A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 2
Chương 1: Những vấn đề cơ bản của HĐTM Việt – Mỹ 2
I/ Hiệp định thương mại 2
II/ Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 5
Chương 2: Thuận lợi và khó khăn khi thực hiện Hiệp định 18
I/ Thuận lợi 18
II/ Khó khăn 20
Chương 3: Giải pháp giúp doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường Mỹ 29
I/ Giải pháp từ phía Chính phủ 29
II/ Giải pháp từ phía doanh nghiệp 33
C. KẾT LUẬN 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
40 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực thi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, những thuận lợi và khó khăn đối với doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác đối tượng được bảo hộ Quyền sở hữu trí tuệ đều có lộ trình thực hiện trong bảng sau:
Lộ trình thực thi Quyền sở hữu trí tuệ theo tinh thần của hiệp định thương mại Việt – Mỹ
(kể từ ngày hiệp định có hiệu lực)
Đối tượng được bảo hộ
Thời gian thực thi
1. Quyền tác giả và quyền có liên quan
18 tháng
2. Bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã mã hóa
30 tháng
3. Nhãn hiệu hàng hóa
12 tháng
4. Sáng chế
12 tháng
5. Thiết kế bố trí mạch tích hợp
24 tháng
6.Bí mật thương mại (bí mật thông tin)
18 tháng
7. Kiểu dáng công nghiệp
24 tháng
8. Các loại giống thực vật
Theo Công ước UPOV 1991
Thời hạn bảo hộ Quyền sở hữu trí tuệ
Đối tượng bảo hộ
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
Quy định TRIPS của WTO
1. Quyền tác giả về tác phẩm nghệ thuật
Không ít hơn 30 năm kể từ khi công bố hợp pháp.
Không ít hơn 100 năm kể từ khi sáng tạo ra tác phẩm
Không dưới 50 năm kể từ công bố hợp pháp.
50 năm kể từ ngày tác phẩm được sáng tạo.
2. Người biểu diễn và người sản xuất bản ghi âm
Không quy định cụ thể thời hạn bảo hộ
Tối thiểu 50 năm kể từ ngày ghi âm hoặc từ buổi biểu diễn.
Tối thiểu 20 năm kể từ ngày chương trình phát thanh, truyền hình thực hiện.
3. Thương hiệu hàng hoá
Không dưới 10 năm, được gia hạn thêm không hạn chế số lần, mỗi lần 10 năm.
Không dưới 7 năm, sau đó có thể gia hạn thêm.
4. Kiểu dáng công nghiệp
ít nhất 10 năm
ít nhất 10 năm
5. Bằng sáng chế
ít nhất 20 năm kể từ ngày nộp đơn.
ít nhất 20 năm kể từ ngày nộp đơn.
6. Thiết kế bố trí mạch tích hợp
ít nhất 10 năm kể từ khi đăng ký
3.1.3.Chương Thương mại dịch vụ
Đây là Hiệp định song phương ta đưa riêng chương thương mại dịch vụ một cách độc lập.
Có thể nói lần đầu tiên trong một Hiệp định thương mại song phương mà Việt Nam đã ký với các nước, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có quy định về vấn đề thương mại dịch vụ thành một chương riêng.
Chương thương mại dịch vụ của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ chứa đựng 11 điều khoản và kèm theo phụ lục F và G để giải thích và cụ thể hoá nội địa thương mại dịch vụ giữa 2 nước.
a/ Khái niệm về thương mại dịch vụ:
Điều 1 chương 3 của hiệp định có nêu rõ khái niệm về hoạt động thương mại dịch vụ như sau:
Hoạt động thương mại dịch vụ là việc cung cấp một trong bất cứ lĩnh vực nào có liên quan đến thương mại:
* Từ lãnh thổ của một Bên vào lãnh thổ của Bên kia;
* Tại lãnh thổ của một Bên cho người sử dụng dịch vụ của Bên kia;
* Bởi một nhà cung cấp dịch vụ của một Bên, thông qua sự hiện diện thương mại tại lãnh thổ của Bên kia;
* Bởi một nhà cung cấp dịch vụ của một Bên, thông qua sự hiện diện của các thể nhân của một Bên tại lãnh thổ của Bên kia;
Lưu ý:
+ Các loại dịch vụ khi thi hành thẩm quyền của chính phủ không được xem là dịch vụ thương mại vì các loại dịch vụ này không thực hiện trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều nhà cung cấp.
