Lời nói đầu 1
Chương I : Các vấn đề chung về Kế Toán Hành Chính Sự Nghiệp 3
1.1 . Khái niệm, nhiệm vụ Kế Toán Hành Chính Sự Nghiệp 3
1.2. Tổ chức công tác kế toán trong đơn vị Hành Chính Sự Nghiệp 4
1.3. Tổ chức bộ máy kế toán 11
1.4. Nội dung các phần hành kế toán 12
Chương II : Thực tế công tác kế toán tại trường Kỹ thuật thiết bị y tế 23
1. Giới thiệu sơ qua về Trường KT Thiết bị y tế 23
1.1. Quá trình thành lập Trường KT thiết bị y tế 23
1.2. Trường công nhân KT sửa chữa thiết bị y tế những ngày đầu thành lập 25
1.3. Trường KT Thiết bị y tế trong thập kỷ đầu đất nước thống nhất 27
1.4. Tình hình nhà trường những năm đầu thời kỳ đổi mới.28
1.5. Trường KT thiết bị y tế vững bước trong thời kỳ đổi mới.30
1.6. Trường KT thiết bị y tế ngày nay.33
1.7. Hình thức kế toán của đơn vị.35
2. Công tác lập dự toán thu chi tại trường Kỹ thuật thiết bị y tế 36
2.1 Công tác lập dự toán thu, chi năm tại đơn vị 36
2.2. Công tác lập dự toán thu, chi quý tại đơn vị 38
3. Công tác kế toán tại trường THCS Tứ Liên 40
3.1. Kế toán vốn bằng tiền 40
3.2. Kế toán tài sản cố định 51
3.3. Kế toán các khoản thanh toán . 52
3.4. Kế toán nguồn kinh phí 57
3.5. Kế toán các khoản chi .61
3.6. Báo cáo tài chính .65
Chương III: Kết luận chung về tình hình thực hiện công tác kế toán tại trường Kỹ thuật thiết bị y tế 67
a. Phụ lục 1 : Sổ theo dõi HMKP.69
b. Phụ lục 2 : Chi tiết theo mục.70
c. Phụ lục 3 : Nhật ký – Sổ cái.71
d. Phụ lục 4 : Bảng cân đối tài khoản.73
e. Phụ lục 5 : Tổng hợp tình hình kinh phí và quyết toán kinh phí đã sử
dụng.74
Tài liệu tham khảo.76
1. Mẫu phiếu thu
2. Mẫu phiếu chi
3. Biên lai thu tiền
78 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tế công tác kế toán hành chính sự nghiệp tại Trường Kỹ thuật thiết bị y tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yên môn .Các cán bộ , giáo viên có mặt đầu tiên để lo cho trường những ngày đầu là những cán bộ được điều từ xí nghiệp thiết bị y tế. Thời gian đầu tất cả thầy trò đều tập trung vào việc sữa chữa nhà kho thành xưởng thực tập , lớp học , phòng làm việc , hội trường , nhà ở cho cán bộ giáo viên và học sinh. Một số lo mua sắm vật tư tìm kiếm máy móc dụng cụ phương tiện giảng dạy , học tập. Thầy và trò làm việc với tinh thần ngày quên giờ , tuần quên ăn , ăn uống qua loa . Tất cả vì ngày khai giảng đầu tiên , vì buổi học đầu tiên của trường đúng vào dịp khai giảng đối với các trường trong cả nước . Điều này đã được thực hiện đúng vào mùa khai giảng các trường dạy nghề năm học 1974-1975 của cả nước.
* Xây dựng nội dung giảng dạy :
Năm 1973 , Trường công nhân kỹ thuật y tế được thành lập ,cơ sở vật chất hầu như chưa có gì , tất cả còn tạm bợ , đội ngũ cán bộ giảng dạy phải dựa vào nhiều nguồn khác nhau ,cái khó nhất vẫn là nội dung chương trình giảng dạy chuẩn bị cho khoá đào tạo đầu tiên của trường (1973-1974). Vì là một trường chính quy nên quy trình đào tạo cũng phải đảm bảo tính chính quy ngay từ đầu ,điều đó đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo và giáo viên phải động não , suy nghĩ tìm tòi và sáng tạo ra một quy trình đào tạo thích hợp .Đó là việc kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành , giữa kiến thức cơ bản với kỹ thuật chuyên môn , giữa đa ngành với chuyên sâu , giữa kỹ thuật chuyên môn với nghiệp vụ quản lý . Những nguyên tắc trên đã được áp dụng cho khoá đầu tiên và đã đạt được kết quả mỹ mãn. Với nội dung chương trình giảng dạy và với việc học sinh có đủ máy để thực tập thì khi ra trường học sinh có những hiểu biết kỹ năng cơ bản và có thể độc lập làm việc được .
