Lời mở đầu 1
Chương 1.Tổng quan về chính sách thương mại nội địa và quốc tế của Indonesia 3
1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 3
1.2 CÁC HOẠT ĐỘNG TMNĐ VÀ TMQT 3
1.2.1 Các hoạt động TMNĐ 3
1.2.2 Các hoạt động thương mại quốc tế. 3
1.3 VAI TRÒ VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TMNĐ VÀ TMQT 4
1.3.1 Vai trò của TMNĐ và TMQT 4
1.3.1.1 Vai trò của TMNĐ 4
1.3.1.2 Vai trò của TMQT 4
1.3.2 Mối quan hệ giữa TMNĐ và TMQT 5
Chương 2 : Thực trạng áp dụng chính sách TMNĐ và TMQT của Indonesia 6
2.1 MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẤT NƯỚC INDONESIA 6
2.1.1 Đất nước 6
2.1.2 Hệ thống chính trị 7
2.1.3 Kinh tế Indo 9 tháng đầu năm 2008 8
2.2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA INDONESIA 11
2.2.1 Thực trạng thương mại nội địa 11
2.2.1.1 Một vài thông số liên quan 11
2.2.1.2.Chính sách trong TMNĐ 13
2.2.1.3. Các xu hướng và vấn đề then chốt trong TMNĐ 14
2.2.1.4 Một số khó khăn của doanh nghiệp sản xuất trong thị trường nội địa 17
2.2.2 Thực trạng thương mại quốc tế 17
2.2.2.1 Tình hình xuất- nhập khẩu của Indo 17
2.2.2.2 Các chính sách trong thương mại quốc tế 21
2.2.2.3.Chính sách trong một số ngành cụ thể 25
2.3 QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – INDONESIA 26
2.3.1 Quan hệ giữa 2 nước 26
2.3.2 Quan hệ trao đổi thương mại giữa 2 nước 9 tháng đầu năm 2008 27
2.3.2.1 Xuất khẩu 28
2.3.2.2 Nhập khẩu: 29
2.3.3.Những thuận lợi của hoạt động thương mại của Việt Nam vào Indonesia 31
2.3.4 Những khó khăn trong hoạt động thương mại của Việt Nam vào 31
Indonesia 31
Chương 3: Một số giải pháp thực hiện và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 33
3.1 Một số giải pháp thực hiện chính sách thương mại 33
3.2 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 35
Kết luận 39
Danh mục tài liệu tham khảo 40
50 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng áp dụng chính sách thương mại nội địa và quốc tế của Indonesia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bồi thường những khoản tổn thất cho người tiêu dùng khi người tiêu dùng sử dụng hàng hóa dịch vụ không tốt được cung cấp bởi các doanh nghiệp hay người bán này. Bộ luật dựa trên nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa người bán và người mua. Theo bộ luật, những người nhập khẩu hàng hóa sẽ phải chịu trách nhiệm nếu hàng hóa đó không được cho phép nhập khẩu bởi một cơ quan hay đại diện của nhà sản xuất nước ngoài. Theo luật No.23 ban hành năm 1992 về sức khỏe, các sản phẩm thực phẩm được phép nhập khẩu yêu cầu phải có mã số đăng ký từ tổ chức kiểm định thực phẩm trước khi phân phối vào thị trường nội địa.
2.2.1.3. Các xu hướng và vấn đề then chốt trong TMNĐ
Trong giới hạn của thị phần thị trường, tài khoản của các nhà bán lẻ ở vào khoảng IDR 35.5 nghìn tỉ, dựa trên mạng lưới 2815 cửa hàng trên toàn Indonesia. Trong khi những cửa hàng bán lẻ hiện đại tập trung chủ yếu ở Java ( 87.5 % hoặc 2595 cửa hàng), thì những cửa hàng bán lẻ truyền thống lại trải rộng ngoài vùng Java với khoảng 12.5% tương đương với 378 cửa hàng. Nơi tập trung lượng lớn nhất các cửa hàng bán lẻ là Jabotabek với khoảng 1633 cửa hàng ( chiếm khoảng 54.5 % ). 10 nhà bán lẻ lớn nhất được ước tính chiếm khoảng 70% thị trường, trong đó Matahari chiếm thị phần lớn nhất với 13.5%, tiếp theo là Marko 12%, Alfa 8.5%,Ramayana 8.5% và Carrefour 7.6% ( số liệu chỉ mang tính ước tính ).