+ Bên này hoặc Bên kia được hiểu là Bên phía Việt Nam hoặc Hoa Kỳ.
b/ Nguyên tắc phát triển hoạt động thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ;
Quan hệ song phương Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ được thiêt lập trên 2 nguyên tắc:
+ Tối huệ quốc.
+ Đối xử quốc gia.
Điều 2 chương 3 của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ nêu rõ:
Hoạt động thương mại dịch vụ của Bên này được thực hiện trên lãnh thổ của Bên kia dựa trên nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, cụ thể là “Mỗi Bên dành ngay lập tức và vô điều kiện cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên đó dành cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự ở bất kỳ nước nào khác”
Tại điều 7 chương 3 của Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có nêu rõ:
Trong hoạt động thương mại dịch vụ của Bên này trên lãnh thổ của Bên kia phải được đảm bảo thực hiện trên nguyên tắc đối xử quốc gia (trừ các lĩnh vực dịch vụ nêu trong lộ trình cam kết ở Phụ lục G).
c/ Nội dung chính của Chương thương mại dịch vụ:
* Ngay lập tức và vô điều kiện các doanh nghiệp Việt nam có thể tiến hành kinh doanh các loại dịch vụ ở thị trường Mỹ.
* Theo lộ trình nêu ở trong Phụ lục G chính phủ Việt nam sẽ mở cửa thị trường dịch vụ cho các hoạt động dịch vụ của các công dân và công ty Hoa Kỳ vào Việt Nam hoạt động trên nguyên tắc MFN và nguyên tắc NT.
3.1.4..Chương phát triển đầu tư:
Chương này gồm 15 điều.
Các nguyên tắc xác định quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ:
Tại điều 2 chương 4 của Hiệp định có nêu rõ:
Quan hệ đầu tư giữa 2 bên Hoa Kỳ và Việt Nam về cơ bản được thiết lập dựa trên 2 nguyên tắc: đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc.
* Nguyên tắc “đối xử quốc gia” trong hoạt động đầu tư được hiểu là các khoản đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, bán hoặc định đoạt đầu tư bằng các cách khác, mỗi Bên dành cho Bên khi họ hoạt động đầu tư trên đất nước mình sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các khoản đầu tư của công dân hoặc công ty của nước mình.
* Nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc” trong hoạt động đầu tư được hiểu là các khoản đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, bán hoặc định đoạt đầu tư bằng các cách khác mỗi Bên dành cho Bên kia khi họ hoạt động đầu tư trên đất nước mình sự đôí xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các khoản đầu của công dân hoặc công ty của nước thứ 3 trên lãnh thổ của mình.
Chương II: thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp việt nam khi thực thi hiệp định
I/ Thuận lợi
1.Có thể mở rộng thị trường xuất khẩu
Hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt khoảng gần 1000 triệu USD. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), sau khi Hiệp định Thương mại có hiệu lực, với việc được hưởng các thuế suất thông thường theo nguyên tắc đối xử MFN, con số trên có thể tăng gấp đôi trong năm 2002 và đạt 5 tỷ vào năm 2005. Việc mở cửa thành công thị trường Hoa Kỳ có ý nghĩa đặt biệt quan trọng, vì so với các thị trường chính khác như EU và Nhật Bản, thị trường này có yêu cầu về số lượng lớn, lại có cấp độ chất lượng khác nhau (ít “khó tính” hơn), nên các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội để thiết lập các quan hệ bạn hàng lâu dài và ổn định. Kinh nghiệm của hầu hết các nước phát triển, đặc biệt là các “con hổ” ở Châu á như Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo, hay Malaixia, đều đi lên và thành công về phát triển kinh tế nhờ xuất khẩu thành công vào thị trường Hoa Kỳ.
