Lời nói đầu 1
Chương 1: Lý luận chung về cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại Nhà nước 2
1.1. Quá trình phát triển doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 2
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước 2
1.1.2. Quá trình phát triển doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 2
1.2. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 8
1.2.1. Khái niệm cổ phần hoá DNNN và CTCP 8
1.2.2. Mục tiêu của cổ phần hoá 9
1.2.3. Các hình thức và mức độ cổ phần hoá 10
1.2.4. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá DNNN 11
1.3. Quy trình thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại Nhà nước 14
Chương 2: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước ở Thành phố Hà Nội. 18
2.1. Thực trạng các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở Thành phố Hà Nội 18
2.1.1. Kết quả và hiệu quả SXKD của DNNN thấp 18
2.1.2. Nhà nước bảo hộ quá sâu đối với DNNN 19
2.1.3. Nhà nước can thiệp và làm thay DN trong chức năng quản lý SXKD 19
2.1.4. Thực trạng về tổ chức hoạt động của các DNNN trước CPH 20
2.2. Phân tích thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở Thành phố Hà Nội 20
2.3. Kết quả đạt được và vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần ở Thành phố Hà Nội 25
2.3.1. Những kết quả đạt được của các DN sau CPH 25
2.3.2. Vấn đề đặt ra 28
2.3.3. Nguyên nhân của những khó khắn vướng mắc 33
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở Thành phố Hà Nội 36
3.1. Phương hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở Thành phố Hà Nội 36
3.1.1. CPH DN nhưng không được làm thất thoát tài sản của Nhà nước, không ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh 36
3.1.2. Đảm bảo chính xác trong việc xác định giá trị còn lại của DNNN khi tiến hành CPH 37
3.1.3. Lựa chọn DN hoặc bộ phận DN và hình thức CPH phải đảm bảo thực hiện được mục tiêu CPH 37
3.1.4. Lành mạnh hoá tình hình tài chính của DN trước khi tiến hành 37
3.1.5. Đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo và thực hiện CPH 38
3.1.6. Xác lập cơ chế pháp lý hấp dẫn đối với người lao động 38
3.2. Giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá các DN thương mại nhà nước ở Thành phố Hà Nội 38
3.2.1. Quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách và giải pháp đổi mới DNNN 38
3.2.2. Giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công chương trình CPH DNNN 39
3.2.3. Tích cực giải quyết các khoản nợ của DNNN thực hiện CPH 40
3.2.4. Hoàn thành việc xác định giá trị DN khi tiến hành CPH 41
3.2.5. Đổi mới công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình CPH DNN 43
3.3. Khắc phục những hạn chế sau cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại Nhà nước 45
3.3.1. Tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của DN cổ phần 45
3.3.2. Nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý và điều hành của DN cổ phần 45
3.3.3. Một số giải pháp đối với cổ đông trong DN cổ phần 46
3.3.4. Xoá bỏ ưu đãi bất hợp lý với DNNN 47
3.3.5. Tăng khả năng tạo vốn của CTCP 47
Kết luận 48
Tài liệu tham khảo 49
55 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1158 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành, vào tình hình thực tế của DN, ban chỉ đạo xem xét, quyết định thuê tổ chức tư vấn hoặc giao cho Tổ giúp việc cùng DN lập phương án CPH với các nội dung cơ bản sau:
- Giới thiệu chung về DN, trong đó có kết quả hoạt động SXKD trong 3-5 năm liền kề trước khi CPH.
- Đánh giá thực trạng DN tại thời điểm xác định giá trị DN, bao gồm thực trạng tài sản, tài chính, lao động và các vấn đề khác.
- Phương án sắp xếp lại lao động sau CPH.
- Phương án hoạt động SXKD trong 3-5 năm tiếp theo.
- Phương án CPH, bao gồm: hình thức tiến hành CPH, vốn điều lệ và dự kiến cơ cấu vốn điều lệ, phương thức phát hành cổ phiếu.
- Dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP.
Sau khi xây dựng phương án CPH, Tổ giúp việc và DN tổ chức đại hội công nhân viên chức (bất thường) dể lấy ý kiến hoàn thiện phương án CPH, phối hợp với các tổ chức tư vấn (nếu có) hoàn thiện phương án CPH và trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trong thời gian không quá 5 ngày, cơ quan quyết định CPH DN xem xét và phê duyệt phương án CPH.
Bước 2: Tổ chức bán cổ phần.
Ban chỉ đạo CPH lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy định.
