Lời mở đầu 1
Chương 1: Lý luận chung về thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang 3
thị trường châu âu
1.1 Tầm quan trọng của xuất khẩu thủy sản với nền kinh tế quốc dân 3
1.2 Đặc điểm thị trường châu âu 4
1.2.1 Giới thiệu khái quát về kinh tế, xã hội các nước châu âu 4
1.2.2 Đặc điểm thị trường tiêu thụ thủy sản châu âu 7
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tơi xuất khẩu thủy sản 12
1.3.1 Các nhân tố bên trong 12
1.3.2 Các nhân tố bên ngoài 13
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường châu âu 15
2.1 Thực trạng về xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 15
2.1.1 Thực trạng về tăng trưởng của ngành thủy sản 18
2.1.2 Tình hình về xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam 22
2.2 Thực trạng về xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường châu âu 23
2.3 Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường châu âu 28
2.3.1 Thuận lợi 28
2.3.2 Khó khăn 29
Chương 3: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang thị trường 31
châu âu
3.1 Triển vọng phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 31
3.1.1 Những cơ hội đối với ngành thủy sản 31
3.1.2 Những thách thức đối với ngành thủy sản 33
3.1.3 Những định hướng xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 34
3.2 Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU 36
3.2.1 Các giải pháp vĩ mô 36
3.2.2 Các giải pháp vi mô 39
3.3 Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường SNG 42
3.3.1 Các giải pháp vĩ mô 42
3.3.2 Các giải pháp vi mô 43
Kết luận 45
Danh mục tài liệu tham khảo 46
51 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy xuất khẩu thủy sản vào thị trường Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong số ít các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vượt qua được con số 1 tỷ USD và có tốc độ phát triển vượt bậc so với năm trước ( tới 52,5%). Đến năm 2002, kim ngạch của ngành đã đạt tới cột mốc hơn 2 tỷ USD bằng tổng giá trị kim ngạch của giai đoạn 1980-1995 . Tiếp theo những bước tăng trưởng khá cao đó năm 2006 thì kim ngạch ngành thủy sản đã vượt qua con số 3 tỷ USD (chính xác đạt 3,3579 tỷ USD) và trong năm 2007 con số này là 3.8 tỷ USD. Dự báo đến năm 2008 con số này sẽ vượt ngưỡng 4 tỷ USD. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì thủy sản luôn duy trì được vị trí của mình (thứ tư sau dầu thô, giày dép, quần áo) và đóng góp lớn vào sự phát triển của kinh tế nước nhà. Và cũng trong giai đoạn từ năm 1992 đến nay vị trí của ngành thủy sản đã được cải thiện đáng kể trên trường quốc tế từ không đáng kể năm 1992 đã vươn lên đứng thứ 8 năm 2002. Cũng trong gian đoạn từ năm 2003 trở lại đây, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam luôn gặp phải những rào cản và khó khăn lớn, điển hình là các vụ kiện hàng thủy sản Việt Nam bán phá giá ở thị trường Mỹ nhưng ngành thủy sản vẫn đạt được tốc độ phát triển ( như bảng 5) thì đó là một điều hết sức đáng khen ngợi.
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Năm
Sản lượng xuất khẩu thủy sản
(1000 tấn)
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản (triệu USD)
Tỷ lệ tăng trưởng về kim ngạch so với năm trước (%)
1996
150,52
670.000
-
1997
206,39
776.000
15,82
1998
200,55
858.600
10,64
1999
229,96
971.120
13,1
2000
291,92
1.478.609
52,26
2001
358,83
1.777.485
20,21
2002
444,04
2.014.000
13,31
2003
458,5
2.199.577
9,21
2004
518,747
2.400.781
9,15
2005
634,499
2.738.726
14,08
2006
821,679
3.357.960
22,61
2007
3.800.000
13,2
Nguồn: Tổng hợp từ tình hình xuất khẩu thủy sản các năm của Việt Nam
*) Cơ cấu các mặt hàng thủy sản của Việt Nam
Trong nhiều năm qua, bên cạnh kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trưởng khá cao thì cơ cấu về các mặt hàng xuất khẩu thủy sản cũng có những thay đổi đáng kể. Đến nay mặc dù xuất khẩu tôm vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xuất khẩu thủy sản nhưng tỷ trọng đã giảm đi đáng kể nhường chỗ cho sự vươn lên của xuất khẩu cá, mực, bạch tuộc và các sản phẩm thủy sản khác.
Mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là tôm. Trong nhiều năm liên tiếp tom luôn giữ vị trí đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu trong xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Nếu như năm 1986, xuất khẩu tôm chiếm tới 64% kim ngạch xuất khẩu thì đến giai đoạn hiện nay mặc dù xuất khẩu tôm vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng đã có những thay đổi đáng kể. Năm 2001, tỷ trọng tôm trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản là 43,8%, năm 2003 là 48,1% thì đến năm 2005 con số này là 49,7% và năm 2006 là 39,8%.
Mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai là cá. Năm 1986, xuất khẩu cá đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu gần như là con số không. Nhưng những năm gần đây thì sản lượng cá xuất khẩu tăng khá mạnh và tỷ trọng đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu là khá lớn. Năm 1998 là 11,4%, năm 2002 là 21,7%, năm 2004 là 22,8%, năm 2005 là 20,27%. Riêng việc xuất khẩu cá tra, cá basa đang có xu hướng phát triển mạnh.
Tiếp theo là mực và bạch tuộc. Sản lượng khai thác ở mức thấp. Trong năm 2005 đạt kim ngạch xuất khẩu là 182253 triệu USD chiếm khoảng 7% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
Tiếp theo là các mặt hàng khô ( như mực khô, tôm khô, cá khô) chiếm khoảng 5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 và đến năm 2006 con số này là 5,2 %. Như vậy mặt hàng này có tốc độ phát triển chậm dần và có xu hướng giảm trong những năm sắp tới.
Bảng 6: Giá trị xuất khẩu của các mặt hàng thủy sản chính
Mặt hàng
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tôm
761,5
966,7
1058
1261
1371,556
1460,59
Cá
310,1
462,8
466,5
552,4
687,659
1145,09
Mực và bạch tuộc
118,4
142,8
113,9
162,5
182,253
222,19
Hàng khô
188,5
138,3
73,7
101,9
130,354
142,2
Thủy sản khác
379
312,2
504,4
323
367,178
378,23
Nguồn: Tạp chí thương mại thủy sản VASEP- Bộ thủy sản
*) Cơ cấu về thị trường xuất khẩu thủy sản
Nếu như trước đây thị trường xuất khẩu thủy sản của nước ta còn hết sức hạn hẹp thì giờ đây thủy sản của Việt Nam đã xuất hiện ở hầu hết các vùng và lãnh thổ trên thế giới, trong đó riêng 3 thị trường chính là EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản đã chiếm tới khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2005 và đến năm 2006 con số này là 66,4%.
Trong đó đứng đầu là thị trường Nhật Bản. Trong những năm của thập kỷ 90 Nhật Bản luôn là nước nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới khoảng hơn 50% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Nhưng đến những năm đầu của thiên niên kỷ mới, do kinh tế suy thoái cho nên Nhật Bản đã phải nhường lại vị trí đứng đầu cho Hoa Kỳ (từ năm 2001-2004). Bắt đầu từ năm 2005 Nhật Bản đã lấy lại vị thế của mình với kim ngạch hàng năm là 823,953603 triệu USD năm 2005 và đến năm 2006 co số này là 842,613677 triệu USD.
