Chương I : Lý luận chung về chi đầu tư và kích cầu đầu tư . 4
I. Chi đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư 4
1. Khái niệm chi đầu tư. 4
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư . 4
2.1. Lợi nhuận kì vọng . 4
2.2. Lãi suất thực tế tiền vay . 5
2.3. Sản lượng của nền kinh tế . 6
2.4. Đầu tư của Nhà nước . 8
2.5. Chu kỳ kinh doanh . 8
2.6. Lợi nhuận thực tế . 10
2.7. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô khác 10
II. Kích cầu đầu tư . 13
1. Khái niệm kích cầu đầu tư . 13
2 .Ý nghĩa của việc kích cầu đầu tư 13
3. Các biện pháp kích cầu đầu tư 13
Chương II: Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và kích cầu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 1991 đến nay 15
I. Thực trạng chi đầu tư ở Việt Nam. 15
1. Giai đoạn 1991-2000 15
2. Giai đoạn 2001- nay . 16
II. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư ở Việt Nam 17
1. Lợi nhuận kỳ vọng 17
1.1.Chi phí sản xuất- kinh doanh . 17
1.2. Nhu cầu hàng hóa của thị trường . 18
1.3. Mức độ cạnh tranh trên thị trường hàng hóa . 18
1.4. Rủi ro của môi trường đầu tư 20
1.5. Chính sách thuế . 21
2. Lãi suất tiền vay . 22
3. Sản lượng của nền kinh tế . 23
4. Đầu tư của Nhà nước . 24
5. Chu kỳ kinh doanh . 27
6. Môi trường đầu tư . 29
II. Tình hình kích cầu . 31
1. Kích cầu thông qua lãi suất . 32
2. Kích cầu thông qua Chi đầu tư của Nhà nước 34
3. Kích cầu thông qua các yếu tố tác động đến môi trường đầu tư 35
III. Đánh giá ưu, nhược điểm của các chính sách kích cầu 41
1. Những tồn tại chung của các chính sách kích cầu . 41
2. Đánh giá hiệu quả của gói kích cầu hỗ trợ lãi suất . 42
Chương III: Kiến nghị giải pháp kích cầu đầu tư ở Việt Nam . 44
I. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư . 44
1. Phát triển cơ sở hạ tầng . 44
2. Nguồn nhân lực . 44
3. Môi trường chính trị, pháp lý, chính sách . 45
4. Môi trường kinh tế vĩ mô 55
II. Nhóm giải pháp tăng huy động và sử dụng các nguồn vốn cho
kích cầu đầu tư 47
1. Các biện pháp thu hút và sử dụng vốn FDI . . 47
2. Các biện pháp thu hút và sử dụng vốn ODA . 50
3. Các biện pháp huy động nguồn vốn khác . 52
4. Nâng cao hiệu quả chi Ngân sách Nhà nước và chi đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước . 52
III. Các giải pháp tăng hiệu quả của các gói kích cầu trong giai đoạn
suy thoái kinh tế. 55
Lời kết . 58
Danh mục tài liệu tham khảo . 59
59 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và kích cầu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 1991 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Doanh nghiệp Nhà nước
Những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước đã không ngừng đổi mới, nhanh chóng thoát khỏi tình trạng trông chờ, ỷ lại để vươn lên trong kinh tế thị trường. Nhiều doanh nghiệp không còn thua lỗ, nhiều doanh nghiệp và tập đoàn đã trưởng thành nhanh chóng, tạo ra vị thế vững chắc trên thương trường trong nước và quốc tế. Doanh nghiệp nhà nước đã làm ra 40% GDP và đang đóng vai trò quan trọng trong việc giữ vững định hướng của nền kinh tế quốc dân.
Về tình hình đầu tư vốn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
- Việc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con là hướng đi đúng trong tiến trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp; từ đó thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có ngành sản xuất , kinh doanh chính.
- Theo báo cáo, năm 2007 các tập đoàn, tổng công ty đầu tư vào các công ty con là trên 57.078 tỉ đồng và các công ty liên kết là trên 34.545 tỉ đồng. Các công ty con, công ty liên kết đảm nhận một phần nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh chế độ quy định.chính mà công ty mẹ giao. Việc đầu tư của công ty mẹ vào các công ty con, công ty liên kết nói trên là phù hợp với quy định của pháp luật và mô hình của công ty mẹ - công ty con và tham gia góp vốn thực hiện các dự án đầu tư theo chế độ qui định.
