MỤC LỤC
Lời nói đầu
Phần I. Khu công nghiệp và điều kiện thúc đẩy đầu tư vào khu công nghiệp
I.1. Quan niệm về khu công nghiệp và vai trò của khu công nghiệp
I.1.1. Quan niệm
I.1.2. Phân loại các khu công nghiệp
I.1.3. Vai trò của các khu công nghiệp.
I.2 . Những điều kiện cần thiết thúc đẩy đầu tư vào khu công nghiệp
I.2.1. Công tác quy hoạch
I.2.2. Chính sách khuyến khích
I.2.3. Hoạt động xúc tiến đầu tư
I.2.4. Phát triển cơ sở hạ tầng
Phần II. Thực trạng đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội
II.1. Đặc điểm của các khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội
II.2 Tình hình đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội
II.3. Đánh giá tình hình đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội
II.4. Những hạn chế về đầu tư vào các khu công nghiệp và nguyên nhân
II.4.1. Hạn chế
II.4.2. Một số nguyên nhân gây cản trở đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội
Phần III. Các Giải pháp thúc đẩy đầu tư vào khu công nghiệp Hà Nội
III.1.Giải pháp từ phía các khu công nghiệp Hà Nội
III.2. Giải pháp từ phía thành phố Hà Nội
III.3 Giải pháp từ phía nhà nước
Kết luận
Danh sách tài liệu tham khảo
36 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy đầu tư vào các khu công nghiệp ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lượng và có hiệu quả kinh tế cao, nuôi trồng nông- lâm – thuỷ sản , sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại mầu,kim loại đặc biệt, phôi thép, sắt, xốp,luyện gang; sản xuất máy móc, thiết bị, cụm chi tiết trong các lĩnh vực; khai thác dầu khí , mỏ , năng lượng; sản xuất thiết bị y tế trong công nghệ phân tích và công nghệ chiết suất trong y học, sản xuất thiết bị kiểm nghiệm độc chất trong thực phẩm; sản xuất vật liệu mới, vật liệu quý hiếm; ứng dụng công nghệ mới về sinh học; công nghệ mới để sản xuất thiết bi thông tin,viễn thông; sản phẩm công nghệ thông tin; công nghệ mới để sản xuất thiết bị thông tin, viễn thông; sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật cao; đầu tư vào nghiên cứu và triển khai chiếm 25% doanh thu, sản xuất thiết bị xử lý chất thải, xửlý ô nhiễm và bảo vệ môi trường, xử lý chất thải......
I.2.4. Phát triển cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng có ý nghĩa hết sức quan trong trong thu hút đầu tư hình thành KCN. Vị trí đặt các khu công nghiệp phải thuận tiện,nhất làgiao thông, gần các sân bay, bến cảng, đường sắt, đường quốc lộ. Trong quá trình phát triển các KCN ở nước ta thời gian qua cho thấy, ở những vị trí rất thuận lợi nhưng do kết cấu hạ tầng kém phát triển dẫn tới không hấp dẫn các nhà đầu tư. Ví du như: cáckhu dọc quốc lộ 18, Sầm Sơn, Cửalò... có rất nhiều khu vực có thể làm cảng nước sâu, song đến nay các đối tác nước ngoài chưa muốn đầu tư vào do kết cấu hạ tầng con rất hạn chế
Bên cạnh phát triển cơ sở hạ tầng còn phải phát triển các trung tâm kinh tế và đô thị xung quanh để giúp cho các KCN có khả năgn phát triển mạnh hơn ,đó là:
Nơi tập trung lao động kỹ thuật có chất lượng cao
Sẵn có những cơ sở công nghiệp hỗ trợ ( về phụ tùng, linh kiện,hoặc bán thành phẩm ...) cho công nghiệp trong KCN
Sẵn có tiện nghi đầy đủ về ăn,ở ( khách sạn), giải trí và giáo dục....