Thị trường tiếp theo đó là thị trường Hoa Kỳ. Hoa Kỳ được xem là một trong những thị trường mới của ngành thủy sản tuy nhiên thị trường này đã có những bước phát triển rất đáng kể. Đặc biệt giai đoạn 2001-2004, Hoa Kỳ trở thành thị trường tiêu thụ thủy sản lớn nhất của nước ta do đây là thị trường có sức tiêu thụ lớn và không quá khắt khe về chất lượng như các thị trường lớn khác như Nhật và EU. Chính vì vậy các doanh nghiệp của Việt Nam coi đây là thị trường hàng đầu.Tuy nhiên đến năm trong những năm gần đây các sản phẩm thủy sản của Việt Nam bị kiện do bán phá giá ở Mỹ do đó tốc độ tăng trưởng ở thị trường này bị suy giảm.
Thị trường lớn thứ ba là thị trường EU. Đâylà một thị trường có tiềm năng rất lớn về nhu cầu cũng như có mức sống của người dân vào loại cao nhất của thế giới. Tuy nhiên do những đòi hổi hết sức khắt khe về tiêu chuản cũng như an toàn vệ sinh thực phẩm mà trước đây thủy sản của Việt Nam không thể xân nhập thị trường này. Mãi đến năm 1996, thủy sản Việt Nam mới có cơ hội vào thị trường này nhờ sợ giúp đỡ của Đan mạch và từ đó đã có những bước phát triển đáng kể. Đến năm 2005, kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào EU đạt 441,371591 triệu USD đứng chiếm 16,13% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2006 con số này đã đạt tới 723,504870 triệu USD chiếm 21,54% và vươn lên đứng thứ hai trong số các thị trường xuất khẩu lớn nhất của thủy sản Việt Nam (sauu Nhật Bản). Nhưng theo dự báo trong những năm tới EU sẽ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của thủy sản Việt Nam do EU vẫn tiếp tục được mở rộng, tiếp nạp nhiều thành viên mới do đó những con số như hiện nay chưa phản ánh hết nhu cầu của khu vực này.
Bảng 7: Các thị trường xuất khẩu của thủy sản Việt Nam
Thị trường
2005
2006
8 tháng đầu
2007
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Số lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Nhật Bản
129284,6
823953603
123889,1
842613677
64351,2
396233096
EU
132350,2
441371591
219967
723504870
162139,2
527872801
Hoa Kỳ
92859,1
644145629
98824,3
664195527
56240,6
413589217
Châu á (trừ Nhật, ASEAN)
166771,3
442382451
176160,6
493798680
111860,5
340631907
Châu Âu (trừ EU)
18554,7
60446290
73921
174208547
46181,3
118471273
ASEAN
49195,1
125151126
60295,7
150887101
39487,8
108108489
Châu Mỹ (trừ Mỹ)
20645,2
92688315
28661,8
124374152
20809,2
86043658
Châu Đại Dương
23185,7
102352844
25849,6
133583406
13146,8
68820191
Châu Phi
1653,7
4373457
3941,7
9220726
4993,2
13735902
Nguồn:www.fistenet.gov.
2.2 Thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường châu âu
*) Đối với thị trường EU:
Từ năm 1980, thủy sản của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường và ngay khi xuất hiện đã tạo được những ấn tượng tốt với người tiêu dùng EU. Đây là một thị trường rộng lớn có tiềm năng phát triển rất cao song lại có đòi hỏi rất cao về an toàn vệ sinh thực phẩm, mà công nghệ Việt Nam ở thời kỳ những năm đầu thập kỷ 90 lại lạc hậu cũ kỹ không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường nàycho nên kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào thị trường nay trong thời kỹ đó là không cao. Nhưng nhờ quá trình đổi mới thiết bị cũng như quan tâm hơn đến việc giám sát dư lượng kháng sinh có hại mà đến tháng 11/1999, Việt Nam đã được công nhận vào danh sách 1 (list A) các nước xuất khẩu thủy sản vào EU, sản phẩm được công nhận về pháp lý để khẳng định chỗ đứng trên thị trường EU và đến tháng 01/ 01/ 2006 đã có 171 doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam được cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất khẩu sang thị trường EU. Từ năm 1996 -1999, kin ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tăng với tốc độ trung bình vào khoảng 54,92%/ năm. Trong đó năm 1996 kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 26,9 triệu USD, năm 1997 là 65 triệu USD, năm 1998 là 92,5 triệu USD. Đến năm 1999 kim ngạch xuất khẩu thủy sản giảm xuống còn 89,1 triệu USD do EU tăng yêu cầu đòi hỏi về an toàn vệ sinh thực phẩm với các mặt hàng thủy sản xuất khẩu. Tuy nhiên nhờ sự nỗ lực của mình mà kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã tăng trưởng trở lại. Đến năm 2003 con số này đã là 116,7 triệu USD, đến năm 2005 thì con số này đã dạt tới 441,37 triệu USD, năm 2006 là 723,5 triệu USD và đến năm 2007 thì kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU đạt 920 triệu USD tăng 27% so với năm 2006 (đứng thứ hai thế giới sau Mỹ 1,1 tỷ USD). Thủy sản cũng là mặt hàng xuất khẩu nhiều thứ tư của Việt Nam vào thị trường EU. Tuy có những bước phát triển nhanh chóng như vậy song cho đến nay thì tỷ trọng thủy sản xuất khẩu vào EU của Việt Nam chỉ chiếm có 0,3 - 0,4% giá trị xuất khẩu thủy sản sang thị trường này.
Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Kim ngạch
(tr USD)
71,8
90,7
73,7
116,7
231,5
441,37
723,50
Khối lượng
(tấn)
20290,8
26659,1
28612,8
38186,8
73459,2
123350,2
219967
Nguồn: Trung tâm tin học-bộ thủy sản
Sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam bao gồm cá, tôm, cá ngừ, bạch tuộc, mực và đồ hộp. Mặt hàng thủy sản đầu tiên là tôm đông lạnh. Kim ngạch xuất khẩu tôm đông lạnh của Việt Nam sang thị trường EU năm 2000 đạt 38,6 triệu USD, năm 2001 là 43,6 triệu USD nhưng đến năm 2002 kim ngạch chỉ còn 15,7 triệu USD. Nguyên nhân chủ yếu là do EU thự hiện chính sách bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng quy định dư lượng kháng sinh bằng không hay chính xác là dưới 0,3 phần tỷ. Đây có thể coi là một yêu sách vô lý của EU. Thời gian tiếp theo thì xuất khẩu tôm đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại. Năm 2003 Việt Nam đã xuất khẩu sang EU khoảng 5316 tấn tôm tăng 28% so với năm 2002 và đến năm 2004 thì tôm Việt Nam có xu hướng xâm nhập vào các thị trường mới tại EU. Cá đông lạnh cũng có xu hướng tăng xuất khẩu sang thị trường EU. Năm 2003 xuất khẩu cá sang thị trường này đã vượt qua tôm cả về khối lượng lẫn giá tri, vươn lên đứng thứ hai chỉ sau xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ (141 triệu USD) và chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu cá của Việt Nam (552 triệu USD). Năm 2004 xuất khẩu cá sang thị trường EU đạt 231,5 triệu USD chiếm gần 50% giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này.
Về các thị trường xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam trong năm 2005 thì Bỉ là nước có tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất chiếm tới 18% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU. Kế đến là Đức (16%), Italia(15%), Tây Ban Nha (12%), Hà Lan (10%), Anh và Pháp (9% mỗi nước), Ba Lan (3%), Bồ Đào Nha (2%), Đan Mạch và Hy Lạp (1% mỗi nước).
+) Bỉ là bạn hàng số một của Việt Nam tại thị trường EU. Trong những năm đầu thiên niên kỷ mới mặc dù kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Bỉ có giảm do những rào cản về kỹ thuật song đến năm 2005 thì xuất khẩu thủy sản sang Bỉ đạt 19,5 nghìn tấn (đứng thứ tư EU), và đạt giá trị 76,48 triệu USD (cao nhất EU). Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Bỉ bao gồm tôm, ghẹ, cá đông lạnh trong đó nhập khẩu tôm đứng đầu Eu cả về khối lượng và giá trị .