Trong thời gian qua cũng có một số tập đoàn, tổng công ty đầu vào lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bất động sản với số tiền là 7.370 tỉ đồng, cụ thể như sau:
+ Có 13 tập đoàn, tổng công ty đầu tư vào các quỹ chứng khoán vầ quỹ đầu tư tài chính với tổng giá trị 1.061 tỉ đồng, bằng 0,31% vốn chủ sở hữu và bằng 0,13% tổng giá trị tài sản;
+ Có 19 tập đoàn, tổng công ty góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần với tổng giá trị đầu tư 4.426 tỉ đồng bằng 1,3% vốn chủ sở hữu và bằng 0,55% tổng giá trị tài sản;
+ Có 13 tập đoàn, tổng công ty góp vốn thành lập 15 công ty chứng khoán với tổng giá trị đầu tư 420 tỉ đồng, bằng 0,12 vốn chủ sở hữu và bằng 0,15 tổng giá trị tài sản;
+ Có 18 tập đoàn, tổng công ty góp vốn vào lĩnh vực bất động sản với tổng giá trị đầu tư 1.463 tỉ đồng, bằng 0,43% vốn chủ sở hữu và 0,18% tổng giá trị tài sản.
Về việc này, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo: các DNNN không được sử dụng vốn đầu tư của chủ sở hữu, quỹ đầu tư phát triển và nguồn vốn xây dựng cơ bản để tham gia góp vốn thành lập, mua cổ phần của các quỹ đầu tư chứng khoán (kể cả các quỹ đầu tư mạo hiểm), công ty đầu tư chứng khoán. Việc sử dụng vốn của DNNN để đầu tư tài chính, đầu tư vào thị trường chứng khoán không được làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được nhà nước giao; trước khi đầu tư vào các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, ngân hàng phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ và giao cho Bộ Tài chính kiểm tra, giám sát hoạt động này. (Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 09/2009/NĐ-CP với các quy chế mới về quản lý tài chính của doanh nghiệp Nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác.)
5. Chu kỳ kinh doanh
Chu kỳ kinh tế là chủ đề được nhiều nhà kinh tế cũng như các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Hai biến vĩ mô chính được sử dụng để xác định chu kỳ kinh tế là tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp.
Khủng hoảng, suy thoái theo chu kỳ không là sản phẩm của riêng ai và thời gian phục hồi ở mỗi nước phụ thuộc vào hiệu quả của các chính sách vĩ mô cũng như nỗ lực của người dân và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn và bước vào pha phát triển của chu kỳ tiếp theo, sự “phá hủy mang tính sáng tạo” cùng những phát minh giúp nâng cao năng suất lao động ở những chu kỳ trước đó (công nghệ thông tin, thị trường thế chấp phái sinh...) sẽ là nền tảng giúp nền kinh tế phát triển ở tầm cao hơn trong chu kỳ tiếp theo.
Nhìn vào số liệu thống kê về tăng trưởng và thất nghiệp ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay có thể thấy sau hơn 20 năm đổi mới nước ta đã trải qua ba giai đoạn suy thoái chu kỳ với tần suất từ 9-10 năm. Lần đầu tiên là năm 1989-1990 khi tăng trưởng GDP trung bình chỉ đạt 4,9% trong khi tỷ lệ thất nghiệp lên đến 13% năm 1989 và 9% năm 1990.
Từ năm 1990, sau khi tư duy cải cách thực sự được chuyển hóa thành các chính sách kinh tế và đi vào cuộc sống, nền kinh tế đã nhanh chóng vượt qua giai đoạn khó khăn và bước vào thời kỳ phát triển mạnh với tốc độ tăng GDP bình quân 8,2%/năm trong giai đoạn 1991-1995, đạt mức cao nhất trong chu kỳ là 9,5% năm 1994, thất nghiệp chỉ còn 5,8%.
Hình 2.5: Biểu đồ tăng trưởng và thất nghiệp trong các chu kỳ kinh tế
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Tuy nhiên, do cú sốc của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nên nước ta lại nhanh chóng đi vào thời kỳ suy thoái 1998-1999. Tốc độ tăng trưởng chỉ còn 5,8% năm 1998 và xuống đáy 4,8% năm 1999. Cũng trong năm 1999, thất nghiệp tăng lên 6,7% và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn ở mức rất cao 28,9%.