PHẦN II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
II.1. Đặc điểm của các khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Hiện nay hà nội có 5 khu công nghiệp với tổng diện tóch đất quy hoạch là 788 ha, trong đó diện tích đất xây dựng công nghiệp là 597 ha. Đãcó 250/597 ha đãhoàn thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật giai đoạn I, thu hút được 34 dự án đầu tư với tổng số vốn là 345 triệu USD
Khu công nghiệp Sài Đồng B
Khu công nghiệp Sài Đồng B được cấp giáy phép từ 1992 chủ đầu tư là Công ty điện tử Hanel, Hà nội . Tổng diện tích 97 ha, trong đó đất khu công nghiệp là 79 ha và còn lại là khu dân phục vụ cho KCN
- Giá thuê đất có hạ tầng: từ 50-60USD/m2/năm.
- Phí quản lý hạ tầng: từ 0,55-0,8 USD/m2/năm.
- Phương thức thanh toán: từ 2-4 lần/50 năm.
- Đã xây dựng hạ tầng khu công nghiệp: 48,57 ha.
- Đã cho thuê: 48,58 ha (100%), đã có 19 doanh nghiệp vào KCN với tổng số vốn đầu tư là 299.223.320 USD và 6,5 tỷ VNĐ
Các ngành sau đây được khuyến khích đầu tư vào KCN này
Thiết bị và dụng cụ chính xác, điện tử
Dụng cụ quang học
Điện gia dụng
Thiết bị thông tin liên lạc
Thiết bị dụng cụ y tế,dụng cụ thí nghiệm
Các sản phẩm có sử dụng công nghệ cao hoặc sản xuất hàng tiêu dùng không gây ô nhiễm môi trường
Khu công nghiệp Nội Bài
Khu công nghiệp Nội Bài, được thành lập tháng 4/1994. Công ty công nghiệp hà nội liên doanh vớiđối tác nước ngoài là Tập đoàn Renong (Malaixia)
- Giá cho thuê đất có hạ tầng: từ 45-55 USD/m2/năm.
- Phí quản lý hạ tầng: từ 0,8-1 USD/m2/năm
- Phương thức thanh toán: 2 lần/42 năm
- Tổng diện tích: 197 ha.
- Đất khu công nghiệp: 100 ha.
- Đất đã xây dựng hạ tầng khu công nghiệp: 30,5 ha.
- Đã cho thuê: 10,3 ha (38%) ,đã có 6 doanh nghiệp đầu tư vào KCN, tổng số vốnlà 50.764.000 USD
Khu này không hạn chế loại sản phẩm sản xuất tại đây, trừ những mặt hàng nằm trong danh mục nhà nước cấm sản xuất
Khu công nghiệp Thăng Long
- Hình thức đầu tư: Liên doanh giữa Công ty cơ khí Đông Anh và Tập đoàn Sumitomo (Nhật)
- Giá thuê đất có hạ tầng: từ 70-85 USD/m2/năm.
- Phí quản lý hạ tầng: từ 1-1,2 USD/m2/năm.
- Phương thức thanh toán: 1 lần /50 năm
- Tổng diện tích: 121 ha
- Đất đã xây dựng hạ tầng khu công nghiệp: 84,7 ha
- Đã cho thuê: 33 ha (38%) ,đã có 6 doanh nghiệp đầu tư vào KCN, tổng số vốn là 123.350.000 USD
Khu công nghiệp Hà nội - Đài Tư
Khu công nghiệp Hà nội - Đài Tư đựoc cấp giýa phép đầu tư ngày 23/08/ 1995. Đây là dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài của Đài Loan với tổng diện tích là 40 ha.
- Hình thức đầu tư: 100% vốn nước ngoài.
- Giá thuê đất có hạ tầng: từ 60- 65 USD/m2/năm
- Phí quản lý hạ tầng: từ 0,5- 0,8 USD/m2/năm.
- Phương thức thanh toán: 1 lần / 50 năm.
- Đã xây dựng hạ tầng khu công nghiệp: 32 ha.
- Đã cho thuê: 5 ha (15%),đã có 4 doanh nghiệp đầu tư vào KCN, tổng số vốnlà 6.210.000 USD
Khu công nghiệp Daewoo - Hanel (Khu công nghiệp Sài Đồng A).
Khu công nghiệp Daewoo – Hanel được cấp giáy phép ngày 17/06/ 1996. Đây là KCN liên doanh giữacông ty điện tử Hanel và tập đoàn Deawoo , Hàn quốc. Tổng diện tích sử dụng là 407 ha
- Đất đã xây dựng khu công nghiệp: 197 ha.