Doanh thu 1 số siêu thị lớn trong thị trường nội địa Indonesia
Siêu thị
Doanh số ( tỷ IDR )
Matahari Putra Prima
5980
Makro Indonesia
5396
Alfa retailindo
3769
Ramayana Lestari Sentosa
3650
Carrefour Indonesia
3504
Hero supermarket
2948
Indomacro Prismatama
2263
Intica Krawala Corporation
2033
Goro Bhatara Sakti
1170
Lion super Indo
985
Độc quyền các cửa hàng: Kể từ đầu 2000 đã có một xu hướng mua sắm tại các cửa hàng độc quyền. Cửa hàng như Giordano, Levi's, G2000, và rất nhiều các thương hiệu sản phẩm hàng hóa thể thao như Adidas, Nike và Reebok đang lên mạnh mẽ mở các cửa hàng trong thành phố lớn ở Indonesia. Ngoài ra, các cửa hàng đầu trang thiết kế như Prada và Louis Vuitton đã mở cửa hàng trong khu mua sắm cao cấp bảo hiểm.
Việc tăng số lượng hypermarkets: Trong 5 năm qua, Hypermarkets đóng một vai trò quan trọng. Carrefour, Hypermart và Giant dẫn đầu trong ngành công nghiệp. Trong quá khứ, trên thị trường bị chi phối bởi cửa hàng bách hóa và siêu thị của địa phương như Matahari, Rimo, Hero siêu thị, Indomart, vàng và Gelael Truly. Trải qua thời gian, vai trò này đang được thực hiện bởi những siêu thị. Matahari đã trở thành một hypermart, trong khi Hero đã được thực hiện trên của Giant.
Nhãn riêng bởi Hypermarket: Hypermarkets đã bắt đầu bán hàng cho các nhãn của riêng mình, đặc biệt là đối với các sản phẩm có rủi ro thấp, dễ dàng để sản xuất, có ít khách hàng trung thành và đáp ứng các nhu cầu cơ bản. Với những nhãn hiệu riêng của mình hypermarket có thể cung cấp mức giá thấp hơn. Tư nhân phổ biến nhất là các nhãn cho các giấy, bông, sợi, sạch, bao nhựa, bao bì, gạo, dầu nấu ăn và các loại thực phẩm đông lạnh. Một số thậm chí có hypermarkets riêng của họ nhãn điện tử gia dụng và thời trang may.
Xu hướng phát triển đến nhượng quyền thương mại: Xu hướng này bắt đầu vào giữa 1990 và đã được giới thiệu của Indomart, rồi sau đó sử dụng của các nhà bán lẻ khác. Mitra Adi Perkasa (MAP) là một trong những hoạt động mua, có giấy phép cho Sogo, Debenhams, cửa hàng hàng đầu (Phòng Nghiệp), Kinokuniya (sổ lưu), Starbucks, Krispy Kreme và các nhãn hiệu thời trang may như zara, Tiếp và Massimo Dutti. MAP chiếm không gian bán lẻ lớn và đã trở thành người thuê nhà của một số phố buôn bán sang trọng ở jakarta và Surabaya.
Tăng thị phần của các nhà bán lẻ nước ngoài : việc các nhà bán lẻ nước ngoài tiếp tục thâm nhập vào thị trường Indonesia, những nhà bán lẻ nội địa phải nỗ lực để cạnh tranh. Và cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn sau cuộc tổng tuyển cử chung năm 2004. 2003 ,các nhà bán lẻ nội địa chiếm 74.3% thị phần, trong khi các nhà bán lẻ nước ngoài chiếm 25.7%. Nhưng con số này đã thay đổi vào năm 2007, các nhà bán lẻ nước ngoài sẽ tăng thị phần của mình lên mức 31.1% trong khi thị phần các nhà bán lẻ nội địa giảm xuống còn 68.9%.
Các sản phẩm tiêu dùng
+ Địa phương mua lại thương hiệu / công ty của multinationals: Trong vài năm qua kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998, có một xu hướng phát triển kinh doanh và mua lại thương hiệu ở Indonesia. Các ví dụ bao gồm đầu trang mua bán nước đóng chai, Aqua của DANONE; việc mua lại phần lớn stake in soy sauce-maker của công ty ABC HJ Heinz; Ades mua lại công ty nước đóng chai của Coca-Cola Co; mua lại của các công ty thuốc lá lớn thứ ba hm Sampoerna của Philip Morris, và mua lại của một số địa phương dẫn đầu các thương hiệu như Bango, Sariwangi, Taro, Buavita & Gogo nước ép trái cây của công ty Unilever Indonesia. Với việc mua lại các đa được truy cập vào các địa phương trên thị trường và phân phối
+ Indonesia, với dân số hơn 220 triệu người, là thị trường tiềm năng lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á. Với sự tự do thương mại khu vực Asean, Indonesia sẽ trở thành một trong những cơ sở xuất khẩu tới các nước ASEAN.