Khi thâm nhập vào thị trường Mỹ chúng ta có nhiều khả năng và tiếp cận công nghệ hiện dại, nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Ngoài ra , với mức thuế xuất nhập khẩu giảm từ 40 – 50% xuống còn 3 – 4%, xuất khẩu Việt Nam sẽ thuận lợi khi sang thị trường lớn nhất thế giới này.
2. Tạo ra động lực thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là năng lực tồn tại và vươn lên trên thị trường cạnh tranh của doanh nghiệp về một loại sản phẩm dịch vụ nào đó, nói cách khác, đó là khả năng duy trì (hay tăng trưởng) lợi nhuận và thị phần trong nước và quốc tế đối với một hay nhiều sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp.
Khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được thực thi thì sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp xúc với một thị trường lớn nhất thế giới, ở đó có rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực. Và các doanh nghiệp sẽ phải nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm cách hạ giá thành sản phẩm, để có khả năng cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại của Hoa Kỳ. Cũng nhờ vậy mà doanh nghiệp sẽ ngày càng lớn mạnh, tạo được uy tín trên thị trường Mỹ cũng như trên thế giới.
3. Cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Cơ hội lớn nhất là thông qua việc thực hiện các cam kết trong hiệp định, Việt Nam có điều kiện hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm tạo dựng một môi trường đầu tư có tính hấp dẫn và cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Việc dành cho nhà đầu tư Hoa Kỳ môi trường đầu tư thuận lợi cũng tạo điều kiện cho Việt Nam thu hút đầu tư từ nước khác.
Hiệp định tạo cơ sở để Việt Nam phát triển một nền kinh tế lành mạnh có cạnh tranh, đòi hỏi của Hiệp định là xoá bỏ các phân biệt đối xử có lợi cho nền kinh tế quốc doanh, và do đó, tạo “sân chơi” bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Việc Mỹ và nước ngoài đầu tư vào các ngành kinh tế trong nước sẽ tao cạnh tranh giảm giá thành do xoá bỏ độc quyền, có lợi cho người tiêu dùng và giúp Việt Nam có cơ hội phát triển, nắm thông tin, mở rộng thị trường ra nước ngoài nhờ đi vào công nghệ thông tin nhanh chóng hơn do giảm giá, cầu tăng. Nó giúp làm trong sạch thị trường tài chính, tín dụng của Việt Nam: đồng thời buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực đầu tư, không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tiếp thu công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, đổi mới phương thức quản lý dể tăng khả năng cạnh tranh của mình.
Hiệp định được thực thi sẽ mở cho Việt Nam một thị trường rộng lớn do thuế nhập khẩu hàng hoá giảm. Thuế nhập khẩu nói chung giảm từ 40 – 60% xuống còn 3%. Ngay lập tức việc giảm thuế có lợi cho ngành sản xuất quần áo, giầy dép. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những ngành này tăng đáng kể vì các nước có vốn muốn tận dụng lợi thế nhân công rẻ ở Việt Nam để sản xuất hàng hoá xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Việc thực thi Hiệp định sẽ làm cho mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ tiếp tục được cải thiện và phát triển về mọi mặt, mở ra cơ hội phát triển du lịch, văn hoá, giáo dục - đào tạo, giúp Việt Nam khai thác có hiệu quả tiềm năng về vốn và chất xám của lực lượng Việt kiều đang làm ăn sinh sống tại Mỹ phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực trên.
II/ Khó khăn
Việc ký kết Hiệp định mang nhiều lợi ích thiết thực, lâu dài. Tuy nhiên, giống với trường hợp tương tự của tất cả các nước phát triển khác, không ít những thách thức được đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
1. Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận hệ thống pháp luật, tập quán, thông lệ của Mỹ.
Pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam khác nhau rất nhiều. Hiểu được hệ thống pháp luật Hoa Kỳ,nhất là nắm được hệ thống án lệ của họ trong tranh chấp thương mại không phải điều đễ dàng. Ngoài ra, so với những quy định của Hiệp định thì chúng ta còn phải tiến hành công việc nghiên cứu, khảo sát công phu để một mặt hoàn thiện hệ thống pháp luật của ta cho phù hợp với những điều khoản mà chúng ta cam kết, mặt khác để nắm bắt được hệ thống pháp luật Hoa Kỳ về thương mại hàng hoá, quyền sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ, đầu tư để triển khai Hiệp định cho tốt.
Ngoài ra, người Mỹ rất sợ những đối tác không hiểu luật. Vì vậy, theo ông Bùi Kiến Thành, Cố vấn cao cấp của Công ty thương mại dịch vụ (KHM) của Mỹ chi nhánh tại Việt Nam thì phải tính đến cả quá trình tồn tại của sản phẩm đó chứ không phải bán trao tay xong là xong. Một siêu thị ở Mỹ sau khi bán đi một đôi giầy, nhưng 3 tháng sau khách hàng vẫn có quyền trả lại chỉ vì một lý do nào đó, thậm chí chỉ vì họ không thích. Họ (siêu thị) biết chấp nhận một người phi lý để thuyết phục hàng triệu người phi lý khác. Đó là văn hoá tiếp thị. Doanh nghiệp Việt Nam khi xâm nhập vào thị trường Mỹ cũng phải biết tâm lý của thị trường Mỹ. Cũng theo ông Bùi Kiến thành thì Mỹ hiện có hơn một triệu luật sư. Công ty nào của Mỹ thì cũng có tư vấn trước, rà soát trước. Cái gì của Mỹ cũng dựa trên pháp luật. Nừu không đáp ứng được điều này thì sẽ rất khó làm ăn với người Mỹ được lâu dài. Mình không có các luật sư tư vấn thì sẽ đứng trong tình trạng hết sức khó khăn. Họ sẽ lo sợ mà bởi bên đối tác không hiểu biết gì hết mà vẫn cứ ký. Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp TS. Nguyễn Đình Lộc thì chưa kể các văn bản do địa phương ban hành, riêng ở cấp Trung ương sẽ phải điều chỉnh khoảng 130 văn bản pháp luật và một số điều ước quốc tế phải gia nhập hoặc sửa đổi, bổ sung những hạn chế bảo lưu.
Bộ trưởng thương mại Vũ Khoan cũng đã lưu ý các doanh nghiệp Việt Nam là phải tổ chức tìm hiểu pháp luật Mỹ.Vì Hoa Kỳ là một nước rất chú trọng pháp luật. Họ có luật liên bang, đồng thời có luật của từng bang, do đó luật lệ khá phức tạp. Nếu ta không tìm hiểu kỹ thì đường vào thị trường Mỹ rất khó khăn.
Về cơ chế quản lý, có sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Ví dụ trong lĩnh vực bản quyền và xuất bản, tại Việt Nam, tất cả các nhà xuất bản đều cần có giấy phép của Chính phủ. Vì vậy, Mỹ có thể buộc Chính phủ Việt Nam có trách nhiệm đối với bất cứ mọi vi phạm bản quyền. Trong khi đó tại Mỹ, xuất bản không đòi hỏi giấy phép của Chính phủ. Vì vậy, Chính phủ Mỹ sẽ dễ dàng từ chối mọi trách nhiệm đối với việc vi phạm bản quyền ở Mỹ.
Doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm theo dõi thực hiện Hiệp định gặp bất lợi do chưa tìm hiểu hết môi trường pháp luật của Mỹ. Hệ thống luật nhập khẩu của Mỹ nhằm bảo hộ kinh tế nội địa, cho phép thiết lập cơ chế để công dân và doanh nhân Hoa Kỳ có quyền được quyền khiếu nại khi bị hàng hoá của nước ngoài làm thiệt hại và cho phép Chính phủ Mỹ được đơn phương áp dụng biện pháp chống lại như tăng thuế, hạn chế số lượng nhập khẩu, trừng phạt kinh tế, cấm vận Luật chống độc quyền và pháp luật sở hữu trí tuệ của Mỹ cho phép khởi tốhình sự bên cạnh việc khởi tố dan sự và cũng cho phép các công dân, doanh nghiệp có quyền khiếu nại nếu bị vi phạm. Luật về trách nhiệmn của nhà sản xuất đối với sản phẩm cho phép công dân có quyền khiếu nại cá nhân hoặc tập thể đòi nhà sản xuất bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra với mức gấp nhiều lần thiệt hại thực tế. Luật chống hối lộ quan chức nước ngoài được áp dụng cả ở trong và ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ. Luật hình sự Hoa Kỳ có nhiều điểm khác với luật hình sự và thực tiễn xét xử ở Việt Nam, điển hình là ở trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân và không miễn trừ chế độ trách nhiệm của cá nhân liên quan trực tiếp tới hành vi phạm tôi của pháp nhân. Với trên 50 đạo luật về môi trường và hàng loạt quy định của Cục bảo vệ môi trường, Chính phủ Mỹ có cơ sở để ban hành các luật hạn chế nhập khẩu hoặc trừng phạt các công ty nước ngoài làm ăn ở Mỹ mà không hiểu các quy định về môi trường. Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có Hiệp định chống đánh thuế trùng, vì vậy doanh nghiệp Việt Nam có thể bị đánh thuế thu nhập 2 lần.
Ngoài ra một trong những vấn đề mà phía Việt Nam cần lưu ý là cơ chế bảo đảm và giải quyết tranh chấp của chúng ta còn lỏng lẻo, kém đồng bộ và nhiều chỗ mâu thuẫn.
Có Đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận về Hiệp định đã nêu vấn đề; nếu có vi phạm về Hiệp đinh song phương này thì có gì để xử lý và ai xử? Đại biểu này nêu lên những vụ việc đã xảy ra như vụ Coca – cola, cá tra, cá Basa xuất sang Mỹ và những hạn chế về biện pháp giải quyết của phía Việt Nam. Coca – cola với tiềm năng đa quốc gia hùng hậu sẵn sàng bỏ ra khoảng 6 – 7 năm để chịu lỗ trong liên doanh với Việt Nam và tách ra thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm lĩnh toàn bộ thị trường nước uống có ga tại Viêt Nam.
Khi có những tranh chấp về giải thích, Hiệp định quy định một cơ chế tham vấn hai bên. Theo cơ chế này, chưa chắc phía Việt Nam đẫ giành được thắng lợi do chưa hiẩu hết “cơ chế và pháp luật nước Mỹ” hoặc vấn đề mâu thuẫn và xung đột pháp luật còn để ngỏ với khá nhiều trường hợp có khả năng xảy ra. Trong khi đó, phía Mỹ đã có một nhóm Hỗ trợ Điều chỉnh và Cải cách thương mại ở Hà Nội (gọi là nhóm STAR: Support for Trade Adjustment and Reform – Một hình thức tư vấn cưỡng chế thi hành Hiệp đinh), nhóm STAR được Chính phủ Mỹ thuê trong 3 năm với số tiền là 6 triệu USD, theo hợp đồng ký với USAID, với nhiệm vụ chỉ nhằm giúp đỡ cộng đòng kinh danh Mỹ. Nhóm này có nhiệm vụ theo dõi, giám sát cưỡng chế việc thực thi Hiệp định từ phía Chính phủ Việt Nam và của các đối tác của cộng đồng kinh doanh Mỹ ở Việt Nam.