- Chưa triển khai giải phóng mặt bằng do đối tác nước ngoài gặp khó khăn về vốn.
Bảng 1: Các Khu công nghiệp tập trung trên địa bàn Hà Nội
KCN
Năm thành lập
Địa phương
Hình thức đầu tư
Diện tích
(ha)
Lĩnh vực, ngành nghề đầu tư
Dự án
Vốn đầu tư (tr.USD)
1. KCN Sài Đồng B
1996
Gia Lâm
Việt Nam
97/79
SP điện tử và các ngành không gây ô nhiẽm môi trường
23
299,233
2. KCN Nội Bài
1995
Gia Lâm
Malaysia-Việt Nam
197/100
SP cơ khí, máy móc thuộc địa bàn khuyến khích FDI
6
50,74
3. KCN Hà Nội - Đài Tư
1995
Gia Lâm
Đài Loan
121/84,7
-
4
6,21
4. KCN Daewoo-Hanel
1997
Gia Lâm
Hàn Quốc – Việt Nam
407/197
-
5. KCN Thăng Long
1996
Đông Anh
Nhật Bản – Việt Nam
121/84,7
SP điện, điện tử, viễn thông và tiêu dùng
6
123,35
Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội
II.2 Tình hình đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội
a. Về thu hút vốn đầu tư
(VietNamNet) - Để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp, thời gian qua Ban quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất Hà Nội đã xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư cho năm 2003 và các năm tiếp theo (2003-2005).
Khu công nghiệp tập trung: trong năm 2003 Ban quản lý khu công nghiệp - khu chế xuát đã cấp 02 giấy phép đầu tư mới cho 2 Công ty với tổng vốn đăng ký là 28.117.000 USD, đó là:
+ Công ty TNHH KYOEL Manufaturing Việt Nam vào Khu công nghiệp Nội Bài với tổng vốn đăng ký là 4.850.000 USD, diện tích thuê đất 100.000m2.
+ Công ty TNHH Matsushita Home Appliances Việt Nam vào khu công nghiệp Thăng Long với tổng vốn đầu tư đăng ký là 23.267.000 USD, diện tích thuê đất là 50.000m2.
Cũng có 07 giấy phép điều chỉnh của các Công ty TNHH Volex Việt Nam, Toa Việt Nam, Ohara Plastics Việt Nam, dây thép Kawa Mua, Bút chì Mitsubishi (KCN Thăng Long), Armtrong Việt Nam, United Motor (KCN Nội Bài) với tổng vốn đầu tư tăng thêm 4.527.000 USD.
Khu (cụm) công nghiệp vừa và nhỏ: Tiến độ xây dựng hạ tầng và quỹ đất cho thuê không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước vào đầu tư.
Trong 2003 có 73 dự án đầu tư vào các khu (cụm) công nghiệp vừa và nhỏ với số vốn đăng ký 668,05 tỷ VNĐ, diện tích thuê đất 321.521m2.
Số dự án được cấp giấy phép đầu tư vào các KCN tập trung đến hết tháng 12/2003 là 59 dự án (54 dự án có đầu tư nước ngoài và 5 dự án có vốn đầu tư trong nước). Trong đó:
- 31 dự án đã đi vào sản xuất tháng đầu năm 2003.
- 16 dự án đang triển khai.
- 12 dự án chưa triển khai.
Các khu (cụm) công nghiệp đã có 22 doanh nghiệp đi vào hoạt động.
Doanh thu từ các doanh nghiệp trong KCN tập trung trong năm 2003 đạt 22,9 triệu USD
- Nộp thuế ước đạt 8,5 triệu USD
Một số doanh nghiệp vẫn duy trì sản xuất ổn định và tăng trưởng khá so với năm 2002 đó là: Công ty Cannon Việt Nam (gấp 59 lần), Công ty Sumi Hanel (+28%), Daewoo Hanel (+7%), Orion Hà Nội kim loại (+5%)...
