Đề tài Thực trạng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Chương I: Một số vấn đề cơ bản về hình thức đầu tư trực tiếp nươc ngoài. 1

I. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): 1

1. Khái niệm về FDI: 1

2. Vai trò của FDI đối với các nuớc nhận đầu tư là nước đang phát triển: 2

2.1.Những lợi thế: 4

2.2. Những mặt trái của FDI: 7

II. Khái niệm và đặc trưng của các hình thức đầu tư trực tiếp nuớc ngoài: 9

1. Doanh nghiệp liên doanh: 10

1.1 Khái niệm: 10

1.2 Những đặc trung cơ bản: 11

1.3 Ưu nhược điểm của hình thức doanh nghiệp liên doanh: 14

2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: 15

2.1 Khái niệm: 15

2.2 Đặc trưng cơ bản: 16

2.3 Ưu nhược điểm của hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: 18

3. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: 18

3.1. Khái niệm: 18

3.2. Đặc trưng cơ bản: 19

3.3 Ưu nhược điểm của hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: 20

III. Xu hướng vận động phát triển của các hình thức đầu tư nước ngoài: 21

Chương II: Thực trạng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. 23

I.Tình hình chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: 23

1. Những mặt tích cực: 23

1.1 Đầu tư trực tiếp nươc ngoài bổ xung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, hiện đại hoá đất nước: 23

1.2.Đầu tư nươc ngoài đã tạo ra một số năng lực sản xuất mới, ngành sản xuất mới, phương thức quản lý và kinh doanh mới, tạo việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP. 24

Công nghiệp 25

Nông-lâm nghiệp 25

Dịch vụ 25

 

