2, dân số khoảng 45,38 triệu người. 14 thành phố này đều là nơi có nền kinh tế phát triển. Việc Trung Quốc mở cửa những thành phố này là nhằm mở rộng hơn việc hợp tác kĩ thuật và giao lưu kinh tế với nước ngoài, tận dụng FDI, nhằm đưa khoa học kĩ thuật tiên tiến vào Trung Quốc. 2.2.1.3. Phát triển và mở rộng hệ thống khuyến khích đầu tư đa dạng. Trung Quốc chủ động sử dụng nguồn vốn nước ngoài một cách hợp lí và hiệu quả; coi đầu tư nước ngoài là một nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng thông thoáng và hấp dẫn. Trung Quốc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các vùng khó khăn của Trung Quốc ( miền Trung và miền Tây) bằng cách: khi đầu tư vào các khu vực khó khăn, các nhà đâu tư sẽ được hưởng chính sách thuế ưu đãi hơn trong 10 năm sau khi bắt đầu thực hiện dự án. Việc mở cửa các thị trường tài chính được thực hiện trên nguyên tắc tin cậy và thận trọng từng bước Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư vào các ngành, cụ thể là: Thời kì đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX, Trung Quốc đã mở cửa ngành công nghiệp nhẹ cho các nhà đầu tư nước ngoài là chủ yếu, sau đó từng bước mở rộng sang các lĩnh vực khác như: năng lượng, nguyên liệu thô, xây dựng cơ sở hạ tầng. Cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Trung Quốc có sự điều chỉnh chính sách thu hút FDI hướng về xuất khẩu, nên cơ cấu FDI có những thay đổi lớn, các dự án công nghiệp chiếm hơn 90% tổng số dự án và trên 70% tổng số vốn FDI cam kết. Trong những năm 90 của thế kỉ XX, cơ cấu FDI được khuyến khích mở rộng, chuyển sang các hoạt động dịch vụ như kinh doanh tiền tệ, ngoại thương, tư vấn, bảo hiểm… 2.2.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Thái Lan Về các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo qui định pháp luật của Thái Lan, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được áp dụng tương tự như các hình thức đầu tư trực tiếp của Trung Quốc và mức độ đa dạng khá cao.Các hình thức này bao gồm: hợp tác kinh doanh trên cơ sỏ hợp đồng, liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài sở hữu hoàn toàn, các hình thức BOT, BT, BTO, hình thức sáp nhập và mua lại và phương thức thành lập các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất. Thái Lan không có giới hạn về thời hạn thuê đất đối với các dự án đầu tư nước ngoài và trong các liên doanh, bên nước ngoài chỉ được góp vốn tối đa là 49%. Thái Lan chú trọng phát triển các dự án công nghệ cao, đặc biệt là các dự án công nghệ thông tin thông qua việc thành lập “ Thung lũng công nghệ cao” gắn với việc khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ và chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ cao. Thái Lan cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Bangkok với những qui định khá chặt chẽ để tránh tình trạng rơi vào khủng hoảng tài chính - tiền tệ như năm 1997. Tuy nhiên khả năng quản lí các hình thức đầu tư trên thị trường chứng khoán của Thái Lan còn khá hạn chế. 2.2.3. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Malaysia Malaysia có khá nhiều điểm tương đồng với Thái Lan trong việc thực hiện các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Pháp luật Malaysia cũng qui định các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: hợp tác kinh doanh trên cơ sỏ hợp đồng, liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài sở hữu hoàn toàn, các hình thức BOT, BT, BTO, hình thức sáp nhập và mua lại và phương thức thành lập các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất. Cả hai nước đều chú trọng phát triển các dự án công nghệ cao, đặc biệt là các dự án công nghệ thông tin