2. Năng lực cạnh tranh thấp của doanh nghiệp Việt Nam, một cản trở của quá trình hội nhập.
Sau khi Hiệp định có hiệu lực, Đảng, Nhà nước và chính phủ đã tạo nhiều cơ hội thuận lợi, nhưng nếu các doanh nghiệp Việt Nam không nhanh chóng tăng khả năng cạnh tranh và năng lực tiếp cận và duy trì thị trường thì cơ hội không tự biến thành nguồn lợi. Tạo thời cơ đã khó nhưng khai thác thời cơ càng khó hơn. Hiện nay nếu chỉ trông vào thuế suất ưu đãi thì không phải là tư duy của nhà kinh doanh, mà phải trên cơ sở những thuận lợi đã có phải năng động hơn nữa để tìm kiếm các cơ hội tăng năng suất và nâng cao chất lượng hàng hoá cùng loại của Mỹ. Thực ra, cơ hội được chấp nhận vào thị trường Mỹ không đơn giản và không dễ đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt nhất mới hòng đoạt dược cơ hội này. Ngay cả trong hai ngành dệt may và thuỷ sản là những ngành có khả năng vào Mỹ nhiều nhất thì đến nay cũng chỉ có 50 trong số 300 thành viên c/a Hiệp hội dệt may và 60 – 70 trong số hàng trăm thành viên c/a ngành thuỷ sản là có năng lực cạnh tranh ngay trên thị trường Mỹ. Đối với ngành công nghiệp thì chỉ 23,8% doanh nghiệp có hàng hoá xuất khẩu, 13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu còn 62,5% thì hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu. Đó là chưa kể tới hàng rào cản trở thương mại của Mỹ hạn chế việc xuất khẩu thông qua các tiêu chuẩn về lao động, vệ sinh, an toàn thực phẩm; nếu chỉ trông chờ vào thuế suất hạ, thì dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, thậm chí cả ngành nông nghiệp xuất khẩu của Mỹ sẽ đè bẹp sản phẩm Việt nam và các doanh nghiệp Việt Nam ngay trên mảnh đất của mình trước khi họ quen với luật chơi. Nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng từ sản xuất, với một thị trường gần 80 triệu dân, tức là chiếm khoảng 28,7% dân số Mỹ đang mua hàng tiêu dùng. Nói một cách khác, nếu “thắng”, Việt Nam sẽ chiếm khoảng trên dưới 1% thị phần nước Mỹ, nếu không may thì sẽ mất cả thị trường nội địa. Nếu không có sự bảo hộ nữa, người Việt Nam chắc sẽ thích hàng Mỹ nhập khẩu hơn là hàng nội địa. Trong khi đó, hàng hoá Mỹ vẫn tiếp tục nhận được trợ cấp từ chính phủ. Việt Nam sẽ không có khả năng tự vệ trước hàng hoá nhập khẩu từ Mỹ được trợ cấp lớn. Quốc hội Mỹ có thể lờ đi những vi phạm của Mỹ trong Hiệp định. Tuy vậy, Việt Nam sẽ bị trừng phạt một cách nặng nề nếu như Việt Nam tìm cách bỏ qua bất kỳ điều nào trong Hiệp định. Sau sự kiện 11-9, Mỹ đã trợ giá cho hàng không với trị giá 15 triệu USD. Mỹ hiện nay đang trợ giá cho các sản phẩm thịt và sữa, ngô, đậu nành, lạc, cam quýt và các nông sản khác theo các đạo luật nhập khẩu của Mỹ. Và Mỹ đang chuẩn bị trợ giá cho gạo nhằm tạo điều kiện để Mỹ trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Nhưng các thiết chế tài chính quốc tế đang ép Việt Nam chấm dứt sự trợ giúp của Nhà nước đối với các khu kinh tế. Việt Nam không có nguồn tài chính để bảo vệ nền công nghiệp và nông nghiệp của mình thông qua trợ giá như Mỹ. Thực thi Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, Việt nam sẽ không được dùng hàng rào thuế quan như một phương tiện bảo hộ. Các khu vực nông nghiệp và công nghiệp của Việt Nam lại không đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm Mỹ nhập khẩu vào Việt Nam vốn được trợ giá cao; hàng hoá Việt Nam khi vào thị trường Mỹ còn phải chịu sức ép cạnh tranh với hàng hoá các nước khác, nhất là của Trung Quốc và các nước ASEAN đang có ưu thế sản xuất các hàng hoá cùng chủng loại với Việt Nam.