Đối với trường hợp bán đấu giá trực tiếp tại DN: Tổ chức bán đấu giá cổ phần cho nhà đầu tư, đồng thời xác định giá đấu thành công bình quân để bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược.
Đối với trường hợp bán cổ phần tại tổ chức tài chính trung gian: Ban chỉ đạo lựa chọn tổ chức tài chính trung gian giao cho DN ký hợp đồng, cùng DN phối hợp với tổ chức tài chính trung gian đó thực hiện bán cổ phần cho người lao động, nhà đầu tư chiến lược và cho những nhà đầu tư khác theo quy định.
Đối với trường hợp bán cổ phần tại TTGDCK: Ban chỉ đạo CPH đăng kí trực tiếp hoặc thuê tổ chức trung gian đăng kí và phối hợp với trung tâm giao dịch để bán cổ phần. Nếu đăng kí trực tiếp, ban chỉ đạo CPH phải nộp đơn đăng kí và các tài liệu liên quan, phối hợp để tổ chức phát hành cổ phiếu và phải thực hiện bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược.
Tổng hợp kết quả bán cổ phần, báo cáo cơ quan ra quyết định CPH, cơ quan này sẽ tiến hành điều chỉnh quy mô, cơ cấu cổ phần của DN đối với trường hợp không bán cổ phần cho các đối tượng theo đúng phương án CPH được duyệt.
Bước 3: Hoàn tất việc chuyển DN thành CTCP.
Ban chỉ đạo CPH, tổ giúp việc và DN tổ chức đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất để thông qua điều lệ tổ chức và hoạt động, phương án SXKD, bầu ra hội đồng quanr trị, ban kiểm soát cùng bộ máy điều hành của CTCP. Căn cứ vào đó, hội đồng quản trị CTCP sẽ thực hiện đăng kí kinh doanh.
Cán bộ chuyên trách trong công ty mới thành lập có trách nhiệm lập báo cáo tài chính tại thời điểm công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thực hiện quyết toán thuế, quyết toán chi phí CPH, nộp tiền thu từ quy trình CPH về công ty, TCT hoặc quỹ hỗ trợ sắp xếp DN tại Bộ Tài chính.
Tổ chức ra mắt CTCP và thực hiện bố cáo trên phương tiện thông tin đại chúng. Trường hợp DN được xác định sẽ niêm yết ngay trên TTCK thì lập hồ sơ xin cấp phép niêm yết gửi Bộ Tài chính (UBCKNN) theo quy định hiện hành.
Cuối cùng, thực hiện bàn giao cho hội đồng quản trị CTCP vốn và tài sản của DN, danh sách người lao động trong DN, hồ sơ, danh sách cổ đông và toàn bộ hồ sơ, tài liệu sổ sách của DN dưới sự chứng kiến của ban đổi mới quản lý tại DN và đại diện cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại DN.
Chương II
Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước ở Thành phố Hà Nội.
2.1 Thực trạng các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở Thành phố Hà Nội.
2.1.1 Kết quả và hiệu quả SXKD của DNNN thấp.
Nhìn chung tình hình hoạt động SXKD của các DNNN còn nhiều hạn chế như: trình độ quản lý yếu kém, cơ cấu tổ chức bất hợp lý, NSLĐ thấp chưa tương xứng với nguồn lực và sự trợ giúp của Nhà nước, chỉ đạt 38% so với DN ngoài quốc doanh, vòng quay vốn trung bình giai đoạn 1985-1991 chỉ đạt 60% so với DN ngoài quốc doanh.
Tại hội nghị toàn quốc về đổi mới DN tháng 3/2004, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã chỉ rõ nguyên nhân yếu kém của khối DNNN. Thuế thu nhập DN chỉ đạt 8000 tỷ đồng trong tổng số 87.000 tỷ đồng nộp NSNN (chiếm 9,19%), trong khi đó tổng số nợ của khối này phải thu, phải trả lên tới 300.000 tỷ đồng. Một thực tế đáng lo ngại là sức cạnh tranh của các DNNN rất yếu kém. Trong khối ASEAN, Việt Nam thuộc nhóm nước có sức cạnh tranh kém phát triển. Thủ tướng lấy ví dụ: Chi phí vận chuyển công ten nơ từ khu công nghiệp Bình Dương đến cảng Vũng Tàu còn cao hơn từ Vũng Tàu đi Singapore.