Bên cạnh đó cũng có một vài doanh nghiệp có biểu hiện chững lại do thu hẹp về thị trường tiêu thụ và mặt hàng sản xuất như: Công ty TNHH đèn hình Orion Hanel (-22%), sản phẩm thép Việt Nam (-11%)...
Trong năm 2003, Ban quản lý KCN - KCX Hà Nội đã phê duyệt 177 giấy phép nhập khẩu với trị giá 417.914.150 USD. Trong đó:
- Tổng giá trị xuất khẩu: 166.461.312 USD (tăng 138% so với năm 2002).
- Tổng giá trị nhập khẩu: 216.743.668 USD (tăng 127% so với năm 2002).
Cùng với việc mở rộng và phát triển cả về quy mô, vốn đầu tư, các KCN trên địa bàn thành phố đã tạo việc làm mới cho 11.833 người (tăng 85,18% so với năm 2002). Trong đó, lao động trong nước là 11.593 người (tăng 89% so với năm 2002); lao động nước ngoài có 240 người tăng (25% so với năm 2002).
Đến nay Ban quản lý đã ra quyết định thừa nhận nội quy lao động cho 16 doanh nghiệp, đang hướng dẫn và chuẩn bị ra quyết định cho 6 Công ty về nội quy lao động; 5 doanh nghiệp đã có quyết định thừa nhận thỏa ước lao động tập thể. Trong các KCN đã có 15 công đoàn cơ sở với tổng số 7.142 đoàn viên.
Trong những năm tới bên cạnh việc tăng cường công tác xúc tiến đầu tư để thu hút các nhà đầu tư vào các KCN của Hà Nôi, ban quản lý các KCN - KCX thành phố sẽ tập trung giải quyết dứt điểm các vấn đề tồn tại của các KCN tập trung, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn.
Đồng thời có những giải pháp để phát triển các khu (cụm) công nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm nhu cầu về mặt bằng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước.
Ban quản lý các KCN - KCX Hà Nội cũng đang nghiên cứu, áp dụng đề tài ISO 9000-2000 vào hoạt động Ban quản lý; Hoàn chỉnh các quy chế, quy định về quản lý theo cơ chế “một cửa, tại chỗ”, công khai và đơn giản hóa các thủ tục hành chính về tiếp nhận và giải quýet các yêu cầu của các nhà đầu tư, đảm bảo nhanh chóng, đúng quy định.
Từ đầu năm 2004 đến nay, các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp Hà Nội đã đưa 9 dự án đi vào hoạt động, bước đầu đã phát huy hiệu quả kinh tế.
Có 6 dự án với tổng mức đầu tư là 18 doanh nghiệp chuyển tiếp từ trước năm 2003 sang. Trong tổng số 13 dự án và hạng mục đầu tư với tổng số vốn đầu tư 215,49 tỷ đồng, được các doanh nghiệp lập trong 6 tháng đầu năm nay, đã có 3 dự án đi vào hoạt động (Vietnam Economy).
Danh mục một số dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
của thủ đô Hà Nội giai đoạn 2003 - 2010 Nguồn: Toàn cảnh kinh tế việt nam , NXB chính trị quốc gia, trang 353
TT
Tên dự án
Sản phẩm
Vốn đầu tư
( triệu USD)
Diện tích đất
(m2)
1
Sản xuất thiết bị nông nghiệp
Máy nông nghiệp
16
30.000
2
Sản xuất phân bón từ rác thải
Phân bón
12
200.000
3
Chế biến rác thành VLXD
VLXD
37
100.000
4
Chế biến rác thành điện năng
Điện
28
12.000
5
Sản xuất phụ tùng ôtô
Phụ tùng ô tô
30
20.000
6
Sản xuất lốp ô tô,xe máy
lốp ô tô,
30
20000
7
Sản xuất linh kiện xe máy sử dụng công nghệ cao
Phụ tùng xe máy
40
8
Sản xuất lắp ráp máy tính
Máy tính các loại
12
15.000
9
Sản xuất máy ảnh điện tử
Máy ảnh kỹ thuật số
15
15.000
10
Sản xuất thiết bị xử lý chất thải
Thiết bị xử lý chất thải
20
20.000
11
Xử lý rácthải công nghiệp
Rác công nghiệp
50
40.000
12
Sản xuất lắp ráp máy thi công xây dựng
Máy thi công xây dựng
15
30.000
13
Sản xuất lắp ráp ôtô chuyên dùng
Xe chuyên dụng cho các ngành
30
35.000
14
Sản xuất thiết bị y tế
Thiết bị y tế
12
20.000
15
Sản xuất vác xin công nghệ gien