Theo TS. Lê Đăng Doanh thì “cho đến năm 1999, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia căn cứ trên tám nhóm tiêu chí với 155 chỉ tiêu, vừa kết hợp điều tra theo mẫu ở từng nước, vừa thăm dò ý kiến của 1500 công ty trên thế giới. Tám nhóm tiêu chí của WEF gồm: độ mở của nền kinh tế, vai trò và hiệu lực của Chính phủ, sự phát triển của hệ thống tài chính – tiền tệ, trình độ phát triển công nghệ, trình độ quản lý doanh nghiệp, số lượng và chất lượng của lao động, trình độ phát triển của thể chế, bao gồm hiệu lực của cơ quan bảo vệ pháp luật, mỗi nhóm có trọng số nhất định phản ánh tầm quan trọng của từng tiêu chí đối với năng lực cạnh tranh quốc gia.
Năm 1997, Việt Nam được xếp hạng 49 trên 53 nước được xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh. Năm 1998, do các nước trong khu vực bị khủng hoảng kinh tế, Việt Nam xếp 39/53 nước; năm 1999 xếp 48/59 nước, đều là những vị trí thấp và chậm được cải thiện trong tương quan quốc tế. Cũng cần nói thêm, chỉ tiêu này chưa xét đến nhân tố khác ảnh hưởng mạnh đến thu hút đầu tư nước ngoài những quy mô của nền kinh tế và thị trường. Chẳng hạn Trung Quốc được xếp thứ hạng thấp về năng lực cạnh tranh (xếp thứ 41 năm 2000, thứ 32 năm 1999, thứ 28 năm 1998 và thứ 29/53 năm 1997), song, Trung Quốc thu hút đầu tư nước ngoài rất cao và ngày càng tăng. Cũng theo TS. Lê Đăng Doanh thì từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn là: sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài chính, quốc tế hóa, trong đó trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã tăng từ 1/9 lên 1/3. Theo cách đánh giá mới, xếp hạng của Việt Nam là 53/59 năm 2000 và năm 2001 (kết quả vừa công bố ngày 18-10-2001) xếp hạng 62 trên 75 nước. Với đánh giá như trên, có thể thấy các doanh nghiệp Việt nam chịu thiệt thòi để duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm và dịch vụ của mình vì nhiều yếu tố như khả năng tiếp cận thị trường vốn, công nghệ, ngoại tệ, chi phí của các dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng đều bất lợi so với các nước được xếp hạng cao hơn. Yếu tố Chính phủ được xếp hạng cao nhất trong khi lao động – vốn được coi là thế mạnh của Việt Nam - được xếp hạng tương đối thấp do tỷ lệ đào tạo còn thấp.