+) Đức là thị trường lớn thứ hai đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong thị trường EU. Năm 2005 xuất khẩu sang Đức đạt 19,9 nghìn tấn và đạt giá trị 67,8 triệu USD trong đó cá đông lạnh đạt 39,45 triệu USD ( cá tra chiếm 57% đạt giá trị 22,6 triệu USD) đứng thứ hai trong các nước nhập khẩu mặt hàng này của EU, tôm đông lạnh đạt 23,47 triệu USD, là thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn thứ hai ở EU với 4,5 triệu USD. Trong 11 thánh đầu năm 2006 kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường này là 91,5 triệu USD và 25 nghìn tấn. Hiện nhu cầu lớn nhất ở Đức là cá hồi, cá tra, cá Pôlắc Alaska
+) Italia là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của thủy sản Việt Nam nhưng lại đứng đầu về khối lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU. Năm 2005, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang nước này đạt 23,7 nghìn tấn, đạt giá trị 63,2 triệu USD ( tăng 66 % về khối lượng và 104% về giá trị so với năm 2004) trong đó mực đông lạnh đứng đầu trong danh sách xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường EU với 17,7 triệu USD (6700 tấn), tôm đông lạnh đạt 14,5 triệu USD (2941 tấn), cá tra 8,7 triệu USD (4365 tấn), đứng đầu về nhập khẩu nghêu trong các nước EU với 2562tấn và 7,77 triệu USD, bạch tuộc đông lạnh đạt 3203 tấn và gần 5 triệu USD. 9 tháng đầu năm 2006, xuất khẩu thủy sản sang Italia về khối lượng đạt 25,3 nghìn tấn và về giá trị là 72,4 triệu USD.
+) Tây Ban Nha là thị trường có xu hướng tăng liên tục về nhập khẩu thủy sản Việt Nam trong những năm qua cả về khối lượng và giá trị. Năm 2005, xuất khẩu sang nước này đạt 54 triệu USD và 20681 tấn (tăng 56,8% về giá trị và 70,5% về khối lượng so với năm 2004) trong đó cá chiếm 78% đạt 42,3 triệu (riêng cá tra chiếm 64% đạt 34,4 %), tôm chiếm 3,3% đạt 1,79 triệu USD và đứng thứ tư ở EU trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Trong 11 tháng đầu năm 2006 xuất khẩu thủy sản sang thị trường này đạt 89,5 triệu USD.
+) Hà Lan là một thị trường xuất khẩu thủy sản tương đối quan trọng của Việt Nam tại EU. Trong năm 2005, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này đạt 41 triệu USD và 10641 tấn ( trong đó Hà Lan dành vị trí số một về nhập khẩu cá ngừ của Việt Nam tại EU với 7,7 triệu USD), đứng thứ nam trong các nước Nhập khẩu thủy sản chính ở EU.
Dưới đây là một số thông kê về khối lượng và giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các thị trường chính tại EU:
Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị trường chính
Đơn vị: 1000 USD
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Bỉ
19.812
18.517
18.574
31.935
51.075
76.482
Đức
14.448
208
11.750
18.245
44.200
67.812
Italia
13.275
13.075
17.491
23.043
32.123
63.202
Tây Ban Nha
2.599
4.802
5.122
8.262
35.115
53.660
Hà Lan
-
-
-
-
-
41.028
Pháp
8.399
15.372
12.282
14.599
23.803
38.444
Anh
11.353
14.796
6.288
14.976
26.347
38.265
Ba Lan
424
130
336
1.101
3.219
13.763
Bồ Đào Nha
212
325
244
676
2.277
7.349
Đan Mạch
627
1.255
1.880
1.880
3.161
5.893
Nguồn: www.fistenet.gov.