Vắc xin
3
5.000
16
Trung tâm nghiên cứu công nghệ sinh học quốc tế
Trung tâm nghiên cứu
2
5.000
17
Sản xuất thiết bị và lắp ráp cáp treo
Cáp treo
10
20.000
18
Lắp ráp điều hoà không khí
Máy điều hoà
5
8.000
19
Sản xuấtlinh kiện công nghệ tin học, viễn thông
Linh kiện điện tử tin học viễn thông
8
5.000
20
Sản xuất các thiếy bị của truyền hình số nhiều chức năng
Truyền hình kỹ thuật số
10
10.000
21
Đồng hồ đỗ xe công cộng
đồng hồ
9
10.000
22
Sản xuất thiếtbị điện tử cảnh báo ( an ninh)
Thiết bị bảo vệ
4
8.000
23
Sản xuất thiết bị xử lý nước thải
Thiết bị xử lý nước thri
6
15.000
24
Nhập chế biến gỗ xuất khẩu
Sản phẩm gỗ
4
30.000
25
Lắp đặt truyền hình cáp
Truyền hình cáp
25
25.000
b. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Một số KCN đi vào hoạt động đã mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất là KCN Sài Đồng B, trong đó có 5 doanh nghiệp liên doanh với Hanel đạt 240 triệu USD, còn 3 doanh nghiệp có vốn đầu tư 100% của nước ngoài. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu CN đã đóng góp thiết thực làm tăng tỷ trọng CN trong GDP của thành phố. Công nghiệp Hà nội chiếm 10% GDP của cả nước và 32% GDP của Hà Nôi. Khu CN đã thực sự là nơi tiếp cận công nghiệp hiện đại, phương pháp tổ chức quản lý tiên tiến và cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, là yếu tố quan trọng vừa thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế, vừa nâng cao sức cạnh tranh của CN Hà Nội. Theo thống kê mới nhất từ ban quản lý KCN & CX Hà Nội đến nay đã xét duyệt 30 giấy phép nhập khẩu, 40 giấy chứng nhận xuất khẩu, đưa tổng giá trị xuất khẩu ủca doanh nghiệp đạt 155.021.590 USD, giá trị nhập khẩu 202.126.752 USD. Các mặt hàng xuất khẩu như đèn hình màu, sáng điện tử, ti vi màu, tủ lạnh, biến áp, dây dẫn cho ô tô, ba lô, túi sách. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, vật tư xây dựng cơ bản, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất v.v...
c. Về tình hình đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng cho doanh nghiệp.
Hiện nay, việc xây dựng cơ sở hạ tầng của cả 5 khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội đều do Công ty phát triển cơ sở hạ tàng KCN thực hiện. Việc huy động vốn của các Công ty này tùy thuộc vào từng KCN. Có thể là liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài như các KCN Nội Bài, Daewoo - Hanel, Thăng Long, cũng có thể là 100% vốn của nước ngoài như KCN Hà Nội - Đài Tư. Cho đến nay chỉ có Công ty phát triển cơ sở hạ tầng KCN Sài Đồng B hoạt động tương đối hiệu quả với hình thức huy động nguồn vốn hoàn toàn trong nước. Do hạn chế về nguồn vốn nên phương châm của Công ty là thực hiện xây dựng theo hình thức “cuốn chiếu”, vừa xây dựng cơ sở hạ tầng, vừa cho thực tế lấy vốn tái đầu tư tiếp. Với phương châm nà, Công ty đã thu được kết quả khá khả quan. Trong khi đó 4 KCN còn lại đều có sự tham gia góp vốn của phía nước ngoài nhưng kết quả lại ít khả quan hơn với nhiều lý do có cơ sở hạ tầng tương đối tối nhưng vẫn còn một số vấn đề chưa thống nhất với thành phố như chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu định cư mới v.v... Còn KCN Hà Nội - Đài Tư 100% vốn của Đài Loan lại có tốc độ triển khai chậm. KCN này được cấp giấy phép từ năm 1995 nhưng phải đến năm 1997 mới giải phóng xong mặt bằng và hiện đang gặp nhiều khó khăn về thủ tục đầu tư do chưa hiểu rõ môi trường đầu tư tại Việt Nam.