thông qua việc thành lập “ Thung lũng công nghệ cao” gắn với việc khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ và chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ cao. Malaysia cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Kuala Lumpur. Chảng hạn, các nhà đầu tư nước ngoài có tài khoản tạo các công ty môi giới địa phương chỉ được đầu tư vào 3 quỹ đã niêm yết là Quỹ Kwang Hua Growth, Quỹ NITC Fuyuan và Quỹ Citizen. Mailaysia coi trọng việc phát triển các liên doanh trong lĩnh vực công nghiệp nặng như công nghiệp ô tô, công nghiệp đóng tàu… để tiếp nhận công nghệ chế tạo nước ngoài, nâng cao trình độ quản lí của đội ngũ cán bộ … phù hợp với chiến lược phát triển ngành công nghiệp. 2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển ở trình độ thấp cho nên nhiều giao dịch quốc tế, trong đó có các giao dịch về đầu tư chưa phát triển đủ mức định hình một cách rõ nét về các hình thức đầu tư để qui định chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật. Hơn nữa, việc khai thác, sử dụng và phát triển có hiệu quả các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là một vấn đề rất quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách phát triển của Việt Nam và chúng có tính nhạy cảm cao trong thu hút đầu tư nước ngoài. Đây vừa là một vấn đề có tính chất kinh tế kinh doanh, vừa là vấn đề chính trị có liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc gia, mức độ độc lập, tự chủ… trong chính sách đối ngoại. Bên cạnh đó, vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau như mục tiêu đặt ra trong chính sách của Chính phủ, chiến lược nhà đầu tư nước ngoài, bối cảnh kinh tế trong khu vực mà đặc biệt là năng lực kiểm soát, quản lí hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài ở nước sở tại và sự phát triển của tư duy pháp lí trong ban hành các qui định pháp luật về đầu tư nước ngoài của nước sở tại… Từ thực tiễn áp dụng các hình thức đầu tư nước ngoài của các nước vừa nghiên cứu ở trên, có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam. 2.3.1. Cần thống nhất về mặt nhận thức rằng việc qui định các hình thức FDI phù hợp là công cụ để kiểm soát và quản lí có hiệu quả các hoạt động FDI Cần có phương thức sử dụng các hình thức đầu tư một cách có hiệu quả tương ứng với năng lực quản lí hoạt động đầu tư. Cần sử dụng các công cụ này một cách linh hoạt, sang tạo, đa dạng, và mềm dẻo tuỳ thuộc vào điều kiện của từng giai đoạn và thậm chí của từng khu vực trong một đất nước nếu cần thiết, thông qua một hệ thống các qui định, chỉ dẫn và các biện pháp khuyến khích. 2.3.2. Cần đa dạng hoá hình thức đầu tư theo quan điểm lợi ích – chi phí phù hợp với xu hướng mở cửa thị trường đầu tư và tự do hoá đầu tư nước ngoài Để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư với phương thức hợp lí gắn với điều kiện từng nước và từng giai đoạn. Đồng thời, để đạt được mục tiêu đặt ra lâu dài của chính sách đầu tư, trong nhiều trường hợp, các chính phủ phải chấp nhận sự thua thiệt ở mức độ nhất định các khoản lợi ích ngắn hạn. Việc cho phép thành lập các xí nghiệp nước ngoài sở hữu hoàn toàn nhằm tăng khối lượng vốn đầu tư thu hút từ bên ngoài, cải tiến chất lượng sản phẩm, thu hút được công nghệ nguồn… nhưng đổi lại các lợi ích thu được là những thua thiệt về lợi ích của nước sơ tại do hoat động chuyển giá nội bộ công ty xuyên quốc gia, việc trốn lậu thuế và khả năng lũng đoạn thị trường của các xí nghiệp này. Các hình thức đầu tư nên được tạo điều kiện phát triển mạnh hiện nay ở Việt Nam là sáp nhập và mua lại, phát triển hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ tương hỗ, quỹ bảo hiểm đầu tư… và các hình thức đầu tư khác trên thị trường chứng khoán. 