MỤC LỤC
Chương 1: TÌM HIỂU VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI 3
1.1 Tăng trưởng kinh tế 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế 4
1.1.3 Các quan điểm về tăng trưởng kinh tế 4
1.2. Tiến bộ xã hội 5
1.2.1 Khái niệm 5
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội 5
1.3. Công bằng xã hội 6
1.3.1. Khái niệm 6
1.3.2. Các thước đo về công bằng xã hội 7
1.3.3. Một số con số và bình luận 12
Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI 22
2.1 Lý luận chung về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội 22
2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà Nước 23
Chương 3: THỰC TIỄN VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GẮN LIỀN VỚI TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI NƯỚC TA HIỆN NAY 27
3.1 Những thành tựu đạt được 27
3.2 Những vấn đề còn tồn tại 30
3.3 Giải pháp góp phần hoàn thiện hơn nữa mục tiêu gắn liền tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội 32
Tài liệu tham khảo 37
37 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2877 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tiễn vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội tại nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyên môn. Năm 2004 có 58,7% nữ trong 55% tỷ lệ lao động không có chuyên môn.
Trong khi đó chỉ số phát triển của nữ ở thành phố cũng đã có những khích lệ đáng kể: Tuổi thọ của nữ năm 1999: 79,1 trong khi của nam: 71,5, đến năm 2004 tuổi thọ của nữ là 79 trong khi của nam là 73,6. Tỷ lệ nữ nhập học các cấp giáo dục năm 2004: 72,4% (trong khi tỷ lệ của nam là 77,7%). Tỷ lệ số nữ sinh viên trong tổng số sinh viên từ 39,1% năm 1998 cũng tăng lên 50,3% năm 2004. Tỷ lệ lao động nữ có trình độ cao đẳng trở lên từ 9% năm 1998 cũng tăng lên 13,8% năm 2004 (tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng trở lên trong cả nước là 9,3% năm 1998, 13,1% năm 2004). Tỷ lệ nữ trong Quốc hội khóa X (1997 – 2002): 16%; tỷ lệ nữ trong Quốc hội khóa XI (2002-2007): 23,1% (tỷ lệ nữ trong Quốc hội cả nước là 27,3%); Tỷ lệ nữ trong Hội đồng nhân dân cấp thành phố (1999 – 2004): 24,7
Mặc dù đã có nhiều khía cạnh tích cực trong mối quan hệ giới ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng khuynh hướng thiên vị giới vẫn đang tiếp tục làm tăng bất bình đẳng giữa nam và nữ được thể hiện ở một số mặt: Xét theo ngành nghề, có sự khác biệt lớn trong tỷ lệ nam giới và nữ giới có cùng thu nhập với công việc tương tự như nhau, ưu tiên tuyển nam hơn là nữ vẫn đang phổ biến, vì vậy nữ thường phải chấp nhận trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại việc; phụ nữ phải dành nhiều thời gian làm các công việc gia đình nên ít có cơ hội để tham gia vào các hoạt động đào tạo nâng cao chuyên môn; mức độ tham gia của phụ nữ trong các cấp chính quyền cấp cơ sở khá cao nhưng càng lên trên tỷ lệ này giảm dần; số lượng học sinh nữ trong độ tuổi từ 15 – 17 đang giảm so với học sinh nam…. Và sự bất bình đẳng đối với phụ nữ cũng thể hiện ở một số các lĩnh vực khó định lượng như: Tiếng nói của phụ nữ trong xã hội, quyền sở hữu đất đai và tài sản, việc tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, sự phân công lao động trong gia đình, việc thiếu quyền quyết định trong gia đình….
Báo cáo phát triển con người năm 2006 của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) công bố ngày 10/11/2006 tại Hà Nội đã xếp hạng Việt Nam ở vị trí 109 trong tổng số 177 nước về Chỉ số phát triển con người (HDI – Human Development Index). Theo nhận xét của ông John Hendra, Điều phối viên thường trú Liên hiệp quốc, điều quan trọng là mặc dù thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam thấp hơn so với Angieri, Ai Cập, Nam Phi và Guatemala nhưng HDI lại cao hơn, đó là do kết quả khá ấn tượng của Việt Nam về tuổi thọ trung bình và giáo dục:
Chỉ số phát triển con người của Việt Nam 2004 (UNDP)
Trên bình diện cả nước, thành phố Hồ Chí Minh nằm trong nhóm top 10 các tỉnh, thành có chỉ số HDI cao.