Việc tăng chi phí sản xuất và khả năng vượt qua trên cho khách hàng: Chi phí ngày càng tăng ở hầu hết các lĩnh vực, bao gồm cả việc bán lẻ và người tiêu dùng của khu vực. Điều này đặc biệt đúng với những quyết định gần đây của chính phủ tăng giá nhiên liệu và giá điện. Là một tác động làm tăng chi phí trong giao thông vận tải, lương và các chi phí. Các vấn đề phải đối mặt của các nhà sản xuất là bao nhiêu có thể được thông qua cùng với những khách hàng mà không gây tổn hại đáng kể nhu cầu.
Một số doanh nghiệp bán lẻ nội địa đã bắt đầu khôi phục lại vị trí của mình trên thị trường. Matahari đã quay trở lại khung Galeria, cùng với Mega M dưới thương hiệu “ Matahari”. Động thái này tập trung chủ yếu vào các tầng lớp trung lưu trên thị trường. Năm 2003, Matahari mở một trung tâm mới dưới hính thức siêu thị lấy tên là “ khu mua sắm Matahari”. Tương tự như vậy, So Rimo, doanh nghiệp mà trước đây thường hướng tâm điểm vào giới thượng lưu thì hiện tại cũng đang tập trung vào tầng lớp trung lưu trên thị trường. Chiến dịch được thực hiện bởi Matahari, So Rimo, và Hero này đã tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường trung và hạ lưu, một thị trường nhiều tiềm năng.
2.2.1.4 Một số khó khăn của doanh nghiệp sản xuất trong thị trường nội địa
- Nguy cơ cao về tình hình chính trị: một trong những trăn trở lớn nhất của các thương nhân trong nước cũng như nước ngoài về việc mở rộng hoạt động tại thị trường Indonesia là đất nước này có nguy cơ cao về tình hình chính trị bất ổn.
Tuy nhiên những nhà bán lẻ này vẫn có cái nhìn rất lạc quan. Mặc dù Wal – Mart đã rút khỏi thị trường nước này từ một vài năm trước, Marko cũng cắt giảm kế hoạch mở rộng của mình, xong , Dairy Farm,Carrefour và thậm chí cả Tesco vẫn rất hứng thú cả trong việc gia nhập thị trường nội địa lẫn mở rộng sự hoạt động của mình.
- Các doanh nghiệp đối phó với chi phi SX cao do tham nhũng, cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật còn yếu kém, chính sách thuế, thủ tục hành chính, phức tạp trong thủ tục cấp phép và chấp thuận, qui định lao động cứng nhắc.
- Ảnh hưởng từ các quy định
Những chính sách mà chính phủ thông qua liên quan đến các nhà bán lẻ và những nhà thầu các trung tâm mua sắm đã đặt gánh nặng lên vai người tiêu dùng. Trong khi chính phủ đưa ra rất nhiều lý do để tăng thuế và thu nhập của người dân địa phương, những nhà cung cấp này vẫn sẽ áp đặt phần chi phí tăng thêm lên người tiêu dùng.
Đối phó với chính sách tăng giá điện, gas, tăng mức thuế VAT và thuế đậu xe, hầu hết các nhà cung cấp đều sẽ tăng giá sản phẩm của mình lên 2 – 3%. Việc đặt giá này khiến cho lợi nhuận của những nhà kinh doanh không bị giảm sút. Và dĩ nhiên, người tiêu dùng là người phải gánh chịu hậu quả.
2.2.2 Thực trạng thương mại quốc tế
2.2.2.1 Tình hình xuất- nhập khẩu của Indo
Xuất khẩu
Đối tác xuất khẩu hàng đầu: Nhật bản 21,1%, Hoa kỳ 11,5%, Singapo 9,2%, Hàn Quốc 8,3%, Trung Quốc 7,8%, Malaixia 4% (2005)
Các đối tác xuất khẩu chính của Indonesia
Xuất khẩu trong tháng 8/2008 của Indonesia giảm 0,43% so với tháng 7/2008, từ 12.553 triệu USD xuống 12.499 triệu USD. Tuy nhiên so với cùng kỳ năm 2007 thì lại tăng 30,26%. Xuất khẩu trong tháng 8/2008 giảm do các mặt hàng phi dầu khí giảm 1,20% , từ 9.679 triệu USD xuống 9.562 triệu USD. Trong khi đó xuất khẩu dầu và khí gas chỉ tăng 2,19% từ 2.874 triệu USD lên 2.937 triệu USD.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng ước đạt 105,95 tỷ USD, tăng 28,40% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu phi dầu khí ước đạt 82,30 tỷ USD, tăng 28,59% so cùng kỳ năm 2007. Trong đó, xuất khẩu sang các nước trong khối ASEAN 18,05 tỷ USD; sang EU 11,01 tỷ USD; sang Trung quốc 6,02 tỷ USD; Nhật 10,10 tỷ USD; Mỹ 9,21 tỷ USD; Úc 1,52 tỷ USD Hàn Quốc 3,3 tỷ USD; Đài Loan 2,05 tỷ USD
Bảng tóm tắt tình hình xuất khẩu của Indonesia tháng 1 – 2 năm 2007 - 2008
#
Lĩnh vực
Giá trị tính theo giá FOB ( triệu đô )
Tỉ lệ % trong T2/08
Thay đổi trong T1 & T2/ 08
Tổng giá trị tính theo giá FOB ( triệu đô )
Tỉ lệ % trong T1 & T2/08
Thay đổi trong T1 & T2/ 08 - 07
T1/08
T2/08
Giá trị
%
T1 & T2/ 07
T1 & T2/ 08
Giá trị
%
1
Tổng giá trị xuất khẩu
11,085.0
10,532.5
100.00
-552.5
-4.98
16,517.1
21,617.5
100.00
5,100.4
30.88
2
Dầu lửa và khí tự nhiên
2,215.6
2,381.1
22.61
165.5
7.47
2,989.6
4,596.7
11.90
1,607.1
53.76
Dầu thô
832.3
1,078.5
10.24
246.2
29.58
1,236.9
1,910.8
4.95
673.9
54.48
Các sản phẩm từ dầu
258.9
225.3
2.14
-33.6
-12.98
390.7
484.2
1.25
93.5
23.93
Khí tự nhiên
1,124.4
1,077.3
10.23
-47.1
-4.19
1,362.0
2,201.7
5.70
839.7
61.65
3
Phi dầu lửa và khí tự nhiên
8,869.4
8,151.4
77.39
-718.0
-8.10
13,527.5
17,020.8
44.05
3,493.3
25.82
b. Nhập khẩu
Nhập khẩu tháng 8 giảm 7,42% so với tháng 7/08, đạt 11.864 triệu USD nhờ giảm nhập khẩu dầu và khí 19,06% và giảm nhập khẩu các mặt hàng phi dầu khí 2,92%.
Tổng trị giá nhập khẩu 9 tháng năm nay ước 95,46 tỷ USD, tăng 76,61% so cùng kỳ năm 2007. Trong đó, hàng nhập khẩu được bảo thuế là 18,225 tỷ USD chiếm 19,1%. Nhập khẩu 10 mặt hàng chính chiếm tỷ trọng 80,38%, gồm: Hàng điện tử chiếm 29,52%, thiết bị cơ khí chiếm 18,44%; ô tô, xe máy và phụ tùng chiếm 08,35%; nhựa và sản phẩm nhựa chiếm 05,06%, thép các loại chiếm 8,62%; bông chiếm 03,45%; đồng đỏ chiếm 2,84%; hàng dệt may chiếm 02,63%;dụng cụ, thiết bị quang học chiếm 2%. Nhập khẩu từ các nước ASEAN chiếm 37,85% ( riêng nhập khẩu từ Singapore chiếm 27,98% ), từ EU chiếm
05,53%, từ Nhật Bản chiếm 20,95%, từ Hàn Quốc 8,99%; từ Trung quốc 8,29%.
Bảng tóm tắt tình hình nhập khẩu của Indonesia tháng 1 – 2 năm
2007 - 2008
#
Lĩnh vực
Giá trị tính theo giá CIF (Triệu đô )
Tỉ lệ % trong T2/08
Thay đổi trong T1 & T2 /2008
Tổng giá trị tính theo giá CIF ( triệu đô )
Tỉ lệ % trong T1& T2/08 - 07
Thay đổi trong T1 & T2 / 08 - 07
T1/08
T2/08
Giá trị
%
T1 & T2/07
T1 & T2/08
Giá trị
%
1
Tổng giá trị nhập khẩu
10,059.8
9,932.6
100.00
-127.2
-1.26
13,026.4
19,992.4
100.00
6,966.0
53.48
2
Dầu lửa và khí tự nhiên
1,930.3
2,504.8
25.22
574.5
29.76
2,494.6
4,435.1
22.18
1,940.5
77.79
Dầu thô
971.8
807.4
8.13
-164.4
-16.92
963.6
1,779.2
8.90
815.6
84.64
Các sản phẩm từ dầu
958.5
1,692.9
17.04
734.4
76.62
1,531.0
2,651.4
13.26
1,120.4
73.18
Khí tự nhiên
0.0
4.5
0.05
4.5
-
0.0
4.5
0.02
4.5
0.00
3
Phi dầu lửa và khí tự nhiên
8,129.5
7,427.8
74.78
-701.7
-8.63
10531.8
15557.3
77.82
5,025.5
47.72
2.2.2.2 Các chính sách trong thương mại quốc tế
a.Chính sách thuế quan
Để thực hiện các cam kết trong Vòng Uruguay, Indonesia triển khai thực hiện thay đổi đáng kể trong các ràng buộc MFN Thuế qua giai đoạn 1996-2003 (Bộ trưởng Bộ Tài chính theo Nghị định số 378/KMK.01/1996). Ngoài ra, nó đã bắt đầu biết thêm, để thực hiện các thay đổi trong các MFN áp dụng tỷ lệ theo chương trình hài hòa thuế quan của ASEAN giai đoạn 2005 đến năm 2010, cũng như giảm tỷ lệ AFTA ưu đãi, phù hợp với quan điểm của mình về tầm quan trọng của việc tích hợp bên trong Châu Á khu vực.