Bảng 10: Khối lượng xuất khẩu thuỷ sản VN sang EU
Đơn vị: tấn
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Italia
6.350
6.842
10.049
11.589
14.567
23.711
Tây Ban Nha
1.424
1.858
2.042
3.739
12.427
20.681
Đức
2.716
83
3.834
5.384
12.869
19.899
Bỉ
4.258
4.064
5.903
8.739
13.235
19.499
Hà Lan
-
-
-
-
-
10.641
Pháp
2.811
5.273
3.446
4.308
6.127
7.653
Anh
2.311
3.028
2.519
2.653
4.176
6.104
Ba Lan
106
51
158
568
1.095
5.761
Bồ Đào Nha
97
173
115
385
1.019
2.871
Hy Lạp
39
93
153
565
331
1.643
Nguồn: www.fistenet.gov.vn
Đối với thị trường SNG thì đây là một thị trường còn bất ổn và có nhiều rủi ro bởi vậy hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang khu vực này còn gặp nhiều khó khăn và khối lượng nhỏ chủ yếu tập trung ở các nước như liên bang Nga, Ukraine... Trong đó thị trường Nga là lớn nhất. Hiện nay đã co khoảng 38 doanh nghiệp được phép xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Nga thông qua ba cảng : Saint Petersburg, Vladivostok và Novossisk. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường này là cá tra, cá basa, cá ngừ đông lạnh ngoài ra còn có các loại thuỷ sản và hàng đông lạnh khác. Tuy vậy mức tăng trưởng năm 2007 khá thấp với khối lượng là trên 57000 tấn (giảm 2,6% so với cùng kỳ năm ngoái); đạt giá trị trên 119 triệu USD (giảm 5,8% so với năm 2006) và chiếm 3,2% tổng gia trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Do thị trường Nga rất dễ tính về mẫu mã, màu sắc cho nên doanh nghiệp chuẩn bị rất nhiều hàng cho nên khi thị trường này giảm sút về khối lượng nhập khẩu thì lượng tồn kho của các doanh nghiệp tăng lên con số rất lớn. Ngoài ra sự suy giảm của thị trường Nga còn kéo theo sự sụt giảm về lượng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang các thị trường khác của khu vực SNG. Đối với thị trường Ukraine, trong khoảng 4 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đạt khoảng 10000 tấn (tăng 150% so với cùng kỳ năm 2006) và là thị trường đứng thứ 6 trong nhóm các quốc gia nhập khẩu cá da trơn nhiều nhất của Việt Nam (sau EU, Nga, Asean, Hoa kỳ và Trung Quốc) về cả giá trị và khối lượng.
Theo các chuyên gia về xuất khẩu thuỷ sản thì tương lai của thuỷ sản Việt Nam nằm ở các nước Đông Âu và SNG do đó dù hiện tại xuất khẩu thuỷ sản Vn sang thị trường này chưa nhiều nhưng không vì thế mà bỏ qua thị trường đầy tiềm năng này. Bởi vậy các chuyên gia khuyến cáo phải ổn định chất lượng để có thể khai thác các thị trường như Nga, Ukraine... để tạo tiền đề xâm nhập các thị trường SNG sau này.
2.3 Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản sang thị trường châu âu
2.3.1 Thuận lợi
*) Đối với thị trường EU:
+) EU là một khối liên hệ chặt chẽ, sâu sắc, phát triển kinh tế ổn định và có triển vọng phát triển cao. Do các nước thành viên của EU áp dụng cùng một chính sách ngoại thương với mọi nước ngoài khối, EC là cơ quan duy nhất đại diện cho EU trong việc đàm phán, ký kết các hoạt động thương mại và dàn xếp các tranh chấp trong khu vực do đó EU luôn là một khối liên hệ chặt chẽ nhất thế giới. Tình hình kinh tế của các nước trong EU thời gian gần đây vẫn giữ được mức độ phát triển kinh tế ổn định vào khoảng hơn 2%/ năm. Và đây là khu vực bao gồm 27 quốc gia với vài trăm triệu dân, có xu hướng tiêu dùng thủy sản nhiều hơn thịt do đó đây sẽ là một thị trường đầy tiềm năng và có triển vọng phát triển cao hơn nữa trong tương lai.