Bảng 2.1: Thực trạng về NSLĐ và vòng quay trung bình của vốn
của các DN trước CPH
TT
Chỉ tiêu
DNNN
DN ngoài quốc doanh
1
NSLĐ
38%
100%
2
Vòng quay trung bình của vốn
60%
100%
Nguồn:
Bảng 2.2 Thực trạng về Thuế thu nhập DNNN trước CPH
Chỉ tiêu
Kế hoạch
Thực tế
Tỷ lệ
Số tiền phải nộp ngân sách
87.000 tỷ đồng
8.000 tỷ đồng
9,19%
Số tiền phải thu, phải trả
300.000 tỷ đồng
41.000 tỷ đồng
13,66%
Nguồn:
Chính vì sự yếu kém của các DNNN và không đảm nhiệm được việc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nên CPH DNNN là tất yếu khách quan và cũng chính là chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta.
2.1.2 Nhà nước bảo hộ quá sâu đối với DNNN.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa về thị trường sản phẩm và thị trường vốn, hàng loạt các ngành công nghiệp đã trở nên ngày càng khó khăn hơn và không còn giải pháp nào khác và hợp tác quốc tế để giải quyết những khó khăn đó. Đồng thời, việc phát triển các ngành công nghiệp, phát triển sản xuất và những vấn đề liên quan đến sản xuất của các DNNN đều do Nhà nước quyết định hoặc lãnh đạo DNNN quyết định đã phần nào gặp trở ngại trong môi trường mới đòi hỏi phải có các quyết định nhanh và kịp thời trong nền KTTT.
2.1.3 Nhà nước can thiệp và làm thay DN trong chức năng quản lý SXKD.
Cho dù trong bất kỳ nền kinh tế nào thì sự quản lý của Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng, nó giúp cho thị trường vận hành trong một giới hạn nhất định và bình ổn thị trường đó.
Nhà nước điều tiết thị trường thông qua các quy phạm pháp luật, các cơ chế chính sách, bằng việc thành lập các cơ quan được giao đặc trách việc điều tiết, quản lý kinh tế, với quy chế độc lập. Việc nhà nước giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế và hạn chế việc làm thay các DNNN dẫn đến hai thay đổi đáng kể: Thứ nhất: tăng cường vai trò quản lý của nhà nước thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật; Thứ hai: tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của DN trong hoạt động SXKD trước thị trường.
2.1.4/ Thực trạng về tổ chức hoạt động của các DNNN trước CPH.
Trước CPH, các khoản nợ, vay chiếm dụng vốn giữa các DN với nhau rất lớn, Nhà nước phải đứng ra lo trả nợ để đảm bảo sự hoạt động bình thường mặc dù không thu được vốn. Điều đó khiến các DNNN đã trở thành gánh nặng cho NSNN. Mức độ tổn thất do khu vực DNNN gây ra cho NSNN đã làm mất lòng tin về khả năng, lợi ích của khu vực này đem lại đồng thời để lại những hậu quả nghiêm trọng như: Tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, thất nghiệp tăngĐể giảm bớt những gánh nặng này Nhà nước đã và đamh từng bước tiến hành CPH các DNNN.
2.2 Phân tích thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở Thành phố Hà Nội.
Sau 15 năm thực hiện CPH DNNN chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định. Giai đoạn 1992-2005 cả nước đã CPH được 2.996 DNNN. Qua khảo sát 559 DN CPH của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW cho thấy 87,53% DN có hoạt động tài chính tốt hoặc rất tốt so với trước CPH. So sánh năm đầu CPH với năm cuối của mô hình DNNN cho thấy lợi nhuận sau thuế tăng 48,8% ngay sau khi CPH. Ngay trong năm sau CPH, NSLĐ của các DNNN đã tăng 26%, tiền lương bình quân tăng trên 20% và đầu tư tài sản cố định tăng 23,1% so với khi còn là DNNN và tốc độ tăng trưởng này tiếp tục dùy trì trong suốt quá trình hoạt động dưới mô hình CTCP. Doanh thu tăng 13,4/năm, lợi nhuận trước thuế đạt mức tăng trưởng 9,4%, lợi nhuận sau thuế tăng 54,3%, NSLĐ tăng 18,3%/năm, đầu tư tài sản cố định tăng 11,5%, lương bình quân tăng 11,4%.
Bảng 2.3 Thực trạng về hiệu quả SXKD của các DNNN sau CPH giai đoạn 1992 - 2005
Các chỉ tiêu tăng sau CPH
Số liệu
1.Tổng số DNNN đã CPH.
2.996
2.Số DNNN sau CPH làm ăn có lãi.