* Công tác tuyển sinh :
Mục tiêu của trường đặt ra là trong bất cứ hoàn cảnh nào , việc tuyển sinh khoá đầu tiên cũng phải thực hiện . Dựa trên nhiệm vụ của trường là đào tạo công nhân cho các địa phương nên công tác tuyển sinh khác với các trường khác là không tổ chức thi tuyển cho tất cả các đối tượng mà tiến hành tuyển sinh theo cách gọi ngày nay là “ cử tuyển” . Trường thiết bị y tế giao chỉ tiêu tuyển sinh và tiêu chuẩn cán bộ được cử đi học cho các tỉnh , các bệnh viện , viện nghiên cứu thuộc Bộ để địa phương đơn vị tuyển chọn người theo yêu cầu của trường.
Vơí sự cố gắng của thầy trò vượt lên bao khó khăn gian khổ , Khoá học đầu tiên khai giảng đã thành công tốt đẹp . Các em tốt nghiệp ra trường về cơ sở phục vụ và với kiến thức học tập ở trường cùng với việc học tập trong thực tế các em đã trưởng thành nhanh chóng , nhiều em phấn đấu học tập tiếp đại học , nhiều em trở thành cán bộ quản lý .
“Vạn sự khởi đầu nan ”, với sự thành công bước đầu tốt đẹp , nhà trường tiếp tục chiêu sinh khoá 2 , khoá 3 liên tiếp vào những năm sau , cùng với phương thức tuyển sinh ưu tiên cho vùng cao , vùng sâu , vùng xa , quân nhân phục viên chuyển ngành cũng được tuyển chọn về trường học tập . Có thể nói , khoá đầu tiên là khoá học vừa lao động xây dựng trường vừa học tập . Niềm vui đất nước đại thắng , tổ quốc thống nhất cùng với niềm vui xí nghiệp sữa chữa thiết bị y tế được cấp đất tại Hà Nội , cùng với thành công của các khóa đầu , toàn trường hết sức phấn khởi cho việc chuẩn bị điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo cho các khoá tiếp theo. Trong muôn vàn khó khăn của buổi ban đầu , nhưng ý chí quyết tâm của thày trò trường kỹ thuật thiết bị y tế đã chiến thắng và hoàn thành tốt nhiệm vụ của Bộ y tế giao cho.
1.3 – Trường kỹ thuật thiết bị y tế trong thập kỷ đầu đất nước thống nhất (1976-1986):
Chiến thắng 30/4/1975 cả nước thống nhất , nhiều cơ sở văn hoá , kinh tế , xã hội ... sơ tán đã trở về Hà Nội thì Xí nghiệp và Trường vẫn phải ở lại nơi sơ tán Tiên Sơn – Hà Bắc . Lúc này với sự cố gắng của tập thể ban giám đốc Xí nghiệp cụ thể là với sự năng nổ , nhiệt tình , trách nhiệm của đồng chí Lê Lợi – giám đốc kiêm hiệu trưởng . Sau nhiều lần duyệt lên ,duyệt xuống cuối cùng tháng 03/1975 chính phủ đồng ý cấp cho Xí nghiệp một khu đất thuộc Kim Liên III nay là phường Phương Mai – quận Đống Đa – Hà Nội .
Bộ y tế đã ra quyết định số 468/BYT – QĐ ngày 17/05/1976 sáp nhập trường vào Xí nghiệp , lúc này Trường mới thật sự ở bên cạnh Xí nghiệp vì tài khoản tuy riêng nhưng con dấu dùng chung và đồng chí Lê Ngọc Côn – Phó giám đốc Xí nghiệp được giao kiêm hiệu trưởng nhà trường trực tiếp lo ăn ở sinh hoạt tại nơi sơ tán .
Sau 2 năm tập trung vừa giảng dạy vừa củng cố xây dựng thêm cơ sở vật chất , vừa bổ sung giáo viên , khoá 1 với 53 học sinh đã tốt nghiệp ra trường thì cũng là lúc đồng chí Lê Lợi – giám đốc Xí nghiệp được điều về Bộ y tế công tác . Sau đó một thời gian đồng chí Trần Đình Liên cũng được biệt phái về Cục Vật tư nhận nhiệm vụ mới .
Có đất , được Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cho phép , chỉ trong 2 năm 1976-1977 , Xí nghiệp đã xây dựng hoàn chỉnh 02 ngôi nhà 3 tầng khang trang , rộng rãi . Trong khi đó Trường vẫn án binh bất động tại nơi sơ tán Châu Khê - Tiên Sơn – Hà Bắc.