Tuy nhiên để phù hợp với lợi ích quốc gia, lợi ich kinh tế, một số sản phẩm đã được loại trừ khỏi kế hoạch giảm thuế. Đây là những sản phẩm chủ yếu trong nông nghiệp, hóa chất, nhựa, kim loại, rượu và các ngành ô tô, cũng như các sản phẩm liên quan đến an ninh.Các kế hoạch giảm thuế cho các sản phẩm này đã được quy định tại nghị định số 542/KMK.01/1997
Việc thực hiện các chương trình thuế, giảm thuế Indonesia đã thay đổi cơ cấu đáng kể. Trong năm 1995, trung bình thuế suất là 15,6 phần trăm, với mức giá khác nhau, từ 0 đến 10 phần trăm bao gồm 3832 dòng thuế (hoặc chỉ cần hơn nửa trong tổng số là 7386 dòng thuế). Năm 1996, trong năm khi các chương trình lần đầu tiên được đưa ra, tỷ lệ trung bình đã từ chối đến 13 phần trăm, với một mở rộng của các mức giá nằm trong khoảng 0-10 phần trăm đến 56 phần trăm dòng. cuối cùng của chương trình giảm thuế (2003), trung bình giá đã giảm đến 7,2%, trong khi mức giá nằm trong khoảng 0-10 phần trăm đã tăng lên 83,4 phần trăm dòng.
Trong năm 2004, một năm sau khi kết thúc chương trình giảm thuế, Indonesia áp dụng thuế mới, phân loại theo " ASEAN Harmonized Tariff Nomenclature" (AHTN) như là một phần của Indonesia cam kết theo AFTA. Như đã nêu ở trên, mục đích của chương trình là giảm dần dần và hài hòa hóa các mức giá, nhằm làm giảm phân biệt, các ngành, trong khi bảo quản độ tổng mức độ hỗ trợ cho khu vực sản xuất trên một cơ sở MFN. Chương trình ngoài 2010 chưa được hoàn thành.
Với sự phân loại mới, tổng số thuế hàng tăng mạnh trong năm 2003 từ 7540 đến 11163 vào năm 2004. Với tư cách là một kết quả của các kỹ thuật phân loại thay đổi, tỷ lệ thuế quan cũng đã thay đổi, và thuế quan trung bình tăng lên 9,9%, với tỷ lệ từ 0 đến 10 phần trăm bao gồm 8387 dòng thuế (75 phần trăm tổng số 11163 dòng thuế).
Với tư cách là một tiếp tục của các chương trình giảm thuế, Indonesia đã giới thiệu các chương trình hài hòa thuế cho giai đoạn 2005-2010. Theo chương trình, trung bình thuế đạt 9,5 phần trăm trong năm 2006, với tỷ lệ 0-10 trong một phạm vi bao gồm thuế dòng 8365 hay 74,9 phần trăm tổng số.
Theo kế hoạch 94% các hạng mục sẽ được giảm thuế suất dưới 10%, 6% còn lại sẽ được giảm 10% đến năm 2020.