87,53%
3.Lợi nhuận sau thuế so sánh năm đầu CPH với năm cuối của mô hình này.
Tăng > 48,8%
5.NSLĐ tăng trong năm CPH.
Tăng > 26%
6.Tiền lương bình quân.
Tăng > 20%
7.Đầu tư TSCĐ so với trước CPH.
23,1%
Nguồn:
Qua việc khảo sát 559 DNNN sau CPH thu được kết quả đáng kể như sau:
Bảng 2.4 Thực trạng về hiệu quả SXKD của 559 DNNN sau CPH giai đoạn 1992 - 2005
TT
Chỉ tiêu tăng sau CPH
Số liệu
1
Doanh thu tăng
13,4%
2
Mức tăng trưởng/năm của Lợi nhuận trước thuế đạt
9,4%
3
Lợi nhuận sau thuế
54,3%
4
Năng suất lao động
18,3%/năm
5
Đầu tư TSCĐ tăng so với trước CP
11,5%
6
Tiền lương bình quân người lao động
11,4%/năm
Nguồn:
Tính đến hết tháng 8/2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 DN, trong đó CPH 3.060 DN. Riêng từ năm 2001 đến 2005 đã sắp xếp được 3.830 DNNN, bằng gần 68% số DNNN đầu năm 2001.
Nhìn chung các DN sau khi CPH đều nâng cao hiệu quả SXKD. Dựa trên báo cáo kết quả hoạt động của 840 DN CPH đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới 90% số DN sau CPH hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt 17,11%.
Bảng 2.5 Báo cáo kết quả sắp xếp, đổi mới DNNN hết tháng 8/2006
Chỉ tiêu
Số liệu
1. Tổng số DNNN được sắp xếp, đổi mới tính đến 8/2006
4.447
2. Tổng số DNNN đã CPH đến 8/2006
3.060
3. Vốn điều lệ của DN CPH tăng bình quân
44%
4. Doanh thu của DN CPH tăng bình quân
23,6%
5. Lợi nhuận DN CPH tăng bình quân
139,76%
6. Tỷ lệ đóng góp trong GDP của các DN CPH
40%
7. Tổng thu ngân sách Nhà nước
50%
8. Số DNNN làm ăn có lãi sau CPH
90%
9. Nộp NS bình quân tăng
24,9%
10. Số LĐ bình quân tăng
6,6%
11. Thu nhập bình quân của người lao động
12%
12. Cổ tức bình quân đạt
17,11%
Nguồn:
Cùng với việc CPH DNNN, từ năm 2001 đến 2005, trên địa bàn cả nước đã tiến hành giải thể 5 tổng công ty không giữ được vai trò chi phối, đồng thời hỗ trợ các công ty thành viên sáp nhập, hợp nhất 7 TCT, tổ chức lại công ty rượu - bia - nước giải khát thành 2 công ty, thành lập 17 TCT Nhà nước, tổ chức lại 7 TCT thành tập đoàn, đưa 1 TCT 90 vào cơ cấu của tập đoàn. Như vậy, đến hết tháng 9/2006, cả nước đã có 105 tập đoàn và TCT cụ thể gồm 7 tập đoàn, 13 tổng công ty 91, 83 tổng công ty các bộ, ngành, địa phương và 2 tổng công ty thuộc tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam.
Bảng 2.6: Báo cáo kết quả sắp xếp, đổi mới DNNN tính đến hết tháng 6/2006
TT
Chỉ tiêu
Số liệu
1
Tổng số tập đoàn và TCT
105 TCT trong đó:
- 7 tập đoàn
- 13 TCT 91
- 83 TCT thuộc các Bộ, ngành, địa phương
- 2 TCT thuộc tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam
2
Số TCT phải giải thể do không giữ nổi vai trò chi phối nền kinh tế
5 TCT
3
Số lượng các công ty sát nhập, hợp nhất
7 công ty
4
Số TCT rượu – bia – NGK phải tổ chức lại
2 công ty
5
Số TCT Nhà nước thành lập thêm
17 TCT
6
Số TCT tổ chức lại thành các tập đoàn
7 TCT
7
Số TCT đưa vào cơ cấu tập đoàn
1 TCT
Nhìn chung, các DNNN đã giảm mạnh về số lượng, và cải thiện đáng kể về quy mô vốn. Cơ cấu DNNN đã bắt đầu chuyển đổi theo hướng chỉ nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu. Đa số DN sau khi CPH đều có tình hình tài chính tốt hơn so với trước chuyển đổi. NSLĐ, tiền lương, đầu tư TSCĐ đều tăng đáng kể.