Lúc này Trường đã cho tốt nghiệp khoá 1 và khoá 2 với 105 học sinh . Khoá 3 với 92 học sinh trong đó 1/3 là quân nhân chuyển ngành cũng làm lễ tốt nghiệp ra trường. Mặc dù ở nơi sơ tán nhưng buổi lễ tốt nghiệp rất trân trọng , đại diện Cục Vật tư – Cố Bác sĩ Nguyễn Kim Đương – Quyên Cục trưởng cùng các phòng ban của Cục và Xí nghiệp đã về dự. Sau lễ tốt nghiệp cho khoá 3 ra trường , khoá 4 đang học năm thứ hai , khoá 5 mới nhập trường . Nhiệm vụ lúc này là phải thực hiện bằng được 3 y kiến đề xuất của đồng chí Lê Lợi – nguyên giám đốc kiêm hiệu trưởng trước lúc chuyển công tác . Đó là :
Đề nghị cho Trường được xây dựng tại khu đất cạnh xí nghiệp
Tổ chức đăng ký hộ khẩu chính thức cho học sinh tại Hà Nội
Xây dựng chương trình học 3 năm bậc 3/7 .
Do sự phân công của Ban giám đốc , đồng chí Lê Ngọc Côn chuyển hẳn về Xí nghiệp phụ trách chung ,đồng chí Từ Hùng _Phó giám đốc được giao kiêm hiệu trưởng nhà trường . Đồng chí Bùi Đình Kiên – phó phòng Kế hoạch kiêm bí thư Đảng uỷ của Xí nghiệp mới được Bộ y tế bổ nhiệm giữ chức phó hiệu trưởng nhà trường .
Trứơc tình hình trên một sự lựa chọn và sự quyết định đúng đắn , chính xác :
ngày 20/12/1978 , Đảng uỷ ,Ban giám đốc Xí nghiệp và Ban giám hiệu quyết định chuyển Trường về khu đất cạnh Xí nghiệp . Lúc này Xí nghiệp đã cơ bản xây dựng xong .Vô cùng phấn khởi ,toàn thể cán bộ , giáo viên và học sinh bắt tay vào việc lao động chuyển trường với tình thần nhanh gọn , đảm bảo tiết kiệm ,an toàn . Để đảm bảo khi di chuyển về Hà Nội có cơ sở tối thiểu cho học sinh ăn ở , học tập ... Trước đó lãnh đạo Xí nghiệp đã cùng với Ban Kiến thiết cơ bản của Xí nghiệp vận chuyển và dựng một ngôi nhà lắp ghép của Nhật 10 gian xin của bệnh viện Hữu nghị Việt Xô và xây dựng tạm một nhà ở cấp 4 với tổng diện tích trên 200m2 để tiếp đón cán bộ , giáo viên và học sinh từ Hà Bắc trở về.
Do tình hình biến động về mặt tổ chức ,đầu năm 1979 , đồng chí Từ Hùng được điều về Cục Vật tư công tác , đồng chí Hoàng Hùng – Phó giám đốc Xí nghiệp được giao nhiệm vụ kiêm hiệu trưởng nhà trường . Tíêp đó đồng chí Kiên đi học tập trung trường Đảng của Nguyễn Aí Quốc , đồng chí Đặng Vũ Vinh được đề bạt phó hiệu trưởng .
Như vậy , 3 ý kiến của đồng chí Lê Lợi – giám đốc kiêm hiệu trưởng trước khi chuyển công tác về Bộ thì việc thứ nhất đã giải quyết xong.
Việc thứ hai : Đăng ký hộ khẩu chính thức cho học sinh tại Hà Nội cũng gặp nhiều khó khăn ,với uy tín riêng của đồng chí quyền Cục trưởng Nguyễn Kim Đương đã giúp trường nhanh chóng thực hiện được khâu này .
Việc thứ ba : Xây dung chương trình bậc 3/7 , thời gian học 3 năm để chính thức Tổng cục Dạy nghề phê duyệt mới là vấn đề quan trọng và bức thiết . Các đồng chí Hoàng Hùng , Đặng Vũ Vinh , Đào Nam Anh và các thầy cô giáo đã qua 5 năm giảng dạy và nhiều thầy cô giáo được tu nghiệp thiết bị y tế và dạy nghề ở Đức về và ở Xí nghiệp thiết bị y tế sang , giáo trình bậc 3/7 đã được hội đồng nghiệm thu vào ngày 03/06/1980 với sự có mặt của KS.Nguyễn Xuân Bình – Cục phó cục Vật Tư cùng đại diện của Tổng cục dạy nghề và các thành viên khác . Như vậy chưa đầy một năm cả 3 ý kiến đề xuất của đồng chí Lê Lợi đã hoàn tất .
