Lời nói đầu 1
Chương I 2
1.SỰ RA ĐỜI LUẬT DOANH NGHIỆP 2
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 5
1.Phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 5
2.Đối tượng được quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp và góp vốn vào doanh nghiệp. 6
3. Thủ tục thành lập doanh nghiệp. 6
4 Các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp. 9
4.1.Chia doanh nghiệp 9
4.2.Tách doanh nghiệp 10
4.3. Hợp nhất doanh nghiệp 10
4.4. Sáp nhập doanh nghiệp 11
4.5. Chuyển đổi doanh nghiệp 12
5. Giải thể doanh nghiệp 12
6. Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp 13
Chương II 15
Thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp 15
Thành tựu và những vấn đề đặt ra 15
I. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC 15
1.Về phía các cơ quan Nhà nước, 15
Văn bản pháp luật 64
Tài liệu khác 64
69 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 840 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tiễn thi hành Luật doanh nghiệp, những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-CP ngày 3 tháng 3 năm 1999 về hàng hoá cấm kinh doanh, dịch vụ thương mại cấm thực hiện, hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Thêm vào đó, theo các Nghị định này thì có tới 4 Bộ đuợc quyền hướng dẫn về điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề này, bao gồm Bộ Công an, Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Hoặc đối với nghề y học cổ truyền, Bộ Y tế vừa có văn bản điều chỉnh việc hành nghề y học cổ truyền lại vừa có văn bản riêng điều chỉnh việc hành nghề y học tư nhân (Thông tư số 13/1999/TT-BYT ngày 31 tháng 7 năm 1999 của Bộ Y tế hướng dẩn Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân và Nghị định số 06/CP ngày 29 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ về cụ thể hoá một số điều trong Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân thuộc lĩnh vực hành nghề y). Tình trạng ấy làm cho doanh nghiệp gặp không ít khó khăn trong việc chấp hành các quy định của pháp luật. Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực đén nay, nhiều Bộ, ngành vẫn chưa ban hành được quy đinh về điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề thuộc quyền quản lý của mình. Do đó, việc đăng ký kinh doanh trong các ngành nghề này đã bị đình lại vì cơ quan đăng ký kinh doanh phải chờ hướng dẫn của cấp trên. Những bất câp này đã làm cho không ít doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Thiệt hại này không dễ gì tính được và không ai có thể bồi thường được cho doanh nghiệp.
Thêm vào đó, Nghị định số 30/2000/NĐ-CP ngày 11 tháng 8 năm 2000 về việc bãi bỏ một số loại giấy phép và chuyển một số loại giấy phép thành điều kiện kinh doanh một lần nữa trao thẩm quyền quy định các điều kiện kinh doanh đối với các ngành nghề kinh doanh cho các Bộ quản lý ngành và yêu cầu các Bộ quản lý ngành ban hành các quy định này trước ngày 1 tháng 10 năm 2000. Tuy nhiên, hầu hết các Bộ, ngành đều vẫn chưa thực hiện đúng tiến độ của Chính phủ giao.
Thứ ba, việc đăng ký kinh doanh với các ngành nghề mới.