+) EU là một trong ba trung tâm thương mại lớn nhất thế giới và có vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. Trong xu hướng ngày nay, EU đã có sự chuyển hướng sang các bước thuộc khu châu á. Với xu hướng này thì Việt Nam cũng trở thành đối tác mà EU muốn mở rộng hợp tác. Chính vì vậy EU đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Đay chính là cơ hội để cho thủy sản Việt Nam có thể xâm nhập sâu hơn vào thị trường EU từ đó tạo bước đạp để thế giới biết tới hàng thủy sản nước ta nhiều hơn.
+) Thị trường EU có nhu cầu rất lớn không chỉ về số lượng mà còn cả về sự phong phú của hàng hoá nước ta (trong đó có thủy sản). Do vậy xuất khẩu sang EU có thể giúp cho ngành thủy sản của nước ta đảm bảo về sản xuất mà còn thúc đẩy các nhà sản xuất phải nâng cao tay nghề, thay đổi công nghệ để nâng cao chất lượng hàng thủy sản cũng như áp dụng các phương pháp quản lý mới hiệu quả hơn. Mặt khác xuất khẩu sang EU còn góp phần thay đổi cơ cấu nền kinh tế nói chung và nền thủy sản nói riêng.
*) Đối với thị trường SNG
+) Đây là một thị trường tương đối dễ tính. Do mức thu nhập không cao cho nên thị trường này chủ yếu tiêu thụ các mặt hàng có chất lượng và tiêu chuẩn trung bình. Điều kiện này rất phù hợp với hàng thủy sản Việt Nam đa số có chất lượng vừa phải giá cả phải chăng. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam không thể lợi dụng thái quá đặc điểm này do chắc chắn xu hư\ớng tiêu dùng này sẽ có thay đổi trong tương lai không xa.
+) Đây là thị trường rộng lớn, có số dân đông lại chưa được khai thác đúng tiềm năng. Do thị trường này có sức mua không cao, lại có nhiều biến động do đó khi xâm nhập thị trường này thì thủy sản của Việt Nam có nhiều cơ hội hơn dơ có ít đói thủ cạnh tranh. Tuy nhiên khi xâm nhập thị trường này cũng cần nghiên cứu kỹ để tránh trường hợp sẽ bị thua lỗ do sự kém hiểu be=iết về thông tin cũng như nhu cầu thị trường.
2.3.2 Khó khăn
*) Với thị trường EU
+) Tuy các quốc gia thành viên EU áp dụng cùng một chính sách ngoại thương với các nước ngoài khối nhưng do mỗi quốc gia lại có một nền văn hoá riêng cho nên cách giải quyết các tình huống trong thực tế của họ là không giống nhau. Bởi vậy các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam khi đưa các sản phẩm thủy sản vào một quốc gia là thành viên của EU cần phải hiểu rõ được văn hoá của mỗi nước để có các phương thức bán hàng và marketing cho phù hợp.
+) Do EU là thành viên của tổ chức WTO cho nên các chế đọ quản lý xuất nhập khẩu của khu vực này cũng phải phù hợp với nguyên tắc của WTO. Các mặt hàng được quản lý bằng hạn ngạch có xu hướng giảm nhưng lại đước thay thế bằng các biện pháp phi thuế quan và một trong ssó đó chính là hàng rào kỹ thuật. Hàng thủy sản Việt Nam muốn xâm nhập thị trường EU phải vượt qua được hàng rào kỹ thuật đó ( gồm tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn về vệ sinh, tiêu chuẩn về lao động, tiêu chuẩn an toàn cho người lao động và tiêu chuẩn về môi trường). Hàng thủy sản Việt Nam trong thời buổi hiện nay chưa thể đáp ứng hết được các tiêu chuẩn hết sức khắt khe đó cho nên sản lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU chưa thể hiện rõ được tiềm lực thủy sản của Việt Nam.