Tuy hiệu quả của CPH ngày càng được khẳng định, nhưng sau CPH rất nhiều DN vẫn gặp khó khăn, đặc biệt đã xuất hiện tình trạng phân biệt đối xử giữa DNNN với DN đã CPH mà theo phản ánh của các DN điều này thể hiện rõ các chính sách và thực thi chính sách về đất đai, tài sản, tín dụng.
Thực tế, sau CPH, diện tích đất đai nhà xưởng không thay đổi nhiều. Các địa phương vẫn tiếp tục cho DN thuê đất với giá thấp, nhưng do sự thiếu rõ ràng quyền sử dụng đất cũng như chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ đất đai có liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức CTCP đã làm nảy sinh nhiều khó khăn cho các DN CPH. Rất nhiều DN lúng túng trong việc bố trí kế hoạch hoạt động kinh doanh như xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng Từ thực tế này đã xuất hiện tình trạng các đơn vị thành viên TCT đã CPH nhưng không có quyền sử dụng đất, không được đứng tên thuê giao đất nên phải nhờ TCT đứng ra dùng quyền sử dụng đất vay vốn hộ.
Tương tự, trước đây, khi còn là thành viên trong các TCT, hầu hết các dây chuyền sản xuất chính hoặc các tài sản lớn đều do TCT đầu tư, đứng tên sở hữu, nhưng khi CPH việc chuyển giao đăng ký chưa được dứt điểm, gây ra tình trạng quyền sở hữu tài sản không rõ ràng. Sự không rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm đã khiến cho DN CPH gặp nhiều vướng mắc, nhất là khi DN triển khai mở rộng, liên doanh, hợp tác kinh doanh với các đối tác khác.
Sau CPH, DN cần rất nhiều vốn để phát triển SXKD, đầu tư mở rộng sản xuất nhưng dưới mô hình hoạt động mới - CTCP đã gặp phải khó khăn rất lớn là thiếu vốn. Theo các DN, sau CPH, tỷ trọng vay vốn từ nguồn tín dụng thương mại Nhà nước giảm đi đáng kể.
Không chỉ có thế, sự phân biệt đối xử đối với DN CPH thể hiện rõ qua việc các điều kiện về tín dụng, thế chấp, cầm cố tài sản và lòng tin khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể đối với DN trước và sau khi chuyển đổi. Đây là những trở ngại phát sinh gây hạn chế đối với các DN chuyển đổi. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn vay ưu đãi và các biện pháp tài chính như khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ sau CPH không còn.
2.3 Kết quả đạt được và vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần ở Thành phố Hà Nội.
2.3.1./ Những kết quả đạt được của các DN sau CPH.
Nhìn chung những DN sau CPH ở Thành phố Hà Nội có tình hình SXKD rất tiến triển. Nó thể hiện ở các kết quả sau:
+ Thành công rõ nhất của DNNN thực hiện CPH ở Hà Nội là huy động được thêm nhiều vốn cho SXKD. Trước khi CPH tổng số vốn Nhà nước của 98 doanh nghiệp là 261 tỷ đồng, sau CPH tổng vốn điều lệ tăng lên gần 400 tỷ đồng. Theo số liệu của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Hà Nội: quá trình CPH đó huy động thêm 300 tỷ đồng vốn trong dân cư, số lao động trong doanh nghiệp trở thành cổ đông là 9.809 người. Nhờ tăng vốn cho nên các doanh nghiệp CPH đó đầu tư 382 máy mới có công nghệ hiện đại, xây dựng thêm 29.404 m2 nhà xưởng.
+ Hiệu quả sử dụng vốn của các DN sau CPH được nâng cao. Khoảng 95.2% số DN sau CPH làm ăn có lãi so với trước CPH là 90.5%. Phần lớn các DN (trên 76%) có tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh tăng cao hơn so với trước khi CPH. Một số doanh nghiệp trước đây lợi nhuận đạt thấp, nay tăng khá, như Công ty Việt Hà tăng 3 tỷ đồng, Dệt 10-10 tăng 2,3 tỷ đồng, công ty xuất nhập khẩu Nam Hà Nội tăng 2,6 tỷ đồng... Một số doanh nghiệp sau CPH có mức tăng trưởng lớn như: Công ty xây dựng Ba Đình tăng doanh thu từ 1,8 tỷ đồng lên 8,8 tỷ đồng, Công ty xuất nhập khẩu Từ Liêm tăng từ 46,6 tỷ đồng lên 192,47 tỷ đồng...