Với sự sáng tạo không ngừng của con người , nhất là dưới áp lực của cạnh tranh trong nèn kinh tế thị trường, việc phát sinh các ngành nghề kinh doanh mới là một lẽ tất nhiên. Sự nảy sinh và phát triển của những ngành nghề kinh doanh mới chính là biểu hiện của sức phát triển và sức sáng tạo của nền kinh tế thị trường. Vì thế, về mặt pháp luật, viêc ghi nhận tinh thần “doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm” trong Luật doanh nghiệp là hoàn toàn hợp quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và trước đòi hỏi của việc chuyển sang nền kinh tế tri thức. Khi tinh thần đó đã được pháp luật thừa nhận thì đương nhiên, đối với những ngành, nghề kinh doanh mới, chưa được liệt vào danh mục ngành, nghề bị cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được tự do kinh doanh. Tuy nhiên, trong thực tế thi hành Luật doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy, để đảm bảo thực thi tinh thần ấy trên thực tế, công việc không hoàn toàn đơn giản. Hầu hết các cơ quan đăng ký kinh doanh của các địa phwơng đều rất lúng túng và ngần ngại khi phải giải quyết hồ sơ đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, nghề mới, chưa được liệt kê trong các ngành nghề kinh doanh thông thường đã từng tồn tại ở Việt Nam. Ví dụ, đối với nghề thám tử tư, dịch vụ tâm lý xã hội, dịch vụ tư vấn tình yêu, hôn nhân, gia đình, Đã có trường hợp trong thực tế, một công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoạt động trong nghề thám tử tư rồi lại bị thu hồi giấy phép. Đó là vụ một Công ty trách nhiệm hữu hạn điều hành và bảo vệ ở Hà Nội. Công ty này đựơc Sở Kế hoạch Đầu tư thành phó Hà nội cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 24 tháng 3 năm 2000 nhưng đến ngày 21 tháng 4 năm 2000 Sở Kế hoạch và Đầu tư đã ra thông báo yêu cầu công ty này ngừng hoạt động để chờ hướng dẫn của Bộ Công an, Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội cũng đã từ chối việc xem xét cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các công ty thực hiện dịch vụ thám tử tư. Nguyên nhân của vụ việc này, theo Sở Kế hoạch và Đầu tư là do các ngành nghề chưa có văn bản hướng dẫn thi hành của cấp Trung ương (?).
Thứ tư, những rắc rối mang tính “hậu đăng ký kinh doanh”
Để khai sinh được một doanh nghiệp, công việc không chỉ do cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện là xong. Theo pháp luật hiện hành, sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải tiến hành việc đăng ký thuế với cơ quan thuế nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính và phải đợi cơ quan Công an cấp con dấu thì doanh nghiệp mới có thể tiến hành giao dịch được. Rất nhiều doanh nghiệp được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh song vẫn không thể đi vào hoạt động được. Nguyên nhân là do cơ quan thuế chậm làm thủ tục đăng ký thuế và đặc biệt có tình trạng cơ quan công an chậm cấp con dấu cho doanh nghiệp hoạt động.
Theo báo báo điều tra thi hành Luật doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (phát hành tháng 12 năm 2000), cho biết, qua thực tế điều tra cho thấy, việc tiến hành thủ tục khắc dấu ỏ một số địa phương vẫn còn rất chậm. Một doanh nghiệp làm công tác tư vấn hỗ trợ thành lập doanh nghiệp cho biết: thực tế việc khắc dấu phải mất tới 21 đến 28 ngày, nếu muốn làm nhanh hơn, thì doanh nghiệp buộc phải có “cách tiếp cận khác” tương tự như vậy, việc đăng ký mã số thuế cũng còn chậm và nếu muốn được đăng ký thuế ngay thì doanh nghiệp vẫn phải chi cho “khoản tế nhị”.
7. VỀ VẤN ĐỀ GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP.
Khoản 4 điều 3 Luật doanh nghiệp quy định: “Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do các thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”. Quy định này có thể làm nảy sinh những vướng mắc trong thực tiễn. Theo quan niệm truyền thống thì tài sản là một tập hợp quyền trên vật có hiệu lực chống lại những người khác và các quyền đó có thể định giá được bằng tiền. Bộ luật Dân sự cũng quy định tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản9. Trong khi đó trong nền kinh tế thị trường, hình thức góp vốn vào doanh nghiệp là rất phong phú và đa dạng. Ngoài hình thức góp vốn bằng những tài sản theo cách hiểu truyền thống, còn có những hình thức góp vốn khác mà Luật doanh nghiệp (cũng như các văn bản hướng dẫn) hiện hành chưa có quy định cụ thể, chẳng hạn như hình thức góp vốn bằng các loại dịch vụ tư vấn pháp lý, kinh tếNgười làm viễn thông có thể góp vốn bằng dịch vụ viễn thông, người lái xe có thẻ góp vốn bằng công lao động lái xe trong công ty du lịchThành viên công ty có thể góp vốn bằng khả năng ngoại giao, bằng trí tuệ, mối quan hệ, kinh nghiệm kinh doanh của mình thông qua một dịch vụ và cũng có thể góp vốn bằng uy tín của các thành viên công ty mà không nhất thiết phải có tiền mới có thể trở thành thành viên công ty.