Trong khi chỉ số phát triển con người HDI đo thành tựu trung bình, chỉ số phát triển giới (GDI – Gender – related Development Index) lại điều chỉnh các thành tựu trung bình đó để phản ánh sự bất bình đẳng giữa nam và nữ theo 3 chỉ tiêu của HDI. Chênh lệch giữa phụ nữ và nam giới ở một số khía cạnh của cuộc sống sẽ được thể hiện qua GDI. Giá trị GDI của Việt Nam năm 2004 là 0,78 so với giá trị HDI tương ứng là 0,79, như vậy ở nước ta giá trị GDI bằng 99,9% giá trị HDI, tương tự GDI của thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là 0,813 so với giá trị HDI tương ứng là 0,814. Mặc dù tình hình phát triển giới của Việt Nam vẫn còn có khoảng cách đáng kể với một số nước trong khu vực. Việt Nam chỉ xếp hạng cao hơn Indonesia, Myanmar, Campuchia, Lào và Ấn Độ; còn thấp hơn nhiều so với Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc; tốc độ thay đổi chỉ số GDI cũng còn thấp hơn Campuchia, Lào, Trung Quốc và Ấn Độ.
Nguồn: UNDP (2001 – 2005)
Nhưng nếu tính theo sự phát triển bình đẳng giới giữa các tỉnh thành trong nước, chỉ số GDI đã được cải thiện khá tốt trong giai đoạn 1999 – 2004, xét theo giá trị tuyệt đối, năm 2004 Bà Rịa – Vũng Tàu có chỉ số GDI cao nhất: 0,825, kế tiếp là Hà Nội: 0,824 và thứ 3 là thành phố Hồ Chí Minh: 0,813, đáng chú ý một số tỉnh nằm trong nhóm HDI trung bình và thấp lại có tốc độ tăng GDI khá nhanh:
Thật sự các chỉ số HDI và GDI là những con số chưa thật hoàn hảo bởi vì chất lượng số thống kê còn chưa cao và thường được chỉnh sửa về giá trị và phương pháp tính, chẳng hạn về số liệu đi học có lẽ chưa phản ánh thực sự đúng thực tế vì ở nhiều tỉnh, thành tỷ lệ này phụ thuộc khá nhiều vào thời điểm điều tra. Tuy nhiên trên cơ sở số liệu có được, có thể hình dung ra được một số vấn đề khái quát về các chỉ số phát triển con người, từ đó dự báo những thách thức và xu hướng phát triển trong thời gian tương lai.
Hệ số GINI theo thành thị nông thôn và vùng, 2002,2004
Nguồn:TCTK, Điều tra mức sống hộ gia đình 2006.
2002
2004
Việt Nam
0,42
0,42
Thành thị
0,41
0,41
Nông thôn
0,36
0,37
Vùng
Việt Nam
ĐB sông Hồng
0,39
0,39
Đông Bắc Bộ
0,36
0,39
Tây Bắc Bộ
0,37
0,38
Bắc Trung Bộ
0,36
0,36
DH Nam Trung Bộ
0,35
0,37
Tây Nguyên
0,37
0,40
Đông Nam Bộ
0,42
0,43
ĐB sông Cửu Long
0,39
0,38
Tỷ lệ nghèo của VN giai đoạn (1993-2006)
Về mặt xã hội, mặc dù đời sống của người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm, nhưng chỉ số bất bình đẳng về thu nhập (Gini) ở VN còn cao, và tăng qua các năm (năm 2004 Gini là 0,423, năm 2006 hệ số này là 0,425). Hệ số Gini cao thể hiện phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo cao giữa các tầng lớp dân cư. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, thời kỳ trước năm 1990, các nước có thu nhập thấp có hệ số Gini từ 0,389 (Bangladesh) đến 0,550 Kenya, các nước thu nhập trung bình có hệ số Gini từ 0,378 (Nam Triều Tiên) đến 0,605 (Braxin), các nước kinh tế thị trường công nghiệp có tỷ số Gini từ 0,285 (Nhật ) đến 0,404 (Úc), các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa (trước năm 1990) có hệ số Gini từ 0,284 đến 0,317. Hệ số Gini của VN năm 2006 được thể hiện qua đường cong Lorenz
Lorenz của VN năm 2006, với hệ số Gini=0,425
HỆ SỐ GINI CỦA VIỆT NAM TỪ 1993-2006
1993: 0.34
1994:0.35
1995:0.357
2004:0.37
2005:0.423
2006:0.36
(1) Theo số liệu thống kê, hệ số chênh lệch thu nhập bình quân đầu người của nhóm 20% cao nhất so với nhóm 20% thấp nhất trong cả nước năm 1990 là 4,1 lần, năm 1991 là 4,2 lần, năm 1993 là 6,2 lần, năm 1994 là 6,5 lần, năm 1995 là 7,0 lần, năm 1996 là 7,3 lần, năm 1999 là 7,6 lần, năm 2002 là 8,1 lần và năm 2004 là 8,4 lần. Trong 14 năm, hệ số chênh lệch tăng lên 2,05 lần.