Qua đây đã thể hiện được tầm nhìn của các đồng chí lãnh đạo của Bộ y tế về công tác tổ chức , công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật thiết bị y tế . Do nhu cầu công tác , đầu năm 1981 , đồng chí Lê Ngọc Côn lại được phân công phụ trách trường thay đồng chí Hoàng Hùng.Mặc dù về mặt tổ chức có sự thay đổi song vì có chương trình đào tạo chuẩn , đội ngũ giáo viên khá nên liên tiếp những năm 1980,1981,1982,1983 , trường tuyển sinh và đào tạo khoá 6,7,8,9,10 khá thuận lợi . Vì đây là một chương trình biên soạn mới , lại được học với thời gian là 3 năm với 4 chuyên ngành , nhưng được chia thành 2 chuyên ngành ghép : Điện tử + Quang học ; Cơ điện + Điện quang . Vì thề chất lượng học sinh ngày càng nâng cao .Đặc biệt đã tham gia triển lãm sản xuất đồ ding dạy học các nước XHCN được tổng cục dạy nghề tặng bằng khen .
1.4 – Tình hình nhà trường những năm đầu thời kỳ đổi mới (1986-1996):
Vào những năm đầu trong công cuộc đổi mới của đất nước , cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội đã tác động trực tiếp đến các trường Đại học , trung học chuyên nghiệp và dạy nghề , cũng như các trường dạy nghề khác , quy mô của trường bị thu hẹp , chỉ tiêu tuyển sinh những năm 1986 –1987 không tăng mà có chiều hướng giảm . Mô hình của trường vẫn nằm trong xí nghiệp ,lãnh đạo nhà trường do giám đốc xí nghiệp kiêm hiệu trưởng . Trong khi đó xí nghiệp cũng phải lo kiện toàn lại để tổ chức sản xuất , kinh phí không tăng . Cảnh quan môi trường sư phạm và vật chất kỹ thuật không được đầu tư ,4 dãy nhà cấp 4 khoảng 720m2 được xây dung tạm thời năm 1979 đã xuống cấp . Theo đề xuất của Tổng công ty thiết bị và công trình y tế – Bộ y tế đã ra quyết định số 933 – BYT/QĐ ngày 16/10/1986 tách trường khỏi xí nghiệp để xây dựng thành một trường độc lập .Đồng chí Bùi Đình Kiên – Nguyên hiệu phó cuả trường được giao nhiệm vụ phụ trách trường . Đồng chí Đặng Vũ Vinh – Phó hiệu trưởng phụ trách công tác đào tạo . Từ đây trường trực thuộc thẳng Tổng công ty , Chi bộ đảng , Công đoàn và Đoàn thanh niên trực thuộc quận Đống Đa .
Ngày 17/12/1988 Bộ y tế đã quyết định sáp nhập Viện trang thiết bị và công trình y tế với trường kỹ thuật thiết bị y tế thành trung tâm thiết bị y tế bằng quyết định số 1065 – BYT/QĐ.
Tháng 10/1990 ,Bộ y tế quyết định số 808 –BYT/QĐ tách trường và Viện thành 2 đơn vị như cũ trực thuộc Tổng công ty . Đồng chí Đặng Vũ Vinh – phó hiệu trưởng.Nhưng lúc này Tổng công ty cũng gặp nhiều khó khăn trong sản xuấ kinh doanh .Mặt khác nếu để trường trong Tổng công ty thì kinh phí cấp hàng năm sẽ gặp khó khăn vì nhà nước chủ trương chỉ cấp kinh phí đào tạo cho những trường trực thuộc bộ ,ngành quản lý , vì thế Bộ y tế đã có một biện pháp kịp thời , ra quyết định để 2 đơn vị tách khỏi tổng công ty trực thuộc bộ y tế ,quyết định 1009/BYT-QĐ ngày 08/11/1991 ra đời từ đó . Đồng chí Bùi Đình Kiên được giao nhiệm vụ Hiểu trưởng nhà trường .
Chỉ sau một thời gian ngắn chưa đầy 2 năm với sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Thụ – Tổng giám đốc Tổng công ty trang thiết bị và công trình y tế và sự quan tâm của giáo sư Phạm Song – Bộ trưởng cùng các vụ chức năng của Bộ y tế đã cấp thêm kinh phí chống xuống cấp và một ít kinh phí sự nghiệp 2 ngôi nhà 2 tầng – 3 tầng đã hoàn thành .