8. VỀ VẤN ĐỀ TỔ CHỨC LẠI DOANH NGHIỆP.
Thứ nhất, Luật doanh nghiệp quy định về sáp nhập, hợp nhất, chia, tách công ty với phạm vi rất hạn hẹp. Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có thể được chia, tách thành các công ty cùng loại; cũng như vậy việc hợp nhất hay sáp nhập công ty cũng chỉ có thể được thực hiện giữa các công ty cùng loại với nhau.
Thứ hai, Luật doanh nghiệp quy định chưa hợp lý về vấn đề chuyển đổi hình thức pháp lý của công ty. Chuyển đổi công ty là một trong những hình thức tổ chức lại công ty. Đây là một vấn đề mới lần đầu tiên được đề cập tới trong Luật doanh nghiệp. Những quy định tổ chức lại doanh nghiệp trong đó có chuyển đổi công ty đã đáp ứng được nhu cầu của các công ty, tạo điều kiện cho các công ty cải tổ, đổi mới lại cơ cấu tổ chức, loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém, trì trệ, thua lỗ kéo dài nhằm cơ cấu lại nền kinh tế. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới và phức tạp nên Luật doanh nghiệp mới chỉ quy định về việc chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần và ngược lại (Điều 109 Luật doanh nghiệp), chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên.
Việc quy định như trên đã phần nào hạn chế quyền tự do kinh doanh của chủ doanh nghiệp, giảm tính năng động của thị trường. Với quy định này, nhu cầu tổ chức lại doanh nghiệp trong nhiều trường hợp sẽ không được đáp ứng cho dù doanh nghiệp hoàn toàn có thể giải quyết tốt quyền lợi của các chủ nợ, cũng như của tập thể người lao động khi tiến hành tổ chức lại.
9.VỀ VẤN ĐỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
Gỉải thể doanh nghiệp là một thủ tục mang tính chất hành chính, hậu quả của nó là chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp trên thực tế. Giải thể trước hết là quyền của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Khoản 4 Điều 111 Luật doanh nghiệp còn quy định trường hợp giải thể bắt buộc, trường hợp này thì giải thể là một nghĩa vụ. Đó là khi doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (khoản 4 điều 111 Luật doanh nghiệp). Đây là một điểm mới của Luật doanh nghiệp so với luật Công ty năm 1990. Luật Công ty chỉ quy định về các trường hợp giải thể tự nguyện. Quy đinh về trường hợp giải thể bắt buộc là cần thiết, thể hiện tính chất cưỡng chế của Nhà nước đối với những doanh nghiệp có sự vi phạm luật dẫn đến bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (theo các trường hợp quy định tại khoản 3 điều 121 Luật doanh nghiệp). Có thể thấy rằng, có sự khác biệt rất rõ giữa giải thể tự nguyện và giải thể bắt buộc; một trường hợp do doanh nghiệp quyết định còn một trường hợp do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định bắt buộc doanh nghiệp phải giải thể vì kinh doanh vi phạm các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, điều 112 Luật doanh nghiệp lại quy định một thủ tục giải thể chung cho tất cả các trường hợp giải thể doanh nghiệp cho dù bản chất của hai trường hợp giải thể nói trên có sự khác nhau.
Về cơ chế thi hành Luật doanh nghiệp.
Một là, sự chậm chễ trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp. Thực chất, nếu so với quá trình triển khai nhiều đạo luật khác, việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp còn có phần nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, dù kết quả so sánh có khả quan hơn nhứng nếu đối chiếu với yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Điều 7) thì vẫn có thể thấy sự chưa tuân thủ triệt để đạo luật kể trên.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng không đòi hỏi việc ban hành các đạo luật không kèm theo văn bản hướng dẫn thi hành. Luật doanh nghiệp là đạo luật có tính khái quát hoá cao. Thêm vào đó, lại có rất nhiều nội dung quy định mới, thay thế cho các quy định đang tồn tại tản mạn trong rất nhiều văn bản trong hệ thống pháp luật nên để thi hành Luật doanh nghiệp, việc Chính phủ, các Bộ, ngành ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn cụ thể hóa nội dung của Luật và sửa đổi, bổ sung các quy định trong các văn bản pháp quy do Chính phủ và các Bộ, ngành ban hành trước đó là cần thiết. Chưa ở đâu trong pháp luật Việt Nam quy định nguyên tắc, nếu văn bản pháp luật gốc hết hiệu lực thi hành thì đương nhiên các văn bản hướng dẫn cũng hết hiệu lực. Vì vậy, khi đạo luật gốc đã phát sinh hiệu lực mà các văn bản hướng dẩn chưa được ban hành thì các văn bản pháp luật cũ vẫn có thể được áp dụng, điều đó làm cho đạo luật mới không phát huy hết tác dụng và gây nhiều lúng túng cho cơ quan áp dụng pháp luật.