(2) Một chỉ số khác về khoảng cách giàu nghèo trong xã hội là tỷ trọng tổng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất (nhóm 1 và nhóm 2) trong tổng thu nhập (của cả 5 nhóm). Theo quy ước mà Bộ Tài chính sử dụng, nếu tỷ trọng này nhỏ hơn hay bằng 12% thì bất bình đẳng là cao; nằm trong khoảng 12 - 17%, là bất bình đẳng vừa; nếu lớn hơn hay bằng 17% là tương đối bình đẳng.
Khoảng cách giàu - nghèo không phải chỉ là một chỉ tiêu kinh tế. Nó còn phản ánh sự gắn kết xã hội và là một thể hiện của sự bình đẳng trong xã hội.
Số liệu thống kê cho kết quả: tỷ trọng này của Việt Nam năm 1995 là 21,1%; năm 1996 là 21%; năm 1999 là 18,7%; năm 2002 là 18%, năm 2004 là 17,4%. Trong 9 năm, sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm hộ từ tương đối bình đẳng đang tiến dần về bất bình đẳng vừa.
(3) Hệ số Gini (G) là một chỉ số khác nữa thể hiện sự bình đẳng hay bất bình đẳng trong xã hội. Hệ số G có trị số nằm trong khoảng từ 0 đến 1. G = 0 là trường hợp bình đẳng hoàn hảo, trong khi đó G = 1 là bất bình đẳng hoàn hảo.
Các số liệu thống kê Việt Nam cho thấy, hệ số Gini năm 1994 là 0,350, năm 1995 là 0,357, năm 1996 là 0,362, năm 1999 là 0,390, năm 2002 là 0,420, năm 2004 là 0,423. Sự bình đẳng đang giảm dần, sự bất bình đẳng đang lớn dần.
(4) Hệ số chênh lệch thu nhập giữa các nhóm hộ có thu nhập cao nhất và thấp nhất trong cả nước và tại một số vùng, theo kết quả điều tra của TCTK, trong các năm 1996 và 1999 như sau:
Trong mười năm trở lại đây, không tìm thấy số liệu điều tra.
Các số liệu, tính toán theo các phương pháp khác nhau, tự chúng đã nói lên khá rõ về khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và động thái của nó trong thời gian qua ở nước ta. Rất tiếc không tìm được số liệu sau năm 2004 và nhất là những năm gần đây.
Khoảng cách giàu - nghèo không phải chỉ là một chỉ tiêu kinh tế. Nó còn phản ánh sự gắn kết xã hội và là một thể hiện của sự bình đẳng trong xã hội. Nói cách khác, nó là một chỉ số vừa của môi trường kinh tế vừa của môi trường xã hội.
Xã hội cần có đông lực để phát triển. Khoảng cách giàu - nghèo ắt sẽ nảy sinh. Nhưng sự bền vững của phát triển ở tất cả các nước, và hơn thế nữa định hướng xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận khoảng cách giàu - nghèo đi vào phân cực quá một ngưỡng cho phép.
Để cử tri cả nước có điều kiện theo dõi khía cạnh này, Quốc hội và Chính phủ nên bổ sung báo cáo của mình tại kỳ họp này , và trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế xã hội hàng năm từ nay về sau, một chỉ tiêu về khoảng cách giàu nghèo trong xã hội nước ta.