Phấn khởi trước việc 2 ngôi nhà ra đời ,Trường mạnh giạn đầu tư xây dựng một nhà ký túc xá 3 tầng với 520m2 bằng kinh phí chống xuống cấp .Như vậy chỉ trong vòng 3 năm (1990-1993) , được sự quan tâm của Bộ y tế bằng vốn chống xuống cấp và kinh phí sự nghiệp thường xuyên, trường đã xây dựng hoàn chỉnh 3 ngôi nhà cao tầng,mặc dù nhà học chính đã thiết kế xong nhưng trường vẫn trong tình trạng khó khăn : khó khăn nhất vẫn là công tác tổ chức , do xáo trộn nhiều lần đặc biệt là từ khi tách Viện và Trường sau đó thực hiện tinh giảm biên chế , số lượng cán bộ công nhân viên so với các đơn vị trong Bộ là quá thấp (45 người) nhưng vẫn phải thực hiện giảm 20 % ,còn 36 người . Đây là một bài toán khó , nên Ban giám hiệu đã kêu gọi các thầy cô giáo , các cán bộ , giáo viên , công nhân viên ai có nhu cầu đến tuổi nghỉ chế độ thì tự nguyện xung phong , đây coi như là một trách nhiệm đôí với nhà trường .và sau nhiều lần bàn bạc thì nhiều đồng chí đã tình nguyện đăng ký …
Năm 1994-1995 , Khoá 20 và 21 hàng năm đã có trên 100 học sinh nhập học , lưu lượng bình quân trên 200 học sinh / năm. Nhưng tình trạng khó khăn. Bộ y tế quyết định phê duyệt để trường xây dung giảng đường lớn 3 tầng với trên 1000m2 nhà kiên cố . Với tinh thần vừa đào tạo vừa xây dung , chỉ trong chưa đầy 3 năm (1993-1995) , giảng đường lớn đã được đưa vào sử dụng . Cảnh quan môi trường bắt đầu có sự đổi mới để khẳng định sự đi lên của trường.
Có cơ sở vật chất , ngoài chương trình đào tạo chính quy thợ bậc 3/7 . Được sự quan tâm của Bộ y tế đặc biệt là các Vụ chức năng của Bộ , trường liên tiếp mở các lớp đào tạo lại , đào tạo nâng cao cho đội ngũ giáo viên và số học sinh đã tốt nghiệp ra trường hiện đang công tác tại các cơ sở y tế trong cả nước .
1.5 – trường kỹ thuật thiết bị y tế vững bước trong thời kỳ đổi mới (1997-2003):
1.5.1. Tình hình chung :
Trong thời gian từ năm 1991 đến năm 1996 , trường vẫn là đơn vị trực thuộc Bộ y tế , mặc dù đội ngũ cán bộ , giáo viên ,công nhân viên không tăng ,trường vừa làm nhiệm vụ đào tạo chính quy , đào tạo lại ,vừa xây dựng cơ sở vật chất . Nhưng được sự quan tâm của Bộ y tế , sự chỉ đạo sát sao của các Vụ chức năng – Bộ Y tế cùng với sự cố gắng nỗ lực vượt bậc của tập thể đội ngũ cán bộ , giáo viên , công nhân viên và học sinh đã tạo dựng lên một ngôi trường tuy không lớn nhưng khá khang trang tạo điều kiện để trường hội nhập với ngành dạy nghề thủ đô và cả nước đáp ứng mọi nhu cầu đào tạo nhân lực kỹ thuật thiết bị y tế mà ngành y tế đang rất cần . Thầy trò phấn khởi với cơ sở vật chất đã có , trường lớp khang trang , phương tiện dạy học bước đầu có sự khởi sắc thì một vinh dự lớn đó là : đúng vào dịp kỷ niệm ngày nhà giáo Việt Nam 20/11/1996 ,GS.TS. Đỗ Nguyên Phương Bộ trưởng Bộ y tế sau đúng một năm về nhận nhiệm vụ lãnh đạo ngành y tế đã đến thăm trường , đây là lần đầu tiên một vị Bộ trưởng không những đến thăm và động viên thầy và trò nhân ngày truyền thống của ngành Giáo dục - Đào tạo , Bộ trưởng đã có buổi nói chuyện tiếp xúc với thầy trò của trường với tình cảm chân tình cởi mở , đặc biệt Bộ trưởng đã nêu những vấn đề rất quan trọng của việc đào tạo nhân lực kỹ thuật thiết bị y tế .Năm 1997 ,trường liên kết với khoa Điện tử – trường Đại học Bách Khoa mở một lớp đào tạo cao đẳng Điện tử y tế với 120 học sinh đã tốt nghiệp năm 2000 , nhiều học sinh đã phát huy tốt , một số đã được đề bạt trưởng , phó phòng vật tư kỹ thuật tỉnh .