Từ năm 2000-2008, việc tiếp tục kiên trì đường lối đổi mới với nhiều cải cách mạnh mẽ, đặc biệt là sự ra đời Luật Doanh nghiệp đã giải phóng nguồn lực dồi dào trong khu vực dân doanh. GDP liên tục tăng qua các năm và đạt 8,5% năm 2007, thất nghiệp giảm xuống chỉ còn 4,2%. Tuy nhiên, để đạt được kết quả đó, trong giai đoạn 2003-2007 cung tiền cũng tăng cao trung bình 25%/năm, tín dụng nội địa tăng trên 35%/năm và đạt mức cao nhất thế giới là 53% trong năm 2007.
Trong khi đó, có tới 60% lượng tín dụng được dành cho các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả khi ICOR ở mức rất cao (9-12) và chỉ có thể tạo việc làm cho khoảng 10% lực lượng lao động. Theo phân tích về chu kỳ của trường phái kinh tế học Áo (Mises, Hayek), sự dư thừa tín dụng và phân bổ không hiệu quả này rốt cuộc đã dẫn tới khủng hoảng tín dụng và buộc thị trường tín dụng phải điều chỉnh như chúng ta đã chứng kiến trong năm 2008.
Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới cũng là một cú sốc mạnh từ bên ngoài đã cộng hưởng và nhanh chóng đưa nước ta vào pha suy thoái của chu kỳ. Tăng trưởng GDP giảm xuống chỉ còn 6,2% năm 2008, thất nghiệp tăng lên 4,6%.
Một số dự báo gần đây cho rằng tăng trưởng GDP năm 2009 có thể chỉ còn khoảng 4% và thất nghiệp sẽ ở mức rất cao. Một điểm cần lưu ý là các trường phái kinh tế đều không thể thống nhất về tần suất của các chu kỳ kinh tế. Việt Nam đã ở đáy của chu kỳ trong giai đoạn 1989-1990, 1998-1999 và có thể là 2008-2009 nhưng không phải là đến 2018-2019 chúng ta mới rơi vào thời kỳ suy thoái tiếp theo.
Việc chi tiêu đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng cần quan tâm đến chu kỳ kinh tế.
6. Môi trường đầu tư
Theo kết luận của một bộ báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2006 nhan đề “Việt Nam: Những thách thức đối với cơ sở hạ tầng”, tổng đầu tư cho có sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài so với năm 1990, và chất lượng đường cải thiện rõ rệt. Tất cả các khu vực đô thị và 88% các hộ gia đình nông thôn có điện. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số năm 1993 lên đến 49% dân số năm 2002
Chất và lượng của cơ sở hạ tầng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tại nơi các doanh nghiệp này có trụ sở và mở rộng kinh doanh, vấn đề của Việt Nam trong tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn ở bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang chưa tìm thấy đáy càng trở nên nặng nề. Hơn thế, hệ thống đường giao thông và nguồn cung cấp điện là những nhu cầu hạ tầng cấp thiết đối với doanh nghiệp cũng là những điểm yếu lớn nhất của cơ sở hạ tầng nước ta.
Một trong những yếu tố quan trọng của môi trường đầu tư phải kể đến là lao động. Môi trường đầu tư tốt bao gồm nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Thêm vào đó, lợi thế của lao động Việt Nam vẫn được biết đến là dồi dào với 86,16 triệu dân (năm 2008). Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2008 ước tính 45 triệu người, tăng 2% so với năm 2007, Về trình độ lao động, lao động qua đào tạo chiếm 30%, trong đó 19% qua đào tạo nghề, chỉ có khoảng 37% kỹ sư tìm được việc làm. Do đó, điểm cho năng lực cạnh tranh về nguồn nhân lực tổng hợp thấp, chỉ đạt 3,79/10.
Theo báo cáo Môi trường kinh doanh 2009 do Ngân hàng Thế giới (WB) công bố sang 10/9/2008, Việt Nam đã từ hạng 91 (trên tổng số 178 nền kinh tế được tính năm ngoái) tụt 1 bậc xuống vị trí 92 trong tổng số 181 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, đó là theo cách tính của năm ngoái, nếu dùng phương pháp luận của năm nay, Việt Nam đã tụt 5 bậc (từ 87 xuống 92) trong bảng xếp hạng.