+ Các DN CPH đã chủ động hơn trong việc tìm kiếm khách hàng. Nếu như trước đây các DN coi các DNNN hoặc cơ quan Nhà nước là đối tượng khách hàng chính thì sau CPH cơ cấu khách hàng của DN này đã thay đổi theo hướng đa dạng hơn. 65% DN cho rằng đối tượng khách hàng là các DN khu vực tư nhân của họ tăng lên sau CPH. Các DN bắt đầu tập trung nhiều hơn vào mở rộng các kênh bán hàng và tìm kiếm thị. Lượng khách hàng trực tiếp của các DN CPH đã quan tâm tới kích cầu khách hàng bằng các chương trình khuyến mãi, tiếp thị, bán hàng trực tiếpđể cạnh tranh với các DN tư nhân. Đây là yêu cầu có tính chất bắt buộc đối với bất cứ DN nào tham gia thị trường.
+ Các DN CPH vẫn sử dụng hầu hết lao động cũ chuyển từ các DNNN sang. Bên cạnh đó, do mở rộng SXKD, cho nên các DN này vẫn thu hút thêm được một lượng lao động mới nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc. Về quy mô lao đông: khoảng 52.38% số DN mở rộng quy mô, 14.29% số DN giữ nguyên quy mô sau CPH. Ngoài ra, số DN có lao động dôi dư trước CPH là 80.95% đã giảm xuống còn 38.1% tổng số DN sau CPH.
+ Hầu hết các CTCP đều sắp xếp, bố trí lao động phù hợp với trình độ của từng người, từng bộ phận. Do đó NSLĐ ở hầu hết các DN cổ phần đều tăng lên. Khoảng 85.74% số DN có NSLĐ tăng cao hơn (trung bình trên 30% so với trước khi CPH). Việc tăng NSLĐ này chủ yếu là nhờ doanh thu của DN tăng nhanh hơn sau CPH và nhờ bố trí lại lao động cho hợp lý ở từng DN khiến tỷ lệ lao động dôi dư giảm. Tuy nhiên, về bản chất là nhờ ý thức tự giác làm việc của người lao động tăng lên; do trình độ kỹ thuật của công nhân và trình độ công nghệ, máy móc kỹ thuật tăng lên. Ngoài ra, sự quan tâm, sự chủ động của cán bộ quản lý tới lợi nhuận và hiệu quả của DN cũng như nỗ lực của toàn DN trong tiếp thị sản phẩm, dịch vụ đã phần nào làm cho NSLĐ của DN tăng lên nhiều hơn sau CPH. Thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.7: Mức độ quan tâm của cán bộ công nhân viên tới DN sau CPH
Tỷ lệ: % DN trả lời.
Cao hơn nhiều
Cao hơn
Không đổi
ít hơn
ít hơn nhiều
Tổng số
1. Sự quan tâm của cán bộ quản lý đối với lợi nhuận và hiệu quả của công ty.
14,2%
85,7%
0%
0%
0%
100%
2. Sự chủ động của cán bộ quản lý trong thực hiện mục tiêu lợi nhuận và hiệu quả.
19,0%
80,9%
0%
0%
0%
100%
3. Sự cố gắng nỗ lực để tiếp thị các sản phẩm, dịch vụ của công ty.
14,2%
84,7%
0%
0%
0%
100%
4. Sử dụng năng lực sản xuất của công ty
14,2%
76,1%
9,52%
0%
0%
100%
+ Thu nhập của người lao động sau CPH tăng lên so với trước. Khoảng 94.7% số DN cho rằng thu nhập bình quân của người lao động trong công ty tăng lên sau CPH. Thu nhập bình quân một tháng của người lao động trong các DN trước CPH từ 751.000đ/1người tăng lên 1.063.000đ/1 người sau CPH (cao gấp 1,4lần); một số DN có mức thu nhập của người lao động tăng lên gấp đôi. Điều này cho thấy cuộc sống của người lao động được đảm bảo hơn, có nhiều lợi ích hơn kể từ khi làm việc trong DN mới.
Bảng 2.8: Lợi ích của cán bộ công nhân viên sau CPH.
Tỷ lệ: % DN trả lời.