Việc thực thi Luật doanh nghiệp trong những tháng đầu tiên cũng rơi vào tình trạng tương tự do việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể hoá Luật doanh nghiệp trễ hơn so với thời điểm Luật doanh nghiệp có hiệu lực. Luật doanh nghiệp có hiệu lực kể từ ngày1 tháng 1 năm 2000 song hai Nghị định hướng dẫn thi hành Luật về đăng ký kinh doanh và cụ thể hoá một số điều của Luật doanh nghiệp phải chờ tới ngày 3 tháng 2 năm 2000 mới được ban hành và cũng chỉ có hiệu lực từ ngày 18 tháng 2 năm 2000. Trong thực tế, nhiều quy định của Nghị định cũng chưa được áp dụng ngay kể từ ngày 18 tháng 2 năm 2000 mà phải chờ tới tận khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư ra thông tư hướng dẫn (Thông t số 03/2000/TT – KH&ĐT được ban hành vào ngày 2 tháng 3 năm 2000 và có hiệu lực kể từ ngày 17 tháng 3 năm 2000). Trong thực tế không ít địa phương phải tới khoảng nửa năm sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực mới có kế hoạch triển khai thực hiện luật.
Một số văn bản cần thiết hướng dẫn thi hành Luật vẫn chưa được ban hành. Cho đến nay vẫn còn một số văn bản quan trọng liên quan đến triển khai thi hành Luật doanh nghiệp chưa được ban hành, ví dụ như:(1) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành nghề mà nhà đầu tư nước ngoài được quyền mua cổ phần và góp vốn theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật doanh nghiệp;(2) Nghị định về xử phạt hành chính trong đăng ký kinh doanh; (3) Quy định (của Bộ Thuỷ sản) hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh thuốc thú y thuỷ sản;(4) Quy định (của Bộ Tư pháp) hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ pháp lý;(5) Quy định hướng dẫn phối hợp xác nhận và quản lý lý lịch tư pháp trong đăng ký kinh doanh
Hai là, không ít văn bản pháp luật được ban hành trong thời gian gần đây có nội dung không phù hợp, thậm chí trái với Luật doanh nghiệp. Điều đó thể hiện trong một số nội dung sau: đặt ra các loại giấy phép mới hoặc khôi phục lại một số giấy phép không cần thiết đã được bãi bỏ trong năm 2000; khôi phục lại vốn pháp định dới hình thức khác hoặc đặt ra những điều kiện mà chính những người hiện đang kinh doanh trong ngành, lĩnh vực đó mới có; đưa vào các văn bản pháp luật những quy định ngăn chặn người khác gia nhập thị trường cùng cạnh tranh với họ Điển hình là Luật kinh doanh bảo hiểm (được Quốc hội thông qua sau Luật doanh nghiệp). Trong khi Luật doanh nghiệp chỉ quy định kinh doanh bảo hiểm thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện thì theo Luật kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp muốn thành lập và kinh doanh trong lĩnh vực này cần xin phép Bộ Tài chính. Tương tự như vậy, Pháp lệnh Luật sư mới đợc ban hành gần đây cũng đưa ra quy định, theo đó các văn phòng luật sư hay các tổ chức hành nghề luật sư và dịch vụ tư vấn pháp lý chỉ phải xin phép Bộ tư pháp mà không cần đăng ký kinh doanh.