Đặc biệt, yếu tố sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ trong xếp hạng năm 2000 với trọng số đựơc nâng lên càng bộc lộ những hạn chế trong môi trường kinh doanh. Các tiêu chí như mức độ sáng tạo, năng lực chuyển giao hay tiếo thu công nghệ, khả năng khởi nghiệp để thực hiện một ý tưởng sáng tạo đều được xếp hạng thấp trong khi các yếu tố về tài chính và độ mở chưa được cải thiện. Sau khi phân tích 6 yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam (chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp; trình độ khoa học và công nghệ; chất lượng và hình thức của sản phẩm; năng suất lao động; chi phí sản xuất và quản lý; đầu tư cho nghiên cứu triển khai thương hiệu; kiểu dáng công nghiệp) TS. Lê Đăng Doanh cho biết: Kết quả của nhiều cuộc điều tra và hội thảo cho thấy doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thiếu thông tin thị trường trầm trọng, về những sản phẩm thích hợp có thể đưa ra thị trường thế giới, về các đối thủ cạnh tranh trên lĩnh vực kinh doanh. Công tác tiếp thị cũng còn rất nhiều hạn chế, ít được đầu tư. Nhiều doanh nghiệp chưa ý thức được rằng, trong kinh tế thị trường bán hàng khó hơn sản xuất ra sản phẩm đó. Không ít sản phẩm của Việt Nam có thể xuất khẩu được nếu được tiếp thị một cách nghiêm túc hay hợp tác với các công ty thương mại quốc tế trong hoạt động tiêu thụ. Theo báo cáo của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa tổ chức tốt công tác thu thập thông tin thị trường quốc tế, gặp nhiều khó khăn về ngoại ngữ, thiếu khả năng tài chính để tiếp cận với Internet ở mức giá quá cao hiện nay Vì vậy số doanh nghiệp có địa chỉ thư điện tử và sử dụng Internet để giao dich còn hạn chế, số trang chủ của các doanh nghiệp còn ít hơn và chậm được cập nhật. Nhiều doanh nghiệp chưa có thói quen phúc đáp kịp thời (theo thông lệ quốc tế là trong 24 giờ) các giao dịch qua thư điện tử làm cho đối tác nước ngoài thiếu tin tưởng.
Trình độ phát triển về thương mại điện tử thấp và tiến triển rất chậm. Chưa có luật nào về Thương mại điện tử theo luật mẫu của Liên Hiệp Quốc UNCITRAL. Các quy định về hải quan, thanh toán ngoại hối chưa thích hợp với thương mại điện tử theo các hình thức doanh nghiệp – người tiêu dùng (B2C) và doanh nghiệp – doanh nghiệp (B2B) làm cho những cố gắng của một vài doanh nghiệp tiên phong gặp không ít trở ngại.
Đối với năng lực cạnh tranh của sản phẩm Made in Vietnam. TS, Lê Đăng Doanh cho biết là trong năm 1999, trên cơ sở phân tích 40 sản phẩm và dịch vụ, Viện nghiên cứu kinh tế Trung ương đẫ chia thành 3 nhóm, nhưng hiện nay năm 2001, bên cạnh một số mặt hàng có năng lực cạnh tranh được cải thiện như thuỷ sản, rau quả, hàng thủ công, mỹ nghệ, nhiều mặt hàng khác bị giảm sút rõ rệt năng lực cạnh tranh như gạo, cà phê robusta. Các ngành khác như dệt may, da giày cũng bị cạnh tranh gay gắt, phải chấp nhận giảm giá - 20% nhưng số hợp đồng vẫn giảm sút. Linh kiện máy tính của Fujitsu lắp ráp ở Việt Nam dến năm 2001 cũng giảm năng lực cạnh tranh và đang chuyển hướng.
Những sản phẩm có khả năng cạnh tranh thuộc nhóm I là những sản phẩm nông sản hay khoáng sản chưa qua chế biến, có được lợi thế thiên nhiên, tỷ lệ giá trị gia tăng thấp. Số mặt hàng công nghiệp chế biến đều là những sản phẩm có tỷ lệ lao động cao, dựa vào lợi thế so sánh về sự khéo léo, tiếp thu nhanh của lao động, chi phí tiền công lao đọng tương đối thấp. Những ngành này đang phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt, đa số chưa có thương hiệu, chưa có kiểu dáng riêng, chưa tạo được cơ sở nguyên liệu, phụ liệu, cơ sở công nghệ và kỹ thuật cần thiết nên giá thành còn cao, tính độc đáo của sản phẩm còn bị hạn chế nhiều. Hàng thủ công mỹ nghệ có khả năng cạnh tranh tương đối tốt do có kỹ thuật truyền thống tinh sảo, hoa văn dân tộc độc đáo, song còn bị hạn chế vì chất lượng thiếu ổn định (như đồ gỗ khảm), năng lực sản xuất thủ công chưa đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn.
Du lịch Việt Nam có lợi thế rõ rệt nhờ có độ an
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0146.doc