Chương 2
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
2.1 Lý luận chung về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Tăng trưởng là điều kiện của phát triển, của tiến bộ, đó là tiền đề về vật chất - kinh tế để thực hiện công bằng. Một xã hội có nền kinh tế phồn vinh, giàu có phải là một xã hội đạt được và duy trì được sức tăng trưởng kinh tế, cũng như vậy, những dấu hiệu trì trệ và suy thoái, thậm chí khủng hoảng (gắn với lạm phát) phải nhận biết từ mức tăng trưởng chậm lại, giảm sút tăng trưởng. Không có một nền kinh tế tăng trưởng thì không thể có tiềm lực vật chất để tiếp tục đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, không có vốn và các nguồn lực nói chung để có thể tái sản xuất mở rộng, càng không thể có điều kiện vật chất để cải thiện, nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư.
Trong quan hệ với tiến bộ và phát triển, nếu tăng trưởng kinh tế là điều kiện và tiền đề thì tiến bộ và phát triển là kết quả và công bằng xã hội là động lực và mục tiêu của quá trình tăng trưởng, tiến bộ và phát triển. Nói một cách khác, công bằng xã hội đóng vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, là nhân tố bảo đảm ổn định và lành mạnh xã hội, kể cả xác lập ổn định tích cực của chính trị, là động lực đồng thời là mục tiêu của đổi mới để phát triển đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công bằng xã hội, trên thực tế, vừa là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn định xã hội, vừa là một động lực để tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, cần phải dựa vào công bằng xã hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời phải kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Có như thế mới vừa đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Để thấy rõ mối tương quan ấy, chúng ta cần nghiên cứu, xem xét những biến đổi trong cấu trúc xã hội và phân tầng xã hội. Chuyển sang kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá - đó là những tác nhân quan trọng thúc đẩy những biến đổi trong cấu trúc xã hội được thể hiện một cách điển hình trong hiện tượng phân tầng xã hội theo mức sống của các nhóm dân cư. Hơn nữa, trong hiện trạng này còn chứa đựng và phản ánh rất nhiều biến đổi xã hội khác.
Tăng trưởng là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cải thiên mức sống: Từ những năm 70 trở lại đây. Hầu hết các nước đang phát triển đều ưu tiên hàng đầu từ tăng trưởng nhanh kinh tế sang các vấn đề khác rộng hơn là xóa đói giảm nghèo, giảm bất bình đẳng. Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhưng mức sống người dân không được cải thiện, phần lợi ích tăng lên chủ yếu rơi vào tay người giàu, dẫn đến bất bình đẳng ngày càng tăng. Nguyên nhân xuất phát từ việc phân phối thu nhập. Hình thức phân phối thu nhập được sử dụng hầu hết các nước đang phát triển là phân phối theo chức năng yếu tố đóng góp (sở hữu nhiều tư bản sẽ có thu nhập càng lớn). Phân phối thu nhập bất bình đẳng thì tổng cầu trong nền kinh tế bị người giàu có thu nhập chi phối, xã hội có xu hướng tập trung sản xuất hàng hóa xa xỉ phục vụ người giàu mà bỏ qua hàng hóa khác. Ngược lại phân phối thu nhập phân phối, xã hội sẽ hướng sản xuất các hàng hóa thiết yếu nhiều hơn phục vụ nhu cầu đại bộ phận dân chúng.
Do đó tăng trưởng chỉ tạo điều kiện vật chất dể giảm nghèo vè tài sản, trí tuệ, bệnh tật...chứ chưa đủ để cải thiện mức sống người dân. Muốn cải thiện thì tăng trưởng phải đi đôi với vấn đề công bằng được thực hiện thông qua phân phối lại dưới hình thức thuế và trợ cấp xã hội.
2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà Nước
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không phải là nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế .
Tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề xã hội. Không thể có công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội mà con người ốm yếu về thể chất, trình độ dân trí thấp và một bộ phận đáng kể lực lượng lao động chưa được đào tạo, thất nghiệp, nghèo đói. Ngay cả trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội cũng luôn là một đòi hỏi khách quan, tất yếu.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, lực lượng sản xuất thấp kém, không đồng đều, cơ cấu dân số đông, việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội ở nước ta phải tính đến mục tiêu phát triển kinh tế. Để công bằng xã hội có nội dung thực chất và tạo động lực phát triển kinh tế, cần dứt khoát từ bỏ phương thức phân phối bình quân, cào bằng, bao cấp; khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước; xoá bỏ lối quản lý xin - cho... Chẳng hạn, trong chiến lược xóa đói giảm nghèo ở nước ta, một mặt, cần tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội trong các chương trình xóa đói giảm nghèo; mặt khác, cần tăng cường các hoạt động giám sát, định hướng, tổ chức giúp người dân thoát nghèo một cách vững chắc theo kiểu "dạy người dân cách tự câu lấy cá cho mình".
Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ.
C.Mác đã chỉ rõ, công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Điều này có nghĩa là những người khác nhau nhưng cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ như nhau. Nói cách khác, xã hội đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau. Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định dựa trên những cống hiến của họ đối với xã hội. Công bằng xã hội cần được hiểu như vậy để tránh lặp lại lối phân phối bình quân chủ nghĩa mà thực chất là cào bằng, không công bằng đã xuất hiện ở nước ta thời kỳ trước đổi mới. Cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề công bằng xã hội như vậy nhằm khuyến khích mọi người đóng góp nhiều hơn cho xã hội, tức là tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Mặt khác, những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh tế, như những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục,... cũng cần và phải tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động được hưởng lợi ích tương xứng, Nhiều người đã đóng góp sức lực, trí tuệ và hy sinh xương máu trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong khi thi hành nhiệm vụ xã hội cũng phải được xã hội bù đắp một cách thoả đáng. Giải quyết vấn đề này không chỉ dừng ở mức độ đạo lý, mà nó phải mang tính pháp lý, được xã hội thừa nhận.
Ngoài ra, Đảng ta cũng chủ trương rằng, để có công bằng xã hội, cần thiết lập và bảo đảm sự công bằng trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội, như nguồn vốn, tài nguyên, thông tin, kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế cũng như các cơ hội tìm kiếm thị trường và việc làm...
Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã cụ thể hóa tinh thần này trên từng lĩnh vực. Về kinh tế, Đảng ta chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu theo luật pháp, tạo cơ hội để các hộ nghèo thoát đói nghèo một cách bền vững, khắc phục tình trạng bao cấp, tư tưởng ỷ lại; tiếp tục cải cách chính sách tiền lương. Về mặt y tế, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe, xây dựng và hoàn thiện các chính sách trợ cấp, bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong khám chữa bệnh, chú trọng triển khai các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng các dịch vụ y tế ngoài công lập... Về giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng... Trên từng lĩnh vực, các địa phương phải chủ động đề ra và thực hiện những bước đi, mục tiêu và các giải pháp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng vùng, miền.
Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người.Con người không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực để phát triển xã hội mới. Xây dựng xã hội mới chính là để phát triển con người toàn diện; ngược lại, trong số các nguồn lực để xây dựng xã hội mới, con người là vốn quý nhất. Trong thời đại ngày nay, muốn tăng trưởng kinh tế phải quan tâm giải quyết vấn đề công bằng xã hội, tạo điều kiện cho con người có thể phát huy mọi năng lực và hưởng thụ xứng đáng những thành quả của chính mình. Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta nhấn mạnh việc thực hiện chỉ tiêu GDP phải gắn với chỉ tiêu HDI trong suốt quá trình phát triển và trong từng chính sách xã hội. Như vậy, có thể nói, tăng cường đầu tư cho con người là cơ sở để thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội một cách có hiệu quả, thiết thực.
Thứ năm, phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động xã hội là nhân tố cơ bản đảm bảo kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Công bằng xã hội là vấn đề của quan hệ lợi ích, lấy tăng trưởng kinh tế làm tiền đề, nhưng không phải là hệ quả trực tiếp của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tác động đến việc phân phối lợi ích thông qua những khâu trung gian; trong đó, trước hết phải kể đến cơ chế kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước.