d. Về đối tác của các dự án đầu tư vào KCN
Một điều đặc biêt ở đây là trong tổng số 33 dự án đã được cấp giấy phép đầu tư vào các KCN ở Hà Nội lại không có một dự án nào 100% vốn trong nước. Toàn bộ các dự án được cấp giấy phép hệin nay chỉ là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư này chủ yếu đến từ các quốc gia ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia... Trong khi đó, các nhà đầu tư ở các nước phát triển có nền công nghiệp hiện đại vẫn chưa có mặt tại các KCN này. Vì vậy chúng ta cần phải có những biện pháp hỗ trợ và ưu đãi đối với các doanh nghiệp trong nước, tăng cường thu hút đầu tư tại các nước đang phát triển.
II.3. Đánh giá tình hình đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội
Có thể đánh giá tình hình đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội như sau:
- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung và công nghiệp của thủ đô nói riêng, cho dù mới chỉ có 14 dự án đi vào hoạt động nhưng đã đạt doanh thu khoảng 140 triệu USD, chiếm trên 30% giá trị sản xuất của khu vực có vốn FDI trên địa bàn Hà Nội. Ngoài ra các khu công nghiệp còn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các vùng nông thôn, ngoại thành của thủ đô. Sự ra đời của các khu công nghiệp ở Hà Nội đã đáp ứng được nhu cầu an cư lạc nghiệp cho các doanh nghiệp cùng các chính sách đầu tư hấp dẫn, thủ tục nhanh chóng nên đã thu hút được nhiều dự án, đóng góp tích cực cho kinh tế của thủ đô.
- Góp phần phát triển mặt hàng, mở rộng thị trường, thúc đẩy phát triển ngoại thương. Hàng hóa được sản xuất trong các khu công nghiệp tại Hà Nội đạt chất lượng cao không chỉ đáp ứng được yêu cầu của khách hàng trong nước, mà còn thâm nhập vào một số thị trường khó tính như Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ. Với 14 trong tổng số 3361 doanh nghiệp của cả Hà Nội nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu của nó không ngừng tăng và luôn chiếm tỷ trọng cao. Năm 1998, kim ngạch xuất khẩu là 93,9 triệu USD (chiếm 30,6%) thì năm 1999 đạt 107,5 triệu USD (chiếm 35,7%) và chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2000 đạt 165,4 triệu USD chiếm (35,7%).
- Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực nông thôn, giải quyết việc làm cho người lao động. Do hầu hết các khu công nghiệp đều nằm ở khu vực ngoại thành nên nó không chỉ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực này, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người lao động mà còn phá vỡ tính khép kín của làng, xã, nâng cao trình độ dân trí cho người dân ở địa phương và làm giảm bớt được sự cách biệt với các khu vực khác. Ngoài ra các khu công nghiệp tại Hà Nội đã tạo ra khoảng 3.800 chỗ làm việc trực tiếp và hàng chục ngàn việc làm gián tiếp khác.
- Hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, tăng cường hoạt động chuyển giao công nghệ góp phần thực hiện CNH - HĐH thủ đô. Các nhóm ngành hàng phải kể đến là các nhóm mặt hàng cao cấp, bao gồm đèn hình màu, súng điện tử, ti vi màu, tủ lạnh, máy ảnh, máy trắc địa... Nhóm hàng phục vụ dân dụng gồm ba lô, túi sách, sản phẩm sơn mài... và nhóm hàng thay thế nhập khẩu bao gồm bao bì các tông phục vụ cho đóng gói xuất khẩu.
- Đã có nhiều dự án xin mở rộng quy mô sản xuất như công ty Orvon - Hanel, Zamil Steel, Daewoo - Hanel và Công ty công nghiệp Tân Á.