doc63 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức tổ chức và cơ chế quản lý doanh nghiệp đã có những thay đổi nhất định. Bên cạnh đó, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong nhiều trường hợp lại là liên doanh giữa nhiều bên nước ngoài. Hơn nữa, cũng có sự quy định mềm dẻo trong hệ thống pháp luật giữa các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hay công ty tư nhân. Chương II: Thực trạng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. I.Tình hình chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Tính đến hết năm 2000 đã có 3210 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được cấp giấy phép đầu tư, với tổng vốn đầu tư hơn 43 tỷ USD (kể cả những dự án tăng thêmvốn). Trừ những dựa án kết thúc đúng thời hạnvà bị giải thể trước thời hạn, còn 2628 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư dăng ký trên 36,2 tỷ USD, trong đó số vốn đầu tư đã thực hiện gần 18 tỷ USD. Vốn FDI chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội hàng năm. Các dự án FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta, tạo ra nhiều ngành nghề mới, năng lực sản xuất mới, góp phần duy trì nhịp độ tăng trưởng ổn định của nền kinh tế, giải quyết việc làm trực tiếp cho hơn 35000 lao động và gián tiếp tạo việc làm cho khoảng 1 triêụ lao động khác, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, củng cố nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Có thể rút ra một số nhận xét sau đây về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua: 1. Những mặt tích cực: 1.1 Đầu tư trực tiếp nươc ngoài bổ xung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, hiện đại hoá đất nước: Với số vốn đầu tư đã thực hiện gần 18 tỷ USD (không kể các dự án đã hết hạn và giải thể) trong đó vốn nươc ngoài đưa vào 16,2 tỷ USD, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần đáng kể vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong các năm qua. Theo đánh giá chung, thời kỳ từ 1991-2000, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm vị trí thứ hai trong các nguồn vốn đầu tư phát triển, chỉ sau vốn đầu tư tư nhân và dân cư. Bình quân hàng năm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm xấp xỉ 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. đây thực sự là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nhanh nền kinh tế nước ta trong những năm qua. Thực tế đã chứng minh chủ trương thu hút vốn đầu tư nươc ngoài với việc ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua là đúng đắn kịp thời, đã bổ xuang nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển , góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực cho phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá và hiên đại hoá đất nước ta. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tăng dần qua các năm, thời kỳ 1991-1995 đạt trên 7 tỷ USD chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thời kỳ 1996-2000 đạt khoảng 12 tỷ USD đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và là nguồn bù đắp quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Đầu tư nước ngoài đã khơi thông và phát huy tiềm năng vốn có của các nguồn lực trong nước về con người, đất đai, tài nguyên đồng thời giúp cho Nhà nước chủ động trong bố trí cơ cấu vốn đầu tư, dành vốn ngân sách cho đầu tư phát triển cơ cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Bên cạnh sự đóng góp từ nguồn nội lực đầu tư nước ngoài đẫ góp phần tạo nên các nét chấm phá trên bức tranh toàn cảnh muôn mầu của nền kinh tế nước ta. 1.2.Đầu tư nươc ngoài đã tạo ra một số năng lực sản xuất mới, ngành sản xuất mới, phương thức quản lý và kinh doanh mới, tạo việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tuỷ trọng khá cao trongmột số ngành như: 100% sản lượng dầu thô, ô tô, xe máy, máy lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, 50% điện tử gia dụng, 70% sản lượng thép cán, 30% sản lượng xi măng, 32% giầy dép xuất khẩu, 20% sản lượng thực phẩm và đồ uống, 16% sản lượng may mặc, 14% sản lượng ngành hoá chất của cả nước . Bình quân mỗi năm khu vực này đã thu hút thêm 30-35 ngàn lao động trực tiếp và gián tiếp tạo việc làm cho hàng tăm ngàn lao động khác trong lĩnh vuực dịch vụ, xây dựng… Thông qua các dự án trên chúng ta đã tiếp nhận được một số công nghệ tiến bộ trong nhiều ngành kinh tế quan trọng như bưu chính viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, điện-điện tử, sắt thép, sản xuất và lắp ráp ô tô, xe máy, vật liệu xây dựng…Đồng thời, chúng ta cũng học tập được một số kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp làm ăn trên thương trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2000. (Tính tới ngày 32/12/2000 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực). Chuyên ngành Số dự án TVĐT Vốn pháp định Vốn TH Công nghiệp 1645 19280024747 8742763072 10866713943 CN dầu khí 29 3154826867 2094106347 2352553089 CN nhẹ 643 4050567442 1785345319 2068900083 CN nặng 635 6651802851 2803768210 3544807321 CN thực phẩm 134 2281086756 953693264 1299284498 Xây dựng 204 3141740831 1105849932 1601168952 Nông-lâm nghiệp 347 2108141856 926855682 1212345030 Nông,lâm nghiệp 297 1947652537 847397904 1116966496 Thuỷ sản 50 160489319 79457778 95378534 Dịch vụ 636 14902861034 6613801142 5636907641 GTVT-Bưu diện 93 2571985689 2027825866 849117701 KS-Du lịch 124 3500631355 1137540592 1863632847 Tài chính-NH 50 567250000 536650000 509535324 Văn hoáYT – GD 89 535295935 231733217 146095289 Khu đô thị mới 3 2466674000 675183000 394618 XD văn phòng 118 3896332758 1401784415 1656030769 XD hạ tầng KCN 13 816040849 278951009 460988264 Dịch vụ khác 146 548650439 324133025 151112829 Tổng 2628 36219027637 16238419878 17715966614 Đơn vị tính: USD. Nguồn: Vụ QLDA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư 1.3.Thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu của đất nước tăng thêm nguồn thu cho ngân sách: Thực tế, từ năm 1991 đến nay, tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22% một năm (năm 1996 đạt 21,7%, năm 1997 đạt 23,2%, năm 1998 đạt 23,3% năm 1999 đạt 20,0%, năm 2000 đạt 21,8%). Đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) không ngừng tăng từ 6,3% năm 1995 lên 7,4% năm 1996, 9,1% năm 1997, 10,1% năm 1998, 10,3% năm 1999, 10,4% năm 2000. Năm 1996, trong lĩnh vực công nghiệp, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 24,8% giá trị tổng sản lượng, tỷ trọng này đã tăng lên 28,2% năm 1997, 30% năm 1998, 35% năm 1999 và 38% năm 2000. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đóng góp tích cực vào việc tăng nhanh tổng sản phẩm quốc nội mà còn góp phần đáng kể và làm tăng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Hiện kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng 24% kim ngạch xuất khẩu toàn quốc, không kể dầu khí. Tốc độ xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày một tăng qua các năm, trong 5 năm 1991-1995 đạt 1,12 tỷ USD, riêng năm 1997 đạt 1,79 tỷ USD (năm 1998 bằng 110% so với năm 1997, năm 1999 đạt 130% năm 1998, năm 200 đạt bằng 128% năm 1999). Thời kỳ 1996-2000, giá trị xuất khẩu đạt trên 10,5 tỷ USD tăng gấp 8 lần so với tổng kim ngạch xuất khẩu của 5 năm trước. Trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì xuất khẩu khu vực đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng đáng kể (hàng giầy dép chiếm 42%, hàng dệt may chiếm 25% và hàng điện tử, linh kiện và máy vi tính chiếm 84%). Tuy vậy, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang bị cạnh tranh gay gắt do thông tin thị trường còn hạn hẹp, tình trạng gian lận thương mại còn xẩy ra… Tỷ lệ xuất khẩu so với tổng doanh thu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 1995 đạt 30%, năm 1996 đạt 37%, năm 1997 đạt 49%, năm 1998 đạt 51%, năm 1999 đạt 56%, năm 2000 đạt 58%. Như vậy, giá trị tuyệt đối cũng như tỷ trọng xuất khẩu so với doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh trong những năm gần đây. Điều đó khẳng định việc thu hút đầu tư hướng về xuất khẩu của ta đang từng bước đạt tới mục tiêu đã đặt ra. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu thời gian qua chủ yếu là hàng tiêu dùng như hàng dệt may, da giầy, điện tử, hàng nông lâm thuỷ sản chế biến. Mặt khác, thông qua việc nậo các loại thuế, các doanh nghiẹp có vốn đầu tư nước ngoài đã có đóng gópđáng kể cho ngân sách nhà nước. Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang trong thời kỳ miẽn giảm thuế thu nhập dong nghiệp hoặc chưa thực sự có lãi. Phần lớn vật tư nhập khẩu để tạo tài sản cố định hình thành doanh nghiệp được miễn giảm thuế nhập khẩu. Nhiều doanh nghiệp thời gian gần đây được điều chỉnh giảm tiền thuê đất. Vì vậy, đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (trừ dầu thô) cho ngân sách Nhà nuớc mới chỉ đạt 6-7% số thu ngân sách hàng năm. 1.4 Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập quốc dân nội địa: Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới, tính đến cuối năm 2000 khu vực FDI đã thu hút 350000 lao động trực tiếp làm việc tại các doang nghiệp và gián tiếp tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trong các lĩnh vực dịch vụ, xây dựng, cung ứng vật tư, bán hàng…Tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI có khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ kỹ thuật và 150000 công nhân lành nghề. Số người do các dong nghiệp tự đào tạo tay nghề chiếm hơn 60% tổng số lao động. Khoảng 73% số lao động làm việc trong các khu vực sản xuất công nghiệp. Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với mức lương bình quân xấp xỉ 70 USD/người/tháng, tổng thu nhập của người lao động trong khu vực này lên đến 300 triệu USD/năm. 1.5 Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập quốc tế của nước ta: Trước và một vài năm sau khi có luật đầu tư nước ngoài (1987-1990), nước ta đứng trước những thách thức kho khăn cực kỳ to lớn (Hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, các nguồn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa đặc biệt từ Liên Xô chấm dứt, Mỹ vẫn tiếp tục bao vây cấm vận, cơ sở vật chất kỹ thuật của nước ta còn hết sức nghèo nàn, lạc hậu…). Trong bối cảnh đó, cùng với chính sách đối ngoại đúng đắn của Nhà Nuớc ta, đầu tư nước ngoài đã góp phần tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Trong thời kỳ 1991-2000 đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập thứ giới của nước ta. Nhờ có hoạt động FDI, các mối liên hệ kinh tế song phương, đa phương của Việt Nam với các nước, khu vực trên thế giới đã đựoc thiết lập và củng cố. Với sự ra đời của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,Việt Nam đang từng bước tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, qua đó có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, từng bước đi vào quỹ đạo, hoà nhập nền kinh tế thế giới. Điều này có vai trò đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế thị trường. 2. Những mặt hạn chế: 2.1 Một số mục tiêu trước mắt và lâu dài trong thu hút sử dụng vốn FDI chưa thực hiện được: Về xuất khẩu, mặc dù các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm, tỷ lệ xuất khẩu so với tổng doanh thu còn thấp. Hiện nay, chính sách của Nhà Nước ta vẫn thiên về khuyến khích sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, chưa thưcj sự khuyến khích xuất khẩu nên chưa khai thác hết tiềm năng xuất khẩu của các doanh nghiệp. Trước tình hình sức tiêu thụ của thi trường Việt Nam giảm, sức mua còn thấp, các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng thu hẹp sản xuất và ngần ngại bỏ tiếp vốn vào đầu tư các công trình sản xuất sản phẩm chưa tìm được đầu ra, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách khuyến khích hơn nữa xuất khẩu. Mục tiêu chuyển dần từ lắp ráp linh kiện nước ngoài sang lắp ráp các linh kiện trong nước chưa đủ điều kiện thực hiện được. Chương trình nội đia hoá trong lĩnh vực sản xuất điện tử, ô tô, xe máy hầu như không tiến triển được. Chính sách thuế còn bất hợp lý, không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sản xuất linh kiện, phụ tùng trong lhi các doanh nghiệp trong nước chưa đử khả năng sản xuất. Mục tiêu tăng dần tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam trong các liên doanh gặp nhiều trở ngại, do khả năng tài chính của các doanh nghiệp Việt nam còn quá nhỏ bé. Hiện nay, bên Việt nam chủ yếu góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất, tài nguyên và nhà xưởng có sẵn, phần góp vốn bằng tiền chỉ chiếm chưa quá 10%. Trong điều kiện nhiều doanh nghiệp liên doanh bị thua lỗ trong những năm đầu, bên Việt nam không những không có khả năng tăng tỷ lệ góp vốn của mà còn phải bán bớt cổ phần cho phái nứoc ngoài để bảo toàn vốn, dẫn đến xu hướng chuyển doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngaòi. Việc thu hút công nghệ cao qua các dự án FDI chưa có kết quả. Số hợp đồng được phê duyệt chuyển giao công nghệ còn quá ít. Thực tế Nhà nước chưa có chính