2004
2006
2008
2010
Thuế suất
Khoản mục tính thuế
% trong tổng khoản mục
Khoản mục tính thuế
% trong tổng khoản mục
Khoản mục tính thuế
% trong tổng khoản mục
Khoản mục tính thuế
% trong tổng khoản mục
0
2334
21
2454
22
2320
23
557
5
5
4344
39
4134
37
3839
38
6008
59
8
0
0
74
1
17
0
119
1
10
1709
15
1703
15
1663
16
2835
28
13
0
0
42
0
88
1
0
0
15
1562
14
1562
14
1603
16
163
2
20
305
3
590
5
122
1
21
0
25
340
3
31
0
44
0
6
0
30
11
0
43
0
13
0
14
0
>=35
541
5
523
5
469
5
455
4
b. Hạn ngạch thuế quan
Hiện nay Indonesia không sử dụng hạn ngạch thuế quan
c. Phi thuế quan
Từ lần xem xét chính sách thương mại Indonesia năm 1998, chính phủ Indonesia đã xóa bỏ một số hàng rào thuế quan như:
- Xóa bỏ hạn chế trên lĩnh vực nhập khẩu sữa trong Approved
Importer ( IT ) và thay bằng General Importer ( IU ), đồng thời xóa bỏ lệnh cấm nhập khẩu cây đinh hương dưới quy định BPPC trong IU
- Giảm bớt sự hạn chế nhập khẩu lúa gạo
- Nới lỏng việc nhập khẩu ô tô, mặt hàng trước đây chỉ được phép nhập khẩu bởi IU hoặc Register Importer/ Sole Agent ( AT )
- Nới lỏng việc nhập khẩu đường và lúa gạo, mặt hàng trước đây chỉ được phép nhập khẩu
Bộ trưởng bộ công nghiệp và thương mại đã đề xuất sắc lệnh No. 732/MPP/Kep/10/2002 trong thủ tục nhập khẩu hàng dệt may, trong đó những mặt hàng quan trọng chỉ được phép nhập khẩu bởi . Việc này nhằm ngăn chặn sự phân phối lậu những mặt hàng dệt may quan trọng trên thị trường Indonesia, tránh việc buôn bán bất hợp pháp và gây tổn hại đến mặt hàng dệt may nội địa và duy trì một môi trường kinh doanh tốt.
d. Chính sách cạnh tranh
Trong những năm gần đây, chính phủ Indonesia đã có nhiều tiến bộ trong việc bãi bỏ quy định trong chính sách thương mại. Thuế nhập khẩu, giấy phép và sự kiểm soát xuất khẩu gần như được giảm thiểu nhằm tăng môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước trên cả thị trường nhập khẩu và xuất khẩu.
Bộ luật No.5/1999 liên quan đến vấn đề cấm độc quyền và cạnh tranh thương mại không công bằng được ban hành năm 1999. Mục tiêu của bộ luật này là bảo vệ lợi ích của cộng đồng và tăng tính hiệu quả kinh tế của quốc gia như một nỗ lực nhằm: tăng phúc lợi xã hội cho con người; thiết lập một môi trường kinh doanh có lợi đảm bảo cơ hội kinh doanh là bình đẳng bất kể là doanh nghiệp lớn, vừa hay nhỏ; ngăn chặn độc quyền và cạnh tranh không công bằng; tạo hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh. Bộ luật đồng thời cũng kiểm soát gắt gao tất cả những hành vi phi cạnh tranh.
Chiến lược để giảm tình trạng buôn lậu
+ Sử dụng mã nhập khẩu đặc biệt. Chính sách này sẽ được thực hiện bắt đầu từ 6/5/2002
+ Kiểm soát đăng ký của các hãng nhập khẩu
+ Thực hiện mức chuẩn hóa cho các sản phẩm nhập khẩu và nội địa
+ Kiểm soát sự thực thi chính sách
Thực hiện cấp phép chất lượng cho các sản phẩm nhập khẩu
Để cải thiện hoạt động cho phù hợp với lợi thế so sánh của nền kinh tế, Indonesia loại trừ các biệ pháp phi thuế quan đặc biệt là việc sử dụng giấy phép nhập khẩu hiện nay có giới hạn cho các nguyên vật liệu nguy hiểm, chất nổ, rượu , muối, dệt may và các sản phẩm dệt, máy móc thiết bị.
Mới đây Bộ trưởng Thương mại Indonesia mới ban hành quy định yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu phải sử dụng tín dụng thư (LC) khi giao dịch các mặt hàng là nguyên liêu thô. Quy định này bắt đầu có hiệu lực từ tháng 3/2009
Quy định này nằm trong kế hoạch bảo hiểm tài chính thương mại của chính phủ Indonesia nhằm áp dụng thêm các biện pháp bảo hiểm doanh nghiệp xuất khẩu khi thâm nhập vào các thị trường mới hoặc làm ăn với các đối tác nước ngoài trong bối cảnh nguy cơ xù thanh toán ngày càng tăng khi kinh tế toàn cầu khó khăn.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách bảo hộ khá cao đối với các sản phẩm trong nước đã tạo môi trường kinh doanh không thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
e. Chính sách tỉ giá
Để cải thiện cán cân xuất nhập khẩu, Indonesia thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ. 2008 trượt giá 14%, 2007 là 17% với USD.