- Ngoài ra, các khu công nghiệp ở Hà Nội còn tạo lập được một số cơ sở hạ tầng hiện đại, tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa, phát triển kinh tế vùng, đóng góp cho phát triển chung của cả nước.
II.4. Những hạn chế về đầu tư vào các khu công nghiệp và nguyên nhân
II.4.1. Hạn chế
Cơ chế chính sách để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ và linh hoạt. Chính sách về giá thuê đất và các ưu đãi đầu tư khác trong khu công nghiệp đang là bài toàn khó để vận dụng triển khai cụ thể theo luật khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đã được Quốc hội sửa đổi. Hơn nữa, chúng ta thiếu vốn trong việc xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp. Với cơ chế hiện hành, vốn trong nước cho xây dựng hạ tầng khu công nghiệp chủ yếu từ ngân sách Nhà nước. Mỗi dự án khu công nghiệp lại phải thành lập một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp đảm nhận quản lý vốn ngân sách cấp.
Trong khi đó các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế khác muốn góp vốn đầu tư vào hạ tầng khu công nghiệp và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp thì cơ chế lại chưa cho phép. Hiện tượng “khoán trắng” hoặc thiếu giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý doanh nghiệp đối với giải quyết chi phí đền bù và xây dựng hạ tầng của các công ty xây dựng hạ tầng khu công nghiệp đã chi phí giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng lên cao dẫn đến mức giá cho thuê đất gồm cả chi phí hạ tầng còn quá cao 5USD/m. Trong khi các khu công nghiệp ở các nơi khác chỉ bằng 30% so với ở Hà Nội.
Một trong những tồn tại nữa là Ban quản lý khu công nghiệp ở Hà Nội và Sở công nghiệp Hà Nội chưa có các biện pháp giới thiệu, tiếp thị, thu hút vốn đầu tư, chưa có những chính sách đãi ngộ hợp lý đối với các doanh nghiệp do đó đã hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp, nhát là các doanh nghiệp trong nước. VD như các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào khu công nghiệp đều phải đáp ứng các điều kiện như nhau, nhưng các doanh nghiệp nước ngoài lại được ưu tiên hơn thuế lợi tức so với các doanh nghiệp trong nước.
Việc phát triển các khu công nghiệp của Hà Nội trong thời gian qua đã tạo ra mạng lưới vệ tinh thúc đẩy kinh tế của Hà Nội và các vùng lân cận phát triển. Tuy nhiên việc phát triển đó chưa tương xứng với khả năng hiện thực, chưa thể hiện hết tiềm năng của các khu công nghiệp. Công tác quy hoạch phát triển khu công nghiệp chưa đáp ứng được tổ chức phân bổ lực lượng sản xuất, chưa sát với điều kiện thực tế và chưa theo kịp với nhu cầu phát triển. Tổ chức quản lý chưa thống nhất, chức năng hỗ trợ còn yếu. Cơ chế quản lý tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn chồng chéo, thủ tục phức tạp. Các giải pháp đền bù giải phóng mặt bằng chậm trễ, làm cho thời gian xây dựng kéo dài. Các công trình kết cấu hạ tầng gây thiệt hại cho chủ đầu tư phát triển hạ tầng và bỏ lỡ cơ hội thu hút đầu tư.
Công tác tiếp thị vận động đầu tư chưa được chú trọng nên việc phát huy tác dụng của khu công nghiệp còn hạn chế. Việc cung cấp lao động có tay nghề còn thấp xa so với nhu cầu. Bên cạnh tình trạng thể chế thiếu đồng bộ điều đáng chú ý hơn là việc thực hiện pháp luật chưa nghiêm, giữa ý tưởng của pháp luật và việc thực thi pháp luật còn khoảng cách lớn.
Vậy nguyên nhân sâu xa của việc phát triển chậm trễ này là do đâu?
II.4.2. Một số nguyên nhân gây cản trở đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội
Theo kết quả khảo sát mới đây của Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất Hà Nội, có tới 68,7% doanh nghiệp được hỏi đều trả lời là đang gặp phải nhiều khó khăn về mặt bằng sản xuất, kinh doanh.