Thị trường chỉ góp phần thực hiện công bằng xã hội theo cách thức riêng của nó, cụ thể là bằng cách phân phối lợi nhuận theo quy luật của thị trường. Theo đó, người có đóng góp nhiều thì hưởng lợi nhiều, giỏi thắng kém thua và nhờ vậy, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm nhất quán của Đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, việc phân phối thu nhập được thực hiện không chỉ theo lao động, mà còn theo mức độ đóng góp các nguồn lực khác, như vốn, tài sản, đất đai vào tăng trưởng kinh tế, trong đó phân phối thu nhập theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu, và như thế được coi là công bằng. Tuy vậy, đối với một thị trường chưa hoàn hảo, còn có độc quyền, có cạnh tranh bất bình đẳng thì nguyên tắc phân phối của thị trường cũng chưa phải đã là công bằng. Ngoài ra, hiện nay, ở nước ta, còn nhiều đối tượng có những khiếm khuyết về sức khỏe, năng lực, trí tuệ, còn nhiều khu vực dân cư các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa kinh tế hàng hóa chưa phát triển… mà sự phân phối của thị trường không đến được. Trong điều kiện như vậy, sự điều tiết của “bàn tay hữu hình” - Nhà nước là sự can thiệp cần thiết, bảo đảm cho tất cả mọi người đều được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến của họ cho xã hội trên nhiều lĩnh vực mà thị trường không làm được. Vì vậy, tăng cường vai trò của nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là xu hướng tất yếu, là một biện pháp đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ đạo tích cực đẩy mạnh xã hội hóa trong giáo dục, y tế và các dịch vụ công cộng khác với phương châm không bao cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu tổng quát. Không nghi ngờ gì nữa, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những tiêu chí cơ bản nhất cần phải đạt tới. Thực tế cho thấy, tăng trưởng kinh tế có thể tạo cơ sở để thực hiện công bằng xã hội và ngược lại, nó cũng có thể làm cho công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng hơn, vì vậy nó cũng ảnh hưởng tới các vấn đề khác của xã hội. Cũng như vậy, việc thực hiện công bằng xã hội không chỉ thể hiện tính nhân văn của xã hội, mà còn có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Quan hệ giữa chúng không phải là đồng thuận và có tính tự phát. Hiệu quả của mối quan hệ này ở nước ta hiện nay được phát huy đến đâu - điều đó không chỉ phụ thuộc vào tính tất yếu khách quan của nền kinh tế, mà còn phụ thuộc vào quan điểm chỉ đạo của Đảng và mức độ hiện thực hóa các quan điểm đó trong thực tiễn cuộc sống
Chương 3
THỰC TIỄN VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GẮN LIỀN VỚI TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1 Những thành tựu đạt được
Qua 20 năm (1986 - 2006) thực hiện chính sách Đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 khởi xướng, chúng ta đã có những đổi mới quan trọng về nhận thức mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể đã chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích tập thể một cách chung chung, trừu tượng; thi hành chính sách phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân - cào bằng đã từng bước thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất - kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy, công bằng xã hội ngày một thể hiện rõ hơn. Đã coi phát triển giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tạo điều kiện để ai cũng được học hành; có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo. Nhìn chung, mối quan hệ giữa tăng trương kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết có hiệu quả. Qua 20 năm đổi mới, nền kinh tế luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy giảm và phát triển tương đối toàn diện.
Về tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,51. Kết quả thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) ước tính GDP tăng bình quân 7,2%/năm (năm 2009 - 2010, ước theo kế hoạch của Chính phủ); GDP tuyệt đối tăng 2 lần; GDP/đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng 1.000 USD. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng đáng kể: ). Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, Việt Nam đặt mục tiêu tăng GDP 5%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế 2009 nhích dần qua mỗi quý, đưa cả năm lên 5,32%, cao hơn kế hoạch đề ra. Tổng cục Thống kê nhận định kinh tế Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Số liệu do Tổng cục Thống kê vừa công bố cho thấy, trong quý IV, GDP tăng 6,9%, kéo tốc độ cả năm vượt mức 5,2% mà các cơ quan dự báo kinh tế đã ước tính. Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP đã giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng GDP đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 20% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố tăng trưởng tổng hợp (TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 28% (giai đoạn 2006 - 2010
Các số liệu trên cho thấy, hiệu quả quản lý nền kinh tế đất nước được nâng cao trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục và thuộc nhóm "thị trường mới nổi" có nhiều tiềm năng; vị trí kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể.
Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt
Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2007, 60% tầng lớp dân cư nước ta có mức sống từ trung bình trở xuống chỉ chiếm 36,7% tổng chi tiêu của cả nước và tiếp tục giảm còn 35,5% vào năm 2006; trong khi đó, 20% tầng lớp dân cư giàu nhất chiếm 41,8% (năm 1993) và tăng lên 43,3% (năm 2006) tổng chi tiêu của cả nước.
Do kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối khá và việc điều chỉnh mức lương tối thiểu (từ 180 nghìn đồng cuối năm 2000 lên 350 nghìn đồng năm 2005) cùng với việc triển khai chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn, tạo việc làm, xoá đói giảm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.doc