Cao hơn nhiều
Cao hơn
Không đổi
ít hơn
ít hơn nhiều
Tổng số
1. Lương/thưởng của cán bộ quản lý được căn cứ vào kết quản thực hiện.
0%
95,24%
4,76%
0%
0%
100%
2. Lương/thưởng của công nhân được căn cứ vào kết quả thực hiện.
4,76%
90,48%
0%
4,76%
0%
100%
3. Thu nhập ngoài lương.
0%
76,19%
14,29%
9,52%
0%
100%
+ Đóng góp của các DN sau CPH vào NSNN tăng cao, trước CPH, các doanh nghiệp nộp ngân sách 33 tỷ đồng, sau CPH là 58 tỷ đồng, tăng 75%. Trong tương lai mức đóng góp này sẽ tăng cao hơn nữa khi DN đi vào ổn định SXKD.
Tóm lại, sau khi CPH các DN đều đạt được hiệu quả SXKD. CPH đã thực sự đem lại lợi ích cho người lao động và đảm bảo nguồn đóng góp cho NSNN và góp phần đảm bảo vào an sinh xã hội. Điều này đã tạo niềm tin cho các DNNN quyết định thực hiện CPH trong thời gian tới.
2.3.2/ Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần ở Thành phố Hà Nội.
2.3.2.1/ Những khó khăn vướng mắc nảy sinh sau CPH.
+ Quyền tự chủ của DN CPH còn hạn chế:
Những DN mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối (trên 50% số cổ phiếu hiện hành) thì chịu sự can thiệp quá sâu của cơ quan chủ quản thông qua người đại diện vốn Nhà nước. Cơ chế, thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp thực sự là rào cản hạn chế tính chủ động và các kế hoạch đầu tư mở rộng SXKD của những DN này. Tại một số DN, do cổ phần của người lao động chiếm tỷ lệ thấp nên họ hầu như không có tiếng nói trong hội đồng quản trị. Mọi công việc từ báo cáo hiệu quả kinh doanh, cử cán bộ đi khảo sát thị trường đến việc đầu tư nâng cấp trang thiết bị đều phải có sự phê duyệt của cơ quan chủ quản. Trong khi đó nếu cơ quan chhủ quản mở các lớp đào tạo cán bộ cho các đơn vị thì DN CPH lại đóng góp kinh phí cao hơn. Không ít DN CPH vẫn phải vận dụng chính sách thang lương, nâng bậc như khi còn là DNNN, nhiều giám đốc CTCP thừa nhận rằng có sự hạn chế quyền hạn trong việc ra quyết định SXKD.
+ Khăn trong quản lý và điều hành DN sau CPH:
Sau CPH nhiều DN vẫn hoạt động theo mô hình tổ chức tư duy và triết lý kinh doanh theo mô hình DNNN Cách thức tổ chức nhân sự chưa phù hợp với loại hình CTCP, chưa định rõ quan hệ điều hành, lúng túng trong quan hệ giữa hội đồng quản trị và giám đốc. Bộ máy điều hành của công ty hầu nưh vẫn giữ nguyên, chỉ thay đổi về chức danh như giám đốc cũ trở thành chủ tịch Hội đồng quản trị, phó giám đốc trở thành giám đốcHầu như các DN CPH chưa có cơ chế thuê giám đốc điều hành. Do đó, trong hoạt động quản trị DN, không có sự thay đổi về bản chất, không tạo ra luồng sinh khí mới trong điều hành hoạt động SXKD.
Ngoài ra trong các DN có vốn chi phối của Nhà nước, người được Nhà nước chỉ định đại diện cho phần vốn này giữ vị trí quan trọng trong công ty. Điều này nảy sinh trong nội bộ công ty khi đưa ra quyết định do bị chi phối bởi ý kiến chủ quan của người đại diện. Tại nhiều CTCP những việc được cổ đông Nhà nước ủng hộ thì trôi chảy; ngược lại những việc mà họ không thì cho dù được các cổ đông khác ủng hộ thì với tỉ lệ quá 50% cũng rất khó thành. Ngoài ra Nhà nước còn can thiệp vào hoạt động khác của DN như duyệt đơn, giá tiền lương, cử thêm người đại diện Nhà nước tham gia Hội đồng quản trị
+ Bất cập trong xác định giá trị DN:
Hiện nay, việc xác định giá trị DN chỉ áp dụng theo phương pháp kiểm kê tài sản và xác định lại theo giá thị trường. Trong đó, giá trị bất đống sản thì không tính giá trị đất (giá trị quyền sử dụng đất) dẫn đến sự chênh lệch giữa giá trị thực và giá trị DN khi CPH, vd: có một DN có xưởng may được định giá 200triệu đồng nếu đem đấu giá mặt bằng đó thì có thể bán được với giá 1.400 triệu đồng (gấp 7lần). Việc xác định tỷ lệ còn lại của nhà xưởng cũng chỉ đánh giá bằng mắt thường mang tính chủ quan, nhiều khi xuất phát từ lợi ích cục bộ của từng thành viên của hội đồng thẩm định.