2.3.3. Cần coi trọng việc bảo hộ lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài Việc nhà đầu tư nước ngoài lựa chon một hình thức đầu tư nào đó là sự thể hiện đầy đủ quan điểm của nhà đầu tư mà trực tiếp là các khoản lợi ích thu được tối ưu của họ từ hoạt động đầu tư được tiến hành. Việc bảo hộ lợi ích, thể hiện ở việc cho phép nhà đầu tư có đủ các quyền năng để thực hiện các hình thức đầu tư hợp lí ở những lĩnh vực tạo lợi ích lớn nhất cho họ. Cụ thể là: Đối với lĩnh vực khai thác, thăm dò đầu khí ngoài khơi - một lĩnh vực có nhiều rủi ro, hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm là hình thức hợp lí. Đối với lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực cung ứng các dịch vụ, tiện ích công cộng, bảo vệ môi trường sinh thái, cung cấp nguồn nước, năng lượng… hìnht hức BOT, BTO, BT là những hình thức nên áp dụng Đối với lĩnh vực có khả năng thu lợi nhuận độc quyền hoặc độc quyền nhóm trên một đoạn thị trường nhất định vốn là thế mạnh của các công ty xuyên quốc gia, có thể sử dụng được danh tiếng và thương hiệu mạnh của các tập đoàn này, khai thác năng lực cạnh tranh cao của chúng, bảo hộ được tài sản trí tuệ, bí quyết công nghệ, bí quyết thương mại… hình thức tổ chức kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài là hợp lí. Đối với lĩnh vực có khả năng phân chia thị trường, khó có khả năng thu lợi nhuận độc quyền mà chỉ có khả năng thu lợi nhuận bình quân, chia sẻ rủi ro hoặc để tận dụng kiến thức và kinh nghiệm của đối tác về thị trường, kĩ năng quản lí, chuyển giao công nghệ… hình thức liên doannh là hình thức bộc lộ những ưu thế cao hơn so với các hình thức khác. Đối với lĩnh vực dịch vụ đặc thù như cung ứng dịch vụ tư vấn, nghiên cứu – phát triển… hình thức công ty hợp danh là sự lựa chọn tối ưu… 2.3.4. Việc qui định hình thức đầu tư cần gắn với các điều kiện thực hiện hình thức đó và cần có cơ chế điều tiết, kiểm soát thích hợp. Các điều kiện thực hiện bao gồm điều kiện về tổ chức, biện pháp khuyến khích về tài chính, đội ngũ nhân sự bao gồm cán bộ quản lí và công nhân, mức độ ủng hộ của chính phủ thông qua việc cho phép các hoạt động đầu tư diễn ra ở các lĩnh vực nhất định… tức là mức độ mở cửa thị trường để đầu tư. Đồng thời cần đào tạo và phát triển những nhân sự có đủ những phẩm chất, năng lực cần thiết để cùng tham gia điều hành hoạt động liên doanh, có khả năng để học hỏi kinh nghiệm của đối tác nước ngoài và phối hợp hữu hiệu trong việc ra quyết định. Cần có cơ chế điều tiêt, kiểm soát các hình thức này một cách phù hợp để hướng hoạt động đầu tư theo đúng mục tiêu đặt ra theo từng ngành, từng khu vực…, tạo điều kiện để nhà đầu tư chuyển đổi hình thức đầu tư khi cần thiết, tránh tình trạng tuỳ tiện áp đặt các hình thức đầu tư không phù hợp, gây tốn kém chi phí để điều chỉnh trong tương lai. Cần có đội ngũ cán bộ quản lí nhà nước có đủ năng lực thực hiện và bộ máy quản lí nhà nước ở cấp trung ương và địa phương có đủ hiệu lực thực hiện. Cần thay đổi cơ bản nhận thức phổ biến hiện nay trong các nhà hoạch định chính sách đầu tư Việt Nam là “ khả năng quản lí đến đâu tạo điều kiện phát triển các hình thức đầu tư đến đó”.Chính nhận thức này làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng và đa dạng hoá linh hoạt các hình thức đầu tư, làm tăng them mức độ trì trệ của bộ máy quản lí, khó đưa ra được những thay đổi có tính chất đột phá nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay 2.3.5. Cần phát triển mạnh khoa học pháp lí về đầu tư nước ngoài để tăng tính chủ động và sang tạo của các nhà hoạch định chính sách trong việc đưa ra các hình thức đầu