Lý do các doanh nghiệp chưa tìm đến với các khu chế xuất để thuê lại đất là do hầu hết các chủ doanh nghiệp dân doanh đều cho rằng việc thuê lại đất trong các khu công nghiệp còn là điều xa xỉ đối với họ. Ngoài ra không phải các doanh nghiệp không muốn vào các khu công nghiệp, nơi có đầy đủ các điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp không muốn lo đến chuyện đảm bảo môi trường cho người dân sống xung quanh mà do qu mô sản xuất và doanh nghiệp còn nhỏ, khả năng về tài chính còn hạn chế, nền đành tận dụng mặt bằng sẵn có. Một trong những nguyên nhân nữa là các ưu đãi về giá thuê đất trong các khu công nghiệp chưa đến được với doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, giá thuê đất trong các khu công nghiệp do chủ đầu tư cơ sở hạ tầng và doanh nghiệp xin thuê lại đất tự thỏa thuận trong hợp đồng. Điều này có nghĩa là, khi Nhà nước giảm giá cho thuê đất trong khu công nghiệp thì người được hưởng đầu tiên là chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. Còn sau đó, việc giảm hay không giá thuê lại đất cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp là quyền của các chủ đầu tư.
Mọi vấn đề khác là việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn quá chậm chạp. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hầu hết các doanh nghiệp hiện hành, doanh nghiệp được phép dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để góp vốn đầu tư hoặc thế chấp tại ngân hàng để vay. Tuy nhiên, cho đến nay hầu hết các doanh nghiệp vào thuê lại đất trong các khu công nghiệp sau khi đã bỏ ra nhiều vốn để đầu tư cơ sở vật chất cho sản xuất kinh doanh, vẫn đang phải dài hơi đợi được cấp sổ đỏ để thế chấp vay vốn từ ngân hàng.
* Việc tạo nguồn lao động cho các doanh nghiệp khu công nghiệp thường bị động do chưa đảm bảo chất lượng, trừ khu công nghiệp Sài Đồng B hình thành hẳn một trung tâm đào tạo lao động thì hầu hết các khu công nghiệp khác đều chưa có kế hoạch đầo tạo nguồn nhân lực để cung cấp cho các doanh nghiệp. Hơn nữa từ phía thành phố Hà Nội cũng chưa có những biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực do đó các khu công nghệp trình độ công nghiệp có tay nghề kỹ thuật, văn hóa thấp chủ yếu mới chỉ là tốt nghiệp trung bình.
* Sự thiếu kinh nghiệm trong quản lý các khu công nghiệp làm giảm hiệu quả hoạt động của nó
* Chính sách đối xử đối với doanh nghiệp khu công nghiệp chưa công bằng, đã hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư của doanh nghiệp trong nước. VD như các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào khu công nghiệp đều phải đáp ứng những điều kiện như nhau, nhưng các doanh nghiệp nước ngoài nên được ưu tiên hơn về thuế lợi tức so với các doanh nghiệp trong nước.
* Do giá thuê đất tại các khu công nghiệp này còn cao hơn các địa phương khác nên chưa nhận được sự hưởng ứng của các nhà đầu tư, đặc biêt là các nhà đầu tư trong nước. Ngoài ra, nhiều địa phương còn miễn giảm tiền thue đất, hoặc cho phép thanh toán tiền chậm hoặc miễn phí quản lý v.v... Còn đối với các khu công nghiệp tại Hà Nôi, tiền thuê đất chỉ được thanh toán kèm 1 hoặc 2 lần.
PHẦN III
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ VÀO KHU CÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI
III.1.Giải pháp từ phía các khu công nghiệp Hà Nội
(1) Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý khu công nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, có thể cán bộ quản lý sang các địa phương khác, thậm chí ra nước ngoài để học tập và tích luỹ kinh nghiệm.
(2) Chủ động tạo nguồn lao động cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, bằng cách mở các lớp đào tạo huấn luyện tay nghề cho lao động địa phương, đảm bảo cung cấp lao động có chất lượng cho các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp mới yên tânm đầu tư vào các khu công nghiệp.
(3) Tranh thủ các mối quan hệ của các doanh nghiệp hiện có để thu hút thêm các dự án khác… Để đạt được điều đó, trước tiên các khu công nghiệp phải cung cấp những điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BCTV1103.doc