Ngoài ra, theo quy định cổ phần chủ yếu ưu tiên bán cho những người làm việc trong DN, do đó dẫn đến tình trạng người định giá DN vừa là người bán, đồng thời cũng là người mua cổ phần. Sự lẫn lộn này làm cho việc đánh giá giá trị DN chứa nhiều yếu tố chủ quan, không chính xác.
Cũng do không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN cho nên khi DN bán cổ phần, xuất hiện một nhóm đối tượng bên ngoài có ý định đầu cơ vào kinh doanh bất động sản. Họ chọn mua cổ phiếu của các DN có vị trí thuận lợi không vì mục đích hưởng lợi tức của công ty mà nhằm mục đích chiếm hữu bất động sản đó. Vd: CTCP Tràng Tiền do địa điểm kinh doanh nằm ngay trung tâm cho nên một số người bên ngoài muốn chiếm hữu bất động sản công ty đã mua lại toàn bộ cổ phiếu của người lao động trong công ty với giá rất cao. Kết quả họ đã nắm trong tay khối lượng khá lớn cổ phần của công ty và đòi chi phối công ty, sự việc kéo dài sẽ làm ngưng trệ hoạt động SXKD gây thiệt hại cho công ty.
+ Môi trường kinh doanh của DN sau CPH gặp nhiều khó khăn:
Trước khi CPH DN được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước như: không phải góp vốn, không chịu trách nhiệm khi rủi ro, không phải thế chấp trong vay vốn ngân hàng, được phép giãn nợ, xoá nợ khi gặp rủi ro, được miễn giảm thuế. Sau CPH DN không còn được hưởng các ưu đãi này; gặp khó khăn trong vay vốn, trong xuất nhập khẩu, trong sử dụng đất đai. Chẳng hạn, khi DN muốn chuyển đến khu công nghiệp hoặc bán bớt mặt bằng để đầu tư mới, ngoài việc phải thông qua Hội đồng định giá nhà xưởng để xác định giá khởi điểm đấu giá còn phải hoàn nộp ngân sách khoản chênh lệch giá trị nhà xưởng do bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất; nếu muốn sử dụng tiền này phải trình duyệt đầu tư để xin “vay lại”.
Việc vay vốn ngân hàng của CTCP với số lượng lớn để mở rộng SXKD gặp khó khăn và không được đón tiếp niềm nở như trước đây là DNNN. Ngoài ra cũng không được áp dụng chế độ lãi suất ưu đãi như trước đây. Vì vậy các CTCP gặp rất nhiều bất lợi khi tiến hành phát triển SXKD.
+ Những trở ngại về lao động dôi dư:
Đặc điểm của các DNNN chưa CPH là còn sử dụng nguồn lao động rất lớn và không hợp lý, vd: các công việc như quét dọn, trông xe, bảo vệ, tạp vụcó quá nhiều mà trình độ bộ phận lao động này hầu như là yếu kém, không có trình độ, thiếu năng lực nên khi trở thành CTCP không thể bố trí hết công việc cho nguồn lao động dôi dư này. Họ không làm được việc nhưng vẫn được hưởng lương do yêu cầu của Nhà nước là không được cho nhân viên thôi việc trong năm đầu tiên. Điều này ảnh hưởng tới lợi nhuận chung của công ty, nếu như không phải chi trả tiền lương lao động trong bộ phận này thì đã có thêm vốn đầu tư mở rộng SXKD để thu thêm lợi nhuận cho công ty. Lượng lao động dôi dư này đã trở thành lực cản rất lớn đối với sự phát triển của CTCP.
+ Sự yếu kém của TTCK:
Sau những khoảng thời gian bùng nổ của TTCK thì hiện nay là thời gian mà TTCK đóng băng. Sau hàng loạt các biến động của kinh tế, TTCK thế giới và sự mất ổn định tại TTCK Việt Nam, sự thiếu trách nhiệm, thiếu minh bạch của các công ty khiến nhiều nhà đầu tư mất lòng tin và thay vì đầu tư vào cổ phiếu của các CTCP thì lại bán tống thu tiền về gửi ngân hàng.
Nguyên nhân từ ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6154.doc