1.5.2. Kết quả công tác đạo tào :
a/.Đào tạo chính quy :
Sau 5 năm (1997-2002) , số học sinh nhập học ngày càng tăng , trường đã tuyển sinh tới 61 tỉnh thành trong cả nước. Trong đó ưu tiên đào tạo , đào tạo lại theo địa chỉ cho các vùng sâu , vùng xa cách bệnh viện Quân y trong cả nước .Trong đó có trên 200 học viên là cán bộ của đơn vị gửi đến học , sau khi tốt nghiệp được nhận lại công tác . Số liệu của sự cố gắng đó là :
14 tỉnh miền núi phía Bắc :60 học viên
04 tỉnh miền núi Tây Nguyên :18 học viên
12 tỉnh miền tây Nam Bộ :21 học viên
Các tỉnh Phía Bắc :66 học viên
Các tỉnh Phía Nam:16 học viên
Tổng cộng :221 học viên
Số học sinh này đã góp phần phủ kín nhân lực kỹ thuật tại các trung tâm y tế huyện đặc biệt là các trung tâm y tế của 16 tỉnh thuộc Dự án Hỗ trợ Y tế Quốc gia và 20 tỉnh thuộc dự án Dân số đã được Bộ Y tế trang bị nhiều chủng loại thiết bị y tế .
Ngoài đào tạo theo địa chỉ trên ,trường đã đào tạo cho Cục quân y – Bộ quốc phòng đối tượng là sĩ quan , chiến sĩ ,quân nhân chuyên nghiệp , công nhân quốc phòng 4 khoá với 140 học viên góp phần bổ sung nhân lực kỹ thuật thiết bị y tế cho các bệnh viện quân đội cũng đang được trang bị các thiết bị hiện đại như ngành dân y .
b/. Đào tạo lại :
Đào tạo lại - đào tạo nâng cao:
Trước sự phát triển của ngành , đặc biệt là các trang thiết bị y tế đã được cung cấp tới các bệnh viện từ trung ương đến địa phương , đội ngũ cán bộ kỹ thuật trực tiếp sử dụng , quản lý ,bảo dưỡng ,sữa chữa các thiết bị y tế các cơ sở , tuy được đào tạo qua trường lớp song kỹ thuật máy y tế ngày càng hiện đại . Nhận thức được điều này ,hàng năm trường đã tổ chức các lớp đào tạo lại cho các địa phương , thời gian từ 2 tuần đến 3 tháng . Kết quả nhiều học viên sau khi được đào tạo lại đã làm chủ được các thiết bị y tế mới .
Số liệu thống kê :1997-2003
Tổng số : 18 lớp với 478 học viên gồm đào tạo lại , đào tạo chuyển đổi , đào tạo nâng cao và tập huấn sử dụng thiết bị y tế.
c/. Đào tạo lại theo chương trình dự án Hỗ trợ Y tế Quốc gia (WB) :
Cuối năm 1996 ,Dự án Hỗ trợ Y tế Quốc gia – BYT đã giao cho trường nhiệm vụ quan trọng đó là : Đào tạo người vận hành , bảo dưỡng thiết bị y tế cho các trung tâm y tế huyện của 16 tỉnh gồm :
6 tỉnh phía Bắc : Lạng Sơn , Cao Bằng , Sơn La , Hà Tây , Bắc Ninh , Bắc Giang.
3 tỉnh miền Trung : Nghệ An ,Hà Tĩnh , Quảng Trị.
7 tỉnh miền Nam : Bình Định , Phú Yên , Ninh Thuận , Gia Lai , Kon Tum , Sóc Trăng , Tây Ninh.
d/.Đào tạo lại giáo viên :
Trước sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là các công nghệ kỹ thuật tiên tiến được ứng dụng vào các thiết bị y tế , do đó việc đào tạo bổ sung các kỹ thuật mới và phương pháp dạy học mới cho lực lượng giáo viên cũng là nhiệm vụ quan trọng .Tuy số lượng giáo viên không nhiều , học sinh đông , nhiệm vụ giảng dạy khá lớn nhưng trường đã tranh thủ vận dụng , tổ chức các lớp học , đó là :
Các lớp bổ sung về nghiệp vụ sư phạm bậc 1 và bậc 2.
Các khoá về lý thuyết và ứng dụng kỹ thuật số.
Các lớp về chuyên đề kỹ thuật cảm biến .
Các lớp chuyên đề về phương pháp dạy học tích cực .
Đồng thời thường xuyên bố trí giáo viên đến các cơ sở có các thiết bị mới hiện đại để cập nhật thông tin , nhờ đó số giáo trình mới , số sa bàn dạy học mới đều được các giáo viên của trường trực tiếp biên soạn và chuẩn bị .Do vậy việc chuyển tải các kiến thức mới đến người học tiến bộ rõ nét , đặc biệt đã có một số giáo viên khai thác có hiệu quả các phòng thí nghiệm của trường .Ngoài ra với các kiến thức đã được cập nhật trên , các thầy giáo giảng dạy theo các chương trình của Dự án như đã nêu trên được địa phương hoan nghênh .
Với những thành công bước đầu của việc xây dựng cơ sở vật chất , tổ chức đào tạo , ứng dụng các kỹ thuật công nghệ mới . Để động viên thầy và trò , được phép của Bộ Y tế , trường tổ chức trọng thể “ Lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập trường (14/08/1973-17/08/1998)”.