Đồng Rupial / 1 USD: 12,470 ( 2008 ); 10000( 2007 ); 9,159.3 ( 2006 ); 9,704.79 ( 2005 ); 8,938.9 ( 2004 ); 8,557,1 ( 2003 ); 9,311.2 ( 2002 )
Chính sách tỉ giá là một trong những công cụ hiệu quả trong việc điều chỉnh cán cân thương mại.
2.2.2.3.Chính sách trong một số ngành cụ thể
a. Lúa mỳ
Nhu cầu của Indonesia khoảng 7 triệu tấn lúa mỳ/năm. Tuy nhiên sản xuất trong nước hiện nay chỉ đạt khoảng 3,3 triệu tấn/năm. Các nhà sản xuất bột mỳ vẫn phải phụ thuộc phần lớn vào lúa mỳ nhập khẩu. Indonesia phải nhập khẩu khoảng 4,4 triệu Tấn lúa mỳ/năm, chiếm 90% lượng nguyên liệu thô cho sản xuất bột mỳ trong nước.
Hiệp hội các nhà sản xuất bột mỳ Indonesia (APTINDO) kiến nghị Chính phủ áp dụng mức thuế giá trị gia tăng 0% đối với mặt hàng này nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Indonesia.
b. Sản phẩm sữa
Bộ Trưởng Bộ Y tế Indonesia Siti Fadilah Supari cho biết, tạm thời Indonesia cấm nhập khẩu các sản phẩm sữa có xuất xứ từ Trung Quốc. Các loại sữa này sẽ không được lưu hành trên thị trường Indonesia cho đến khi các cơ quan hữu quan của Indonesia tiến hành xong công tác kiểm tra và có kết luận cuối cùng.
Trước mắt, chỉ có một loại sữa của Trung quốc có tên là "Guozhen" được phép lưu hành trên thị trường Indonesia do có giấy phép của Cơ quan Vệ sinh an tòan thực phẩm và dược phẩm của Indonesia (BPOM) cấp. BPOM đang kêu gọi mọi người dân tăng cường hợp tác với chính quyền bằng cách thông báo ngay cho các cơ quan chức năng các loại sữa nhập khẩu từ Trung quốc không có số đăng ký của BPOM.
c. Hàng dệt may
Công nghiệp dệt may hiện nay vẫn là ngành công nghiệp chủ chốt trong nền kinh tế Indonesia. Dự kiến xuất khẩu dệt may năm 2009 sẽ đạt 11,8 tỷ USD so với khoảng 11 tỷ USD trong năm nay. Vừa qua, Bộ Thương mại ban hành nghị định 15/M-DAG/PER/5/2008, theo đó số lượng mặt hàng hạn chế nhập khẩu giảm từ 84 xuống còn 74 mặt hàng.
Hiệp hội dệt may( API) cho biết, trong năm nay có ít nhất là 7 mặt hàng trong biểu thuế hài hòa Hải quan được thực hiện hai bước đầu tiên về tự do hóa nhập khẩu. Tuy nhiên API vẫn kiến nghị Chính phủ thực hiện việc kiểm tra để ngăn chặn hàng dệt may nhập lậu. API cũng đề nghị chính phủ tăng thuế từ 10% lên 20%, và từ 15% lên 25% nhằm giúp cho hàng nội địa cạnh tranh với hàng dệt may nhập khẩu.
2.3 QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – INDONESIA
2.3.1 Quan hệ giữa 2 nước
Ngày thiết lập quan hệ ở cấp Tổng Lãnh sự quán (12/1955) và nâng lên cấp Đại sứ quán (15/8/1964, được coi là ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao).
Các Hiệp định ký kết giữa hai nước:
Hiệp định Thương mại ký ngày 8/11/1978(đã thay thế bằng Hiệp định mới ký ngày 23/3/1995);
Hiệp định về hợp tác kinh tế, KHKT (21/11/1990);
Hiệp định về việc thành lập UBHH hai nước (21/11/1990);
Hiệp định Khuyến khích và bảo đảm đầu tư (25/10/1991);
Hiệp định vận tải biển (25/10/1991);
Hiệp định vận chuyển hàng không dân dụng (25/10/1991);
Hiệp định hợp tác lâm nghiệp (05/11/1991);
Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần (22/12/1997);
Biên bản ghi nhớ về Cuộc họp UBHH lần thứ 3 và Nghị định thư Bổ sung Hiệp định Hợp tác Kinh tế-KHKT (10/11/2001);
Bản ghi nhớ về Hợp tác Thuỷ sản giữa 2 Bộ Thuỷ sản (8/01/2003);
Tuyên bố giữa nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà In-đô-nê-xi-a về Khuôn khổ hợp tác hữu nghị và toàn diện bước vào thế kỷ 21; Hiệp định về Phân định ranh giới thềm lục địa; Hiệp định về miễn thị thực cho người mang hộ chiếu phổ thông; Thỏa thuận hợp tác (MOU) về hàng đổi hàng; Thoả thuận hợp tác trong lĩnh vực dầu khí; Thỏa thuận về hợp tác kỹ thuật giữa Hiệp hội cà phê-ca cao Việt Nam với Hiệp hội các nhà xuất khẩu cà phê Indonesia ngày 26/6/2003.