sách khuyến khích thoả đáng đối với dự án sử dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm có giá trị. Việc giám định, đánh giá công nghệ, thiết bị nhập khẩu đang là vấn đề khó khăn do thiếu chuyên gia có năng lực và am hiểu trong lĩnh vực này. Nguy cơ ngày càng tụt hậu về công nghệ đang là một thực tế đáng lo ngại. 2.2 Vấn đề lao động và tiền lương còn nhiều bất cập: Công tác chuẩn bị đội ngũ lao động cung ứng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa được các ngành và các địa phương quan tâm đúng mức. Cơ quan làm nhiệm vụ cung ứng lao động thường không chịu trách nhiệm về phẩm chất người lao động nên không có uy tín đối với doanh nghiệp. Do vậy, hầu hết các doanh nghiệp đều đòi hỏi được tự tuyển lao động. Chất lượng lao động của ta còn thấp, trình độ học vấn chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thiếu khả năng đáp tiếp nhận công nghệ mới. Mâu thuẫn giữa việc áp dụng công nghệ tiên tiến với việc giải quyết việc làm cho người lao động ddang trở nên nan giải đối với nhiều doanh nghiệp liên doanh. Hiện nay, do thuế thu nhập cá nhân quá cao, đồng thời chi phí đào tạo công nhân Việt Nam lớn, nên tuy tiền lương danh nghĩa người lao động nhận được hàng tháng thấp nhưng chi phí lao động ở Việt Nam đã vào mức cao so với các nước trong khu vực, làm giảm sức cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý Việt nam trong các nghiệp liên doanh (Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, kế toán trưởng) chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn, pháp luật và ngoại ngữ (do cơ chế cứ có đất là liên doanh với nước ngoài không phân biệt ngành nghề kinh doanh) nên không quản lý được doanh nghiệp liên doanh, bị bên nước ngoài chèn ép, từ đó làm nẩy sinh mâu thuẫn nội bộ khó hoà giải, ảnh hưởng xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.3 Đầu tư nước ngoài còn tập trung chủ yếu vào một số địa phương có điều kiện kinh tế và cơ sở hạ tầng thuận lợi, một số lĩnh vực dễ sinh lời: Hai vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc thu hút hơn 80% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua. Riêng hai trung tâm lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thu hút hơn 50% vốn FDI cả nước. Lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thu hút được quá ít dự án đầu tư nước ngoài so với tiềm năng của nước ta. Do rủi ro cao và chưa có chính sách hỗ trợ thoả đáng của Nhà nuớc. 2.4 Quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI còn nhiều khiếm khuyết: Hệ thống pháp luật nước ta còn đang trong quá trình hoàn chỉnh nên thiếu đồng bộ. Việc thi hành pháp luật còn tuỳ tiện. Trong những năm đầu, do thiếu kinh nghiệm và không nhận thức đầy đủ tính phức tạp của vấn đề nên chưa coi trọng đúng mức công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI. Do đó, đã để xảy ra tình trạng lúng túng trong xử lý vấn đề phát sinh hàng ngày khi số dự án FDI tăng nhanh; phân công, phân nhiệm không rõ; có hiện tượng buông lỏng quản lý vừa can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Chế độ thông tin báo cáo chưa vào nền nếp nên cơ quan quản lý các cấp thiếu phối hợp chặt chẽ và không nắm chắc được tình hình doanh nghiệp, chậm chạp trong sử lý các kiến nghị của doanh nghiệp. 2.5 Môi trưòng đầu tư ở Việt Nam còn nhiều rủi ro: Chính sách của nhà nước hay thay đổi, thiếu rõ ràng, cơ sở hạ tầng yếu kém, chi phi sinh hoạt thay đổi và không bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chuyển đổi ngoại tệ còn nhiểutở ngại, phiền hà. Chúng ta chưa có chính sách ưu đãi riêng đối với các tập đoàn lớn,xuyên quốc gia đã có nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam nhằm duy trì, đẩy mạnh đầu tư của các tập đoàn này tại Việt Nam, trên cơ sở đó lôi kéo theo các nhà đầu tư có tiềm năng khác. II.Thực trạng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: 1.Hình thức doanh nghiệp Liên doanh: 1.1 Những đóng góp: Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu, chiếm tới 50,2% số dự án 64,7% vốn đầu tư đã được cấp giấy phép. Quy mô vốn đầu tư bình quan mỗi dự án là 18,7 triệu USD, trong đó có những dự án đầu tư đòi hỏi hàng tỷ USD như dự án liên doanh lọc dầu Việt – Xô tại Quảng Ngãi có vốn đầu tư 1,3 tỷ USD, dự án khu đô thị Nam Thăng Long Hà Nội vốn đầu tư tới 2,1 tỷ USD. Đến hết tháng 12 năm 2000 đã có 1035 dự án Liên doanh đựoc cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư gần 22 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện đạt hơn 9,7 tỷ USD, tạo ra gần 150000 việc làm. Xuất phát từ định hướng thu hút đầu tư của Nhà nước, hầu hết các doanh nghiệp lớn hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế quan trọng như sản xuất xi măng, sắt thép, phân bón, hoá chất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử...đều là doanh nghiệp liên doanh. Các doanh nghiệp liên doanh đã góp phần vực dậy nhiều ngành công nghiệp Việt Nam bị suy thoái do mất thị trường Liên Xô (cũ) và Đông Âu tan rã, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt nam theo hướng công nghiệp hoá, cung cấp nhiều sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế mà trước đây vẫn phải nhập khẩu. Thông qua việc cử cán bộ tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh, Việt nam đã tiếp thu được công nghệ mới, kiến thức và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của Việt nam làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh đã trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt và thích nghi với cơ chế thị trường. Nhiều cán bộ sau khi làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh đã được bổ nhiệm nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan quản lý và doanh nghiệp Nhà Nước. 1.2 Những mặt còn tồn tại: Bên cạnh những đóng góp tích cực đối với nền kinh tế nêu trên, đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh tại Việt nam đã bộc lộ rõ những hạn chế sau: Khả năng góp vốn của các doanh nghiệp Việt Nam là rất thấp, bình quan chỉ chiếm chưa đầy 30% vốn pháp định và bằng khoảng 10% vốn đầu tư của các doanh nghiệp liên doanh, vốn góp chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất. Thông thường toàn bộ vốn vay của liên doanh do bên nước ngoài thu xếp, nhiều trường hợp lãi suất cao và điều kiện vay rất khắt khe, trở thành gánh nặng của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc gia. Với cơ chế doanh nghiệp Việt nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Nhà nước cho doanh nghiệpp Việt Nam nhận nợ, những khi doanh nghiệp Việt Nam chưa được chia lãi hoặc liên doanh thua lỗ thì Nhà Nước không thu được tiền thuê đất để góp vốn, trong khi đó, nếu cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuê đất thì Nhà nước thu ngay được tiền thuê đất. Ngoài ra với cơ chế hiện nay, doanh nghiệp nào có quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp đó có thể liên doanh với nước ngoài thậm chí ngành nghề chuyên môn không phù hợp với mục tiêu hoạt động của liên doanh. Một trong những mục tiêu liên doanh là đưa cán bộ vào tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp nhằm dảm bảo lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam, của Nhà nước, tiếp thu kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ trên chưa đủ năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, phẩm chấtchính trị nên không phát huy được tác dụng đại diện cho doanh nghiệp Việt nam, hoặc là nặng về lo thu vénlợi ích cá nhân, thụ động theo sự điều hành của bên nước ngoài, thậm chí vì lợi ích riêng nên đã bỏ qua lợi ích chung của đất nước, đứng về phía lợi ích của bên nước ngoài. Các đối tác liên doanh có xu hướng khai tăng các chí phí đầu tư. Bên nước ngoài nâng giá thiết bị, máy móc góp vốn và nguyên liệu đầu vào, hạ giá đầu ra thông qua chuyển giá với công ty mẹ để thu lợi nhuận từ bên ngoài ngay từ đầu, hạch toán lỗ cho liên doanh mà bên Việt Nam trong liên doanh không có khả năng kiể soát được. Ngoài ra, bên nước ngoài có mục tiêu lâu dài là chiếm lĩnh thị phần, nên họ thực hiện chính sách khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo với chi phí lớn và giá bán thấp nhằm cạnh tranh, thậm chí chấp nhận lỗ trong những năm đầu. Bên Việt Nam trong liên doanh không đủ năng lực tài chính theo đuổi chiến lược đó nên không kiểm soát được các hoạt động này của bên nước ngoài. Trong khi đó, nước ta chưa có luật chống độc quyền, chống bán phá giá nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh. Giữa các bên liên doanh nẩy sinh bất đồng hàng loạtcác vấn đề chiến lược kinh doanh, phương thức quản lý và điều hành doanh nghiệp, tài chính, quyết toán công trình. Từ đó dẫn đến tình trạng mâu thuẫn