Sau nhiều năm phấn đấu ,đặc biệt từ ngày trường chính thức trực thuộc Bộ y tế .Một sự kiện quan trọng ngày 20/11/2001 ,trường long trọng tổ chức kỷ niệm 10 năm đổi mới (1991-2001).
Một điều khẳng định nữa để tăng cường cơ sở vật chất ngoài sự quan tâm của lãnh đạo Bộ y tế ,Các Vụ chức năng của Bộ , Tổng cục dạy nghề , Bộ LĐ-TB&XH đã xếp vào trường đầu tư trọng điểm Quốc gia giai đoạn 2001-2005 , quyết định số 1378/QĐ-LĐ/TBXH ngày 13/12/2001.
Từ đây vị trí của trường được khẳng định.
Song song với sự phát triển đào tạo nghề , trước sự lớn mạnh của Ngành TTB y tế , nhu cầu về sửa chữa bảo dưỡng các thiết bị y tế với các kỹ thuật công nghệ cao đang được đặt ra như là một nhiệm vụ cấp bách. Với yêu cầu và nhiệm vụ của ngành , ngày 01/04/2002 Bộ y tế đã ra quyết định thành lập Trung tâm dịch vụ kỹ thuật thiết bị y tế.
Theo đề nghị của trường và căn cứ vào khả năng chuyên môn , Bộ Y tế đã ra quýêt định Bộ nhiệm KS. Nguyễn Việt Cường – Trưởng ban cơ điện làm giám đốc trung tâm .
Và ngày 16/11/2002 lễ ra mắt Trung tâm dịch vụ sửa chữa thiết bị y tế được tổ chức trọng thể , GSTS . Lê Ngọc Trọng – Thứ trưởng Bộ y tế ,TS . Dương Văn Tỉnh – Vụ trưởng Vụ TTB và CTYT cùng với gần 50 đại biểu là Giám đốc , Phó giám đốc Sở y tế , Giám đốc bệnh viện Tỉnh và Giám đốc trung tâm y tế huyện đã về dự.
Sự ra đời Trung tâm Dịch vụ KTTB Y tế thuộc trường Kỹ thuật thiết bị y tế là một nước nhảy vọt về chất để cùng với Viện TTB & CTYT , các thành viên của Tổng công ty thiết bị y tế Việt Nam , các Công ty Vật tư y tế tỉnh thành và khu vực nhằm góp phần bảo dưỡng ,sữa chữa các thiết bị y tế đã và sẽ được cung cấp ở tất cả các tuyến y tế từ địa phương đến TW .
Những thành tích đạt được :
Phát huy những thành tích và truyền thống quyết tâm vượt khó , năng động sáng tạo của 25 phấn đấu và xây dựng .Trong 5 năm gần đây , trường KTTB Y tế đã có những chuyển biến khích lệ . Hoàn thiện cơ sở vật chất với gần 3000m2 được xây dựng kiên cố , tạo nên mặt bằng khang trang sạch đẹp . Đầu tư có trọng điểm các phương tiện dạy và học , đặc biệt hoàn thiện cơ bản 3 phòng thí nghiệm , trong đó phòng thí nghiệm cơ bản Điển tử y sinh có gắn kết kỹ thuật hiện đại vào bậc nhất nhì hiện nay đối với khối trường nghề .
Các phòng học lý thuyết và thực hành đã được trang bị đồng bộ bàn ghế , bảng chống loá , một số phòng đã có phương tiện dạy học hiện đại .
Trung tâm dịch vụ sửa chữa thiết bị y tế với các dụng cụ phương tiện tiên tiến và đội ngũ cán bộ đủ điều kiện đáp ứng việc khai thác sửa chữa các thiết bị y tế , phục vụ các tuyến y tế cơ sở .
Quy mô tuyển sinh đã xấp xỉ 500 học sinh / năm và lưu lượng bình quân là 1000 học sinh / năm ,gấp 10 lần những năm trước đây .
Chất lượng và hiệu quả đào tạo đã gắn kết với các địa phương , vùng sâu , vùng xa .
Đã hoàn thành nhiều chương trình đào tạo lại tập trung tại Trường và chương trình WB , chương trình Dân số , chương trình Việt – úc .
Đã hoàn thành chương trình khung và biên soạn hoàn chỉnh 42 đầu sách chuyên ngành : Điện quang - Điện tử – Xét nghiệm sinh hóa – Cơ điện .
Đã tham gia tích cực vào các hoạt động dạy nghề của Thủ đô Hà Nội ,Của Tổng cục dạy nghề như : phong trào sản xuất đồ ding dạy học tự tạo đạt giải xuất sắc Thành phố , giải khuyến khích toàn quốc . Phong trào hội giảng giáo viên và thi học sinh giỏi đạt nhiều giải cao ,được UBND Thành phố Hà Nội và Tổng cục dạy nghề tặng nhiều giấy khen và bằng khen cho tập thể và cá nhân .