2.3.2 Quan hệ trao đổi thương mại giữa 2 nước 9 tháng đầu năm 2008
Cán cân thương mại Việt Nam – Indonesia
2.3.2.1 Xuất khẩu
Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm nay giảm 43,30 % so với 9 tháng đầu năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu giảm chủ yếu do sự giảm sút đáng kể của hai nhóm hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô và gạo, hai nhóm hàng này các năm qua chiếm tỷ trọng trên 70 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Indonesia.
Các mặt hàng xuất khẩu tăng trưởng gồm:
- Rau quả các loại đạt 11,71 triệu USD,tăng gấp 6 lần về trị giá.
- Than đá 12,267 triệu USD, tăng gấp 3,15 lần về trị giá.
- Giầy dép các loại 4,41 triệu USD, tăng gấp 4,6 lần về trị giá.
- Hàng hải sản 3,28 triệu USD, tăng 98,7% về trị giá.
- Hạt tiêu 1,07 triệu USD, tăng 93,81% về trị giá.
- Sản phẩm nhựa 10 24 triệu USD, tăng 93,15% về trị giá.
- Gỗ và sản phẩm gỗ 1,39 triệu USD, tăng 77,70 % về trị giá.
- Hàng dệt may 25,72 triệu USD, tăng 71,47 % về trị giá.
- Xe đạp và phụ tùng 0,75 triệu USD, tăng 65,78 % về trị giá.
- Máy vi tính, SP điện tử và linh kiện 3,7 triệu USD, tăng 57,44 % về trị giá.
- Cao su 6,77 triệu USD, tăng 41% về trị giá.
- Các sản phẩm hàng hóa khác tăng gấp 1,63 lần về trị giá.
Các mặt hàng xuất khẩu giảm gồm:
Gạo giảm 90,75 % về trị giá.
Dầu thô giảm 82,76 % về trị giá.
Cà phê giảm 94,93 % về trị giá.
Đường ăn giảm 54,30 % về trị giá.
Chè giảm 29,22 % về trị giá.
Các sản phẩm công nghiệp như hàng dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, cao su, máy vi tính và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ, xe đạp, phụ tùng xe đạp và các mặt hàng nông nghiệp khác như rau quả, hạt tiêu, hải sản, đều tăng mạnh về trị giá. Tuy nhiên, do các mặt hàng này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu nên không thể bù đắp nổi sự giảm sút của hai nhóm hàng xuất khẩu chủ lực nêu trên.
2.3.2.2 Nhập khẩu:
Bảng tóm tắt tình hình nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Indonesia 9 tháng đầu năm 2008
ĐVT : 1.000 USD
TT
Tên hàng
T/h 8 tháng 2008
T/h tháng 9/2008
T/h 9 tháng đầu năm 2008
Tăng, giảm% so cùng kỳ 2007
1
Sữa và sản phẩm sữa
957
0
957
181,47
2
Lúa mỳ
5.125
0
5.125
241,67
3
Dầu mỡ động thực vật
187.265
9.000
196.265
103,90
4
Thức ăn gia súc và nguyên liệu
29.009
3.191
32.220
19,33
5
Nguyên phụ liệu thuốc lá
11.223
1.059
12.282
-15,30
6
Clinker
1.558
0
1.558
-25,80
7
Xăng dầu các loại
39.097
0
39.097
401,24
8
Hóa chất
51.401
7.676
58.717
46,80
9
Các sản phẩm hóa chất
27.391
3.427
30.818
54,10
10
Bột ngọt
308
0
308
-26,67
11
Nguyên phụ liệu dược phẩm
284
92
376
12
Tân dược
5.025
853
5.878
27,78
13
Phân bón các loại
902
252
1.154
14
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu
8.015
951
8.966
28,10
15
Chất dẻo nguyên liệu
26.976
3.263
30.239
-44,00
16
Cao su
12.583
2.158
14.741
17,92
17
Gỗ và nguyên phụ liệu gỗ
12.591
2.508
15.099
31,30
18
Bột giấy
5.446
3.879
9.325
15,12
19
Giấy cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6120.doc