trong các liên doanh diễn ra khá phổ biến, ảnh hưởng đến việc triển khai dự án, và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự đổ vỡ của các dự án. Những hạn chế nêu trên phát sinh từ cách nhìn nhận khác nhau về doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. trong những năm đầu hợp tác đầu tư với nước ngoài, do quan niệm đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh có nhiều ưu thế hơn hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Nhà nước Việt Nam chủ trương hướng nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh kèm theo một số chính sách ưu đãu hơn hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, nhưng lại ràng buộc những quy định chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ quyền lợi của các đối tác Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh. Ví dụ, Luật đầu tư nước ngoài tại Viêt Nam (1996) quy định các vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh bao gồm: bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ nhất, Kế toán trưởng, sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình, vay vốn đầu tư do Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí giữacác thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp. Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc thứ nhất phải là người của bên Việt Nam và là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam. Phó tổng giám đốc thứ nhất người Việt Nam có quyền hạn hầu như ngang với Tổng giám đốc của bên nước ngoài... Trong nhiều trường hợp nhà đầu tư nước ngoài còn bị áp đặt về đối tác Việt Nam (chủ yếu là doanh nghiệp Nhà Nước), tỷ lệ góp vốn, địa điểm đầu tư, chịu sự quản lý quá sâu của các bộ chuyên ngành và cơ quan quản lý cấp trên của đối tác Việt Nam vào quá trình snả xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo nghị định 10/1998/ NĐCP ngày 23 tháng 1 năm 1998 của Chính Phủ, một số lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân chỉ thu hút đầu tư nuớc ngoài theo hình thức liên doanh, bao gồm: -Khai thác, chế biếndầukhí, khoáng sản quý hiếm. -Xây dựng, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. -Kinh doanh xây dựng. -Vận tải hàng không, đường sắt, đường biển, vận tải hành khách công cộng, xây dựng ga hàng không. -Sản xuất xi măng, sắt thép. -Sản xuất thuốc nổ công nghiệp. -Trồng rừng, trồng cây công nghiệp lâu năm. -Du lịch lữ hành. -Văn hoá, thể thao, giải trí. Thực tế, trong nhiều lĩnh vực doanh nghiệp Việt Nam không có vốn để tham gia liên doanh, nên một thời gian triển khai dự án đã phải chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp cho đối tác nước ngoài để chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tỷ lệ đổ vỡ của các dự án liên doanh khá cao. 2. Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Hình thức doanh ngh1ệp 100% vốn nước ngoài chiếm hơn 55% số dự án và khoảng 29% vốn đầu tư. Trong những năm gần đây, nhất là sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, đầu tư theo hình thức này gia tăng nhanh chóng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư 1988-2000. (Tính tới ngày 31 tháng 12 năm 2000) (Chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Hình thức đầu tư Số dự án TVĐT Vốn pháp định Vốn thực hiện BOT 4 415.125.000 140.030.000 37.112.500 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 130 3.789.394.746 3.192.672.560 2.653.655.547 100% vốn nước ngoài 1459 10.669504.330 4.687.507.991 5.284.834.802 Liên doanh 1035 21.417.003.561 8.272.209.327 9.740.363.765 Tổng số 2628 36.291.027.637 16.283.419.878 17.715.966.614 Nguồn: Vụ QLDA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tính đến hết năm 2000 có 1459 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được cấp phép theo hình thức đầu tư doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, với tổng vốn đăng ký hơn 10,6 tỷ USD, trong đó số vốn đã thực hiện đạt hơn 5,2 tỷ USD, đã tạo ra khoảng 200000 việc làm. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may, giầy dép. Phần lớn các doanh nghiệp này nằm trong các khu công nghiệp và khu chế xuất. Nhìn chung tốc độ triển khai thực hiện dự án của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhanh hơn các doanh nghiệp liên doanh. Tỷ lệ các dự á

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0043.doc
Tài liệu liên quan