Những văn bản đó trên thực tế đang thu hẹp (hay “gặm nhấm” dần như dư luận đã cảnh báo) phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng Luật doanh nghiệp, có xu hướng cô lập Luật doanh nghiệp, phục hồi và phát triển thêm cơ chế “xin-cho”, làm xấu đi môi trường kinh doanh, đi ngược lại chủ trương đẩy mạnh cải cách cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước, góp phần làm giảm niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp đối với tính nhất quán và ổn định của luật pháp, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là, việc nhận thức và tổ chức chỉ đạo thực hiện Luật trong không ít cơ quan thuộc hệ thống cơ quan Nhà nước còn thụ động, chưa đầy đủ và kém nhiệt tình, thậm chí có nơi còn trì hoãn hoặc làm trái. Những hạn chế trong nhận thức và chỉ đạo thực hiện thể hiện trên một số điểm chính như sau:
+ Nhận thức về Luật doanh nghiệp ở cán bộ, công chức có thẩm quyền, ngay cả trong một số cán bộ lãnh đạo Bộ, tỉnh cũng còn chưa đầy đủ, chưa thống nhất. Còn không ít ý kiến, chủ yếu từ phía cơ quan quản lý Nhà nước, chưa đồng tình với những nội dung đổi mới của Luật doanh nghiệp và cho rằng Luật doanh nghiệp “quá thông thoáng”, làm cho quản lý Nhà nước “bị buông lỏng” là nguyên nhân của các hiện tượng tiêu cực như : có quá nhiều doanh nghiệp thành lập mà không kiểm soát được, “doanh nghiệp ma”, “là miếng đất màu mỡ để vi phạm pháp luật”, “doanh nghiệp đăng ký thành lập chỉ nhằm mục đích mua hoá đơn giá trị gia tăng”, “thành lập nhiều nhưng nộp thuế ít, trốn thuế là phổ biến” Từ đó đã kiến nghị sửa đổi lại Luật doanh nghiệp theo hướng hạn chế quyền kinh doanh, đặt thêm hồ sơ, thủ tục và rào cản hành chính đối với việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh Những đánh giá nói trên là chưa khách quan, chưa công bằng và thiếu căn cứ thực tiễn, bởi vì các hiện tượng nói trên đã từng xảy ra trước khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực với quy mô và phạm vi không nhỏ hơn so với hiện nay. Tuy vậy, những đánh giá đó ở mức độ nhất định đã gây nên sự chần chừ, thiếu nhất quán trong chỉ đạo thi hành đầy đủ và triệt để các nội dung của Luật doanh nghiệp.
+ Một số nơi đang có những việc làm trái với quy định của Luật doanh nghiệp, cụ thể như: tạm ngừng cấp đăng ký kinh doanh, hoặc không cấp đăng ký kinh doanh đối với một số ngành nghề kinh doanh không thuộc đối tượng cấm kinh doanh, đặt thêm các thủ tục hoặc yêu cầu nộp thêm hồ sơ trái với quy định của luật, không cấp hoặc yêu cầu rút giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp đang cạnh tranh với doanh nghiệp Nhà nước trong phạm vi địa phương...
Nhiều quy hoạch ở các địa phương không có cơ sở khoa học và thực tiễn (quy hoạch xác định cụ thể số lượng đơn vị kinh doanh và địa điểm kinh doanh; tạo ra sự bất bình đẳng về cơ hội kinh doanh, hạn chế sáng kiến kinh doanh, hạn chế huy động nguồn lực vào kinh doanh). Điều đáng nói là Thủ tướng chính phủ đã chỉ thị (Chỉ thị số 29/2000/CT-TTg ngày 31/12/2000) yêu cầu UBND các địa phương xem xét và sửa đổi lại các quy hoạch nói trên, nhưng đến nay chưa có địa phương nào thực hiện.