+) EU đang có xu hướng nới lỏng cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, cải cách về chính sách do đó trong những năm tới thủy sản Việt Nam sẽ phải cạnh tranh hết sức khốc liệt với sản phẩm thủy sản của các nước khác trên thị trường EU.Trong đó có thể kể đến diển hình là Trung Quốc. Điều đo buộc các nhà xuất khẩu thủy sản của Việt Nam phải tìm ra các biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản phẩm, thay đỏi về cung cách phục vụ cho tốt hơn.
+) EU có một hệ thông kênh phân phối phức tạp. Do các siêu thị, các công ty bán lẻ hay các cửa hàng ở thị trường EU không mua hàng trực tiếp từ các nhà xuất khẩu nước ngoài mà thông qua các trung tâm thu mua lớn của EU hay các công ty xuyên quốc gia do đó các mặt mhàng muốn vào thị trường EU phải thông qua các công ty này. Do đó dã hạn chế khả năng đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này, cũng như việc đa dạng hoá và nâng giá bán.
+) Các chính sách chủ yếu của EU là với các thị trường lớn có tính chiến lược như Mỹ, Nhật Bản, Châu Mỹ, Châu Âu. Do vậy hàng thủy sản Việt Nam khi vào EU dù đã được hưởng những chế độ ưu đãi nhưng vẫn có sự phân biệt so với các sản phẩm từ các thị trường nói trên.
*) Đối với thị trường SNG
+) Vị trí địa lý của các nước thuộc khu vực SNG không thuận lợi cho việc xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Do khoảng cách giữa cảng Hải Phòng hay cảng Sài Gòn đến cảng Odessa hay Leningrad lên đến hơn 10000 km, trong khi đó cước phí vấn tải biển không phải thấp do đó ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này.
+) Do các nước thuộc khu vực này hầu hết là các nước đang phát triển, thu nhập của người dân không cao nên sức mua trung bình thuộc diện thấp do đó làm giảm khả năng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này.
+) Thị trường SNG còn nhiều biến động, rủi ro cao. Quy mô nhập khẩu của thị trường này là rất thất thường, năm 1998 tổng kim ngạch nhập khẩu là 106,87 tỷ USD nhưng đến năm 2000 lại giảm xuống còn 81,4 tỷ USD và đến năm 2002 con số này lại tăng chút ít. Do vậy việc xuất khẩu thủy sản vào thị trường này cần tiến hành một cách từ từ để hạn chế các rủi ro có thể xảy ra.
+) Thị trường này còn hỗn loạn, chưa ổn định về chính trị cũng như xã hội. Tiêu chí đầu tiên mà các nhà đầu tư và xuất khẩu quan tâm tới đầu tiên khi muốn xâm nhập một thị trường đó là tình hình chính trị xã hội và các chính sách của nhà nước đó. Tuy nhiên chính trị của khu vực này lại chưa ổn định, xã hội còn nhiều hỗn loạn do đó viêc thu hút vốn đầu tư và hàng xuất khẩu của khu vực này còn nhiều khó khăn, do đó việc xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường này cũng gặp nhiều khó khăn mặc dù đây là một trong những thị trường truyền thống của nước ta, đã từng giúp nước ta rất nhiều trong chiến tranh.
Chương 3: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang
thị trường châu âu
3.1 Triển vọng phát triển ngành thủy sản đến năm 2010
3.1.1 Những cơ hội đối với ngành thủy sản
Trong nhiều năm qua, ngành thủy sản đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Trong những năm tới đây ngành thủy sản có cơ hội để phát triển mạnh hơn nữa để đóng góp vào nền kinh tế nước ta
+) Theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành thủy sản thì nguồn tài nguyên thủy sản của nước ta vẫn còn rất phong phú cả trong việc nuôi trồng thủy sản và đánh bắt xa bờ. Với đường bờ biển dài hàng ngàn kilomet cùng hệ thống sông ngòi ao hồ chằng chịt trên phạm vi cả nước đó là điều kiện để ta thúc đẩy phát triển hơn nữa về khai thác và nuôi trồng thủy sản. Và đây cũng là ưu thế của ta so với
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6160.doc