tư nước ngoài phù hợp với điều kiện Việt Nam. Việc phát triển khoa học pháp lí cần dựa trên thực tiễn hoạt động kinh tế và kinh doanh quốc tế có liên quan đến đầu tư tại Việt Nam, các chính sách kinh tế, tập quán kinh doanh, trình độ phát triển các giao dịch về đầu tư nước ngoài, thực tiễn đầu tư của các nước trên thế giới cũng như các qui định quốc tế về đầu tư được qui định trong các hiệp định quốc tế hoặc các thông lệ quốc tế. Vì thế, cần chú trọng đào tạo đội ngũ luật gia, trang bị kiến thức pháp luật, phương pháp luật tư duy pháp lí sang tạo, linh hoạt, hìnht hành tầm nhìn xa, khả năng trông rộng về tính chất pháp lí của các giao dịch kinh tế cho các nhà quản lí doanh nghiệp và quản lí nhà nước, đầu tư nhiều hơn vào phát triển khoa học pháp lí thông qua việc triển khai hệ thống các đề tài nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và tổng kết thực tiễn, nghiên cứu tình huống có tính đặc thù về các vấn đề như quyền sở hữu, quyền hưởng lợi, quyền lựa chọn và chuyển đổi hình thức đầu tư tài sản, quyền tham gia thị trường chứng khoán, vấn đề bảo hộ đầu tư nước ngoài, các qui định về cạnh tranh, bản chất sinh lợi của các loại tài sản… Cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm các nước về ban hành pháp luật, qui định về hình thức đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nước có nền khoa học pháp lí phát triển về lĩnh vực đầu tư để đón đầu trong việc đưa ra các qui định hợp lí, tiếp nhận có chọn lọc các kinh nghiệm quốc tế này để áp dụng vào Việt Nam. Cần có cơ chế giảm thiểu những rủi ro trong nghiên cứu và rút ngắn tối đa khoảng cách tụt hậu về tư duy khoa học pháp lí trong xây dựng, ban hành và áp dụng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài Chương 2 :Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài- FDI vào Việt Nam 2.1.Thành tựu và đóng góp của dự án FDI vào Việt Nam Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1988) đến hết ngày 28/02/2006, Việt Nam đã thu hút được trên 6.090 dự án(còn hiệu lực) với mức vốn đăng ký đạt hơn 52,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 28 tỷ USD. Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một thành phần kinh tế trong hệ thống kinh tế quốc dân. Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận hữu cơ năng động của nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng cao và vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế . Đầu tư nước ngoài đã đóng góp 27% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), 33% giá trị sản xuất công nghiệp, 22% vốn đầu tư xã hội và hơn 14% GDP của cả nước, tạo thêm việc làm cho hơn 80 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác.Đầu tư trực tiếp vào Việt Nam (1992 – 2002) (Nguồn: MPI) Khu vực FDI đã làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá cho thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu hang hoá thiết yếu, góp phần bình ổn thị trường, nâng cao đời sống xã hội. Mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài vào thu ngân sách ngày càng tăng về giá trị tuyệt đối và tương đối, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi.Trong thời gian vừa qua, dòng ngoại tệ vào Việt Nam thông qua FDI vẫn lớn hơn rất nhiều dòng ngoại tệ từ Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; cộng thêm việc mở rộng nguồn thu gián tiếp từ FDI (qua khách thăm quan, tìm hiểu cơ hội đầu tư, tiền cho thuê đất, tiền lương cho lao động thuộc khu vực đầu tư nước ngoài, tiền cung cấp nguyên vật liệu địa phương và các dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ khác) đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước. Mặc dù phần lớn doanh nghiệp FDI đang trong thời kỳ hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng nguồn thu ngân sách từ khu vực FDI liên tục tăng, tính bình quân chiếm từ 7-8% nguồn thu ngân sách (nếu tính cả nguồn thu từ dầu khí, tỷ lệ này đạt gần 30% thu ngân sách). Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây (2001-2005),các dự án ĐTNN đã đạt doanh thu khoảng 74,061USD. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn FDI tăng bình quân 20%/năm, đã làm cho tỷ trọng của khu vực kinh tế này trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước tăng liên tục trong các năm qua.So sánh giá trị xuất khẩu và đóng góp cho GDP như trên với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội mới thấy hết hiệu quả của khu vưc kinh tế có vốn ĐTNN. Chính vì vậy, cần phải khuyến khích các dự án ĐTNN hoàn thành và đưa vào sử dụng, vì những dự án này sẽ mang lại lợi ích lớn về kinh tế cho đất nước, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, rút ngắn được tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện nay, các doanh nghiệp ĐTNN đang hoạt động có hiệu quả và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước.Chỉ tính riêng trong năm 2005 đã đạt tổng doanh thu khoảng 18 tỷ USD (không kể dầu khí), ngang bằng năm 2004. Hơn nữa cả vốn và lao động được bồi bổ thêm đáng kể. Cụ thể là trong năm 2005, khu vực kinh tế ĐTNN đã thực hiện được 6,338 tỷ USD vốn đầu tư , tăng trên 50% so với năm 2004. Nhờ hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh được tăng cao hơn mà trong năm 2005, chủ đầu tư của 607 dự án trong khu vực ĐTNN đã đề nghị và được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho tăng thêm vốn đầu tư để mở rộng quy mô hoạt động, với tổng vốn đầu tư tăng them 2,070 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm trước. Điều đó cho thấy, nhiều nhà ĐTNN muốn làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Theo một báo cáo của Bộ KH&ĐT, trong 5 tháng đầu năm nay cả nước đã thu hút thêm hơn 2,412 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, bao gồm cả vốn bổ sung của những dự án cũ. Trong đó, riêng phần mới cấp phép có 281 dự án, với tổng vốn đăng ký trên 2 tỷ USD,tăng 8,5% về số dự án và tăng 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực công nghiệp và xây dưng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng số vốn đăng ký mới; lĩnh vực dịch vụ chiếm tương ứng là 21,1%và 33,4%; phần còn còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm- thuỷ sản. Đáng chú ý, trong số dự án cấp giấy phép không chỉ có một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, và còn gắn liền với việc chuyển giao công nghệ cao, như tập đoàn Intel 605 triệu USD, Công ty Tây Hồ Tây 314 triệuUSD, Winvest Invesment 300 triệuUSD, công ty PanasonicCommution 76,36 triệu USD… Cũng theo báo cáo trên, doanh thu (không kể dầu khí) của các doanh nghiệp FDI trong tháng 5/2006 ước đạt 2,55 tỷ USD, đưa tổng doanh thu của khu vực FDI trong năm tháng đầu năm 2006 lên 9,8 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2005.Trong năm tháng đầu năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao, đạt 18% so với cùng kỳ năm trước, vượt trội so với mức tăng trưởng chung 15,9% của toàn ngành công nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu hang hoá của các doanh nghiệp FDI trong 5 tháng đầu năm 2006 tăng 29,5% so với cùng kỳ năm trước, cũng vượt trội so với mức tăng trưởng chung của cả nước là 24,3%. Sau một năm, kể từ tháng 5/2005 đến nay, không kể dầu khí, tỷ trọng của doanh nghiệp FDI trong tổng giá trị sản xuất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0076.doc
Tài liệu liên quan