+ Việc thực hiện Luật doanh nghiệp ở cấp địa phương chủ yếu được “giao khoán” cho Sở Kế hoạch và đầu tư, trong đó, chủ yếu là Phòng đăng ký kinh doanh. Sự phối hợp giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư với các Sở khác, giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư với UBND quận huyện vẫn chưa rõ, còn yếu, thậm chí nhiều nơi chưa có. Việc thực hiện Luật chủ yếu mới ở khâu đăng ký kinh doanh. Trên thực tế ở các Sở và UBND cấp quận, huyện đang phát sinh thái độ thờ ơ, thiếu tinh thần xây dựng và hợp tác trong quản lý doanh nghiệp sau đăng ký. Không ít cán bộ vẫn còn ứng xử theo hướng tìm kiếm hiện tượng tiêu cực để phê phán, chỉ trích, hoặc để quy kết cho việc cấp đăng ký kinh doanh mà không hỏi ý kiến của họ hơn là tìm giải pháp cho sự hợp tác chặt chẽ, hiệu quả hơn, vừa đảm bảo hiệu lực quản lý Nhà nước đúng qui định của pháp luật, vừa hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
+ Một số cán bộ đăng ký kinh doanh cũng chưa nhận thức đúng, đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của họ trong đăng ký kinh doanh ; một phần không nhỏ cán bộ đăng ký kinh doanh đã không còn quan tâm đến nội dung hồ sơ, thậm chí biết nội dung hồ sơ là không đúng vẫn không yêu cầu cải chính, sửa đổi lại; buông lỏng việc thực hiện chức năng theo dõi giám sát đối với doanh nghiệp ngay từ khâu đăng ký kinh doanh.
Bốn là, về cơ quan thi hành Luật doanh nghiệp – những bất cập về nhân sự và cơ sở vật chất.
Cơ quan đăng ký kinh doanh tuy đã được thành lập, được bổ sung về nhân lực và thiết bị nhưng vẫn chưa thành hệ thống, thiếu về nhân lực, yếu kém về chuyên môn và phương tiện làm việc để đáp ứng yêu cầu công việc.
Một tinh thần mới trong quản lý đòi hỏi phải có bộ máy quản lý vận hành theo phương thức mới. Sự ra đời Luật doanh nghiệp, với việc áp dụng phương thức quản lý mới đối với toàn bộ nền kinh tế đòi hỏi có sự thay đổi to lớn trong hệ thống các cơ quan thực thi Luật doanh nghiệp. Hệ thống các cơ quan này không đơn thuần chỉ là các cơ quan đăng ký kinh doanh mà còn là tất cả các cơ quan cấp phép, cơ quan giám sát, kiểm tra, thanh tra các doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh (các cơ quan này tham gia vào quá trình hậu kiểm) và thậm chí là cả việc củng cố lại nền tư pháp. Thật vậy, do việc đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh cũng như do việc bãi bỏ hàng loạt giấy phép, chuyển hàng loạt giấy phép sang điều kiện kinh doanh không cần giấy phép, nhiệm vụ quyền hạn và số lượng của cơ quan quản lý hành chính liên quan đến việc thành lập và hoạt động các doanh nghiệp có sự thay đổi đáng kể đòi hỏi các cơ quan này được sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu và tổ chức nhân sự. Thêm vào đó, việc tăng cường cơ chế hậu kiểm cũng có thể phải dẫn tới việc kiện toàn lại các cơ quan kể trên.
Việc kiện toàn các cơ quan tập trung chủ yếu vào hai nội dung là kiện toàn về nhân sự (đội ngũ cán bộ làm công tác đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép, thanh tra, kiểm tra) và kiện toàn về trang thiết bị làm việc.