Phong trào hiến máu nhân đạo được phát triển liên tục , mỗi năm có gần 200 học sinh và thầy giáo tham gia , được TW Hội chữ thập đỏ và Thành đoàn Hà Nội tặng nhiều bằng khen .
Phong trào “ Xanh – Sạch - Đẹp ” 5 năm lion được Bộ y tế đánh giá đơn vị đoạt xuất sắc .
Các danh hiệu Trường đã đạt được (1998 – 2003) :
Năm 1998 : 01 bằng khen của chính phủ
Năm 1998,1999,2000 : 03 bằng khen của Bộ Y tế , 01 bằng khen của UBND thành phố Hà Nội
Năm 2001 : 01 bằng khen của Bộ Y tế , Cờ thi đua xuất sắc của Bộ Y tế
Năm 2002 : Cờ thi đua xuất sắc của chính phủ , 01 bằng khen của TW hội chữ thập đỏ Việt Nam
Năm 2003 : 01 bằng khen của UBND Thành phố Hà Nội , 01 bằng khen của Bộ Y tế.
1.6 – trường kỹ thuật thiết bị y tế ngày nay :
1.6.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật :
Mặt bằng của trường tuy chưa rộng nhưng đã khang trang , nơi giảng dạy , học tập , làm việc và sinh hoạt của thầy và trò được trang bị và bố trí hợp lý tạo nên cảnh quan môi trường xanh – sạch - đẹp , đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo hiện nay .
1.6.2. Bộ máy tổ chức của trường và các cơ sở thực hành của học sinh :
Bộ máy lãnh đạo và đoàn thể:
Phòng chính quyền
Phòng công đoàn
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Ban thanh tra ND
Phòng chính quyền :
+ Hiệu trưởng – Phó Bí thư chi bộ
+ Phó hiệu trưởng đào tạo – Bí thư chi bộ
+ Phó hiệu trưởng phụ trách kinh tế
Phòng Công đoàn :
+ Chủ tịch công đoàn – Chi Uỷ viên
+ Phó chủ tịch công đoàn phụ trách nữ công
+ Uỷ viên BCH phụ trách thanh tra
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh :
+ Bí thư đoàn trường
+ Phó bí thư
+ Uỷ viên thường vụ
Ban thanh tra ND :
+ Trưởng ban
+ Phó ban
+ Uỷ viên
Bộ máy quản lý và các phòng ban :
Phòng TC-HC
Ban lý thuyết
Ban cơ điện
Phòng TC-KT
Ban ĐTXN
Ban X quang
Phòng đào tạo
Ban thiết bị hình ảnh
Phòng đào tạo :
+ Trưởng phòng
+ Phó phòng
+ 4 kỹ sư , 1 cử nhân , 1 nhân viên
Phòng TC-HC :
+ Trưởng phòng
+ Tổng số biên chế : 14 người trong đó 5 nhân viên hợp đồng
Phòng TC-KT :
+ Trưởng phòng
+ 4 cử nhân kinh tế
Ban X quang :
+ Giám đốc
+ Phó giám đốc
+ 3 cán bộ và 12 nhân viên hợp đồng là các kỹ sư , công nhân lành nghề
Ban ĐTXN :
+ Trưởng ban
+ 10 giáo viên : 1 TS , 6 KS ,3 trợ giảng và 6 giáo viên kiêm chức
Ban cơ điện :
+ Trưởng ban
+ 8 giáo viên : 4 KS , 1 trợ giảng và 6 giáo viên kiêm chức
Ban lý thuyết :
+ Trưởng ban
+ 9 giáo viên : 4 KS , 1 CĐ , 1 GVDN , 3 giáo viên trợ giảng
Ban thiết bị hình ảnh y tế :
+ Trưởng ban
+ 5 giáo viên : 3 KS , 1 GVDN , 1 trợ giảng , và 5 giáo viên kiêm chức.
Sơ đồ phòng kế toán – tài vụ
Phòng kế toán – tài vụ
Văn thư
Kế toán
Thủ quỹ
Kế toán có nhiệm vụ : Thu nhận xử lý thông tin và cung cấp đầy đủ kịp thời chính xác các tài liệu , thông tin kinh tế phục vụ cho công tác lãnh đạo điều hành và quản lý các hoạt động kinh tế – tài chính tại đơn vị mình .
Thủ quỹ có nhiệm vụ : Quản lý quỹ tiền mặt thông qua các hoạt động thu , chi tài chính phát sinh tại đơn vị mình .
Văn thư có nhiệm vụ : Cung cấp mọi sổ sách ,tài liệu kế toán ... để phục vụ cho cô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0786.doc