Việc kiện toàn đội ngũ cán bộ không hề đơn giản, bởi chúng ta đang phải đối mặt với sự thật là đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý trong các cơ quan liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp còn có nhiều bất cập, đặc biệt là sự hạn chế về trình độ chuyên môn. Theo số liệu thống kê chung về cán bộ lãnh đạo làm công tác quản lý kinh tế vĩ mô được công bố gần đây, cơ cấu độ tuổi của đội ngũ cán bộ này như sau: dưới 35 tuổi: 21,73%, từ 35 – 45 tuổi: 31,06%, trên 45 tuổi chiếm 47,18%. Trong đó 65% số cán bộ chưa được qua đào tạo lại. Những số liệu này không thể phản ánh rằng chúng ta đang có một nền hành chính hiện đại, với những cán bộ, công chức theo kịp được với những đòi hỏi của một xã hội luôn luôn đổi mới, luôn sáng tạo
Bên cạnh sự bất cập về đội ngũ cán bộ, sự bất cập về phương tiện hiện đại cho hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước cúng là một thách thức lớn. Chúng ta phải khẳng định rằng không thể áp dụng phương thức quản lý hiện đại trong khi trang thiết bị làm việc lạc hậu. Hiện tại, ngoại trừ các cơ quan đăng ký kinh doanh ở các tỉnh thành phố lớn, còn các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước khác có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp ở các địa phương đều chưa thực hiện xong việc tin học hóa quy trình quản lý và làm việc. Kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh cho thấy việc thiết lập và sử dụng mạng thông tin về doanh nghiệp đã giúp ích nhiều cho cơ quan Nhà nước, các bên có liên quan theo dõi , giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; đồng thời nâng cao được hiệu quả của công tác đăng ký kinh doanh . khi hệ thống thông tin doanh nghiệp, vận hành và kết nối với hệ thống thông tin của các cơ quan như Hải quan, Ngân hàng, Thuếsẽ cho phép các cơ quan Nhà nước nắm được thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp , là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp mà giảm được phiền hà về thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế, khó khăn nhiều khi không nằm ở kinh phí mà lại nằm ở quan niệm của người nắm kinh phí ấy, khi mà trong danh mục các hạng mục được ưu tiên đầu tư để cải thiện điều kiện làm việc ở trong các cơ quan Nhà nước, việc làm đẹp trụ sở, mua sắm phơng tiện đi lại đắt tiền được nhiều vị lãnh đạo coi là quan trọng hơn việc hiện đại hoá phương tiện làm việc, tin học hoá quy trình giải quyết công việc. Những số liệu về tình trạng cán bộ ở trên có thể lý giải phần nào cho hiện thực ấy.
Thực tế là, các phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh hiện nay mới đáp ứng yêu cầu thực hiện các nghiệp vụ đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp; chưa có điều kiện theo dõi doanh nghiệp hoạt động sau đăng ký; chưa đủ điều kiện cập nhật thông tin và đánh giá hiệu quả hoạt động chung của các doanh nghiệp; chưa đủ thế và lực để chủ động phối hợp, hoặc yêu cầu các cơ quan khác thực hiện các nhiệm vụ cần thiết trong theo dõi và giám sát doanh nghiệp sau dăng ký.
Năm là, cơ chế hậu kiểm còn nhiều bất cập.
Có thể khẳng định rằng một trong những nội dung đổi mới nhất của Luật doanh nghiệp chính là việc thiết lập phơng thức quản lý mới đối với các loại hình doanh nghiệp phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trờng định hướng xã hội chủ nghĩa thay thế cho phương thức quản lý Nhà nước vẫn còn mang nặng dáng dấp của cơ chế tiền đổi mới. Luật doanh nghiệp chấp nhận một tư duy quản lý mới trong đó xác định rõ vai trò của Nhà nước là người thúc đẩy, hỗ trợ, hậu thuẫn doanh nghiệp phát triển chứ không phải là để cai trị, áp đặt ý chí cho doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp thể hiện tinh thần: trong quản lý Nhà nước, sự thuận tiện cho người dân và cho doanh nghiệp được coi là trọng tâm ưu tiên chứ không phải là sự thuận tiện của cơ quan, cán bộ công chức Nhà nước. Với tinh thần ấy, Luật doanh nghiệp là nền tảng pháp lý quan trọng để cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp vốn đã tồn tại nhiều định kiến bất lợi cho doanh nghiệp. Phương thức quản lý mới mà Luật doanh nghiệp thiết lập thể hiện ở hai nội dung quan trọng là công dân, doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm và áp dụng cơ chế hậu kiểm đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phương thức quản lý Nhà nước kiểu mới đi vào trong cuộc sống là chuyện không giản đơn. Bởi lẽ, sự thay đổi ấy đi kèm với việc nảy sinh những vấn đề không dễ giải quyết như sau:
+ Về vấn đề thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp.
Để đảm bảo được sự quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp vận hành theo đúng mục tiêu của Nhà nước, hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp tất yếu phải được chú trọng. Điều đó lại càng đúng khi mà Nhà nước ta chuyển việc quản lý doanh nghiệp từ mô hình tiền kiểm sang hậu kiểm. Tuy nhiên, việc kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp thực sự có tính hai mặt. Mặt tích cực của nó có thể dễ dàng nhận thấy. Nhưng mặt hạn chế của nó không thể không tính đến đó là việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp luôn luôn gắn liền với các chi p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LKT080.doc