Bảng 2.6: Chỉ số môi trường Việt Nam 2008-2009
Mức độ thuận lợi về
2009
2008
Thay đổi xếp hạng
Môi trường kinh doanh
92
87
-5
1.Thành lập Doanh nghiệp
108
101
-7
2.Cấp giấy phép
67
64
-3
3.Tuyển dụng và sa thải lao động
90
72
-18
4.Đăng ký tài sản
37
38
+1
5.Vay vốn và tín dụng
43
51
+8
6.Bảo vệ nhà đầu tư
170
168
-2
7.Đóng thuế
140
131
-9
8.Thương mại quốc tế
67
65
-2
9.Thực thi hợp đồng
42
42
0
10.Giải thể doanh nghiệp
124
124
0
Nguồn: Báo cáo môi trường kinh doanh 2009 của WB
Song, Việt Nam cũng đạt được tiến bộ trong lĩnh vực Vay vốn. Tiêu chí vay vốn tín dụng của Việt Nam được các chuyên gia của Ngân hàng thế giới đánh giá là có những cải cách đáng ghi nhận nhất, xếp thứ 43 so với vị trí 59 của Trung Quốc, 68 của Thái Lan và 109 của Indonesia. Theo Ngân hàng thế giới, sở dĩ Việt Nam đạt được thứ hạng tốt trong lĩnh vực vay vốn tín dụng là do Việt Nam đã áp dụng hệ thống đăng ký thông tin tín dụng công giúp lưu trữ hồ sơ các tổ chức tín dụng lâu hơn và giúp cung cấp cho các tổ chức tín dụng có thêm các dữ liệu về lịch sử tín dụng và khả năng trả nợ cho các khách hàng tiềm năng. Việt Nam đã mở rộng phạm vi các tài sản được dùng để thế chấp qua đó các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng được dễ dàng hơn. Tiếp theo Bộ luật Dân sự sửa đổi năm 2005, Nghị định 163/2006 về Giao dịch Bảo đảm ban hành cuối năm 2006 tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi hơm cho các hoạt động cho vay có thế chấp bằng việc cho phép sử dụng động sản làm vật thế chấp. Vì vậy chỉ số Mức độ của quyền lợi theo luật định của Việt Nam tăng thêm điểm, chứng tỏ luật được xây dựng tốt hơn theo hướng mở rộng quy mô tiếp cận tín dụng.
Bảng 2.7: So sánh chỉ tiêu vay vốn và tín dụng của Việt Nam với khu vực
Vay vốn và tín dụng
Việt Nam
Khu vực
Mức độ của quyền lợi theo luật định
7
5.8
Mức độ đầy đủ của thông tin tín dụng
14
2.0
Độ phủ của đăng ký công cộng (% người lớn)
13.4
7.2
Độ phủ của đăng ký tư nhân (% người lớn)
0.0
11.3
Nguồn: Báo cáo môi trường kinh doanh 2009 của WB
Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần cải thiện một số lĩnh vực:
+ Bảo vệ nhà đầu tư: Việt Nam vẫn còn nằm trong nhóm nước bảo vệ nhà đầu tư kém nhất. Luật mới có quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của giám đốc và thành viên hội đồng quản trị nhưng chưa cung cấp cơ chế thực thi các quy định này. Các tòa án kinh tế ở Việt Nam chưa có quyền xét xử các vụ việc liên quan đến nhà đầu tư kiện giám đốc hay thành viên hội đồng quản trị. Chỉ số mức độ trách nhiệm của giám đốc do vậy nằm trong nhóm thấp nhất thế giới. Việt Nam cần phải tiến hành nhiều cải cách trong lĩnh vực bảo vệ nhà đầu tư để họ có thể tự tin hơn khi bỏ vốn đầu tư
+ Giải thể doanh nghiệp: Giải quyết các trường hợp phá sản của Việt Nam vẫn còn kém hiệu quả, xếp hạng. Cơ chế hiện tại để giải quyết phá sản ở Việt Nam vẫn còn khó khăn và mất nhiều thời gian. Một trường hợp phá sản được ước tính mất khoảng hơn 5 năm và tốn 15% chi phí giá trị tài sản, nếu áp dụng quy trình chính thức. Hơn nữa, khi kết thúc việc phá sản, các bên liên quan chỉ thu hồi được 18% giá trị tài sản. Vi thế, ít doanh nghiệp tuân theo các quy định và thủ dục chính thức khi muốn đóng cửa hoạt động
+ Đóng thuế: báo cáo cho biết các doanh nghiệp ở Việt Nam mất khá nhiều thời gian thực hiện các nghĩa vụ thuế. Tính trung bình, doanh nghiệp mất 1,050 giờ, tương đương với 130 ngày làm việc để hoàn thành các thủ tục liên quan đến đóng thuế.
+ Thương mại quốc tế: Việc gia nhập WTO của Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động xuất nhập khẩu. Thời gian tiêu tốn cho thủ tục xuất nhập khẩu giảm đáng kể so với năm ngoái. Chi phí xuất nhập khẩu cũng giảm đáng kể. Tuy nhiên các nhà xuất khẩu ở Việt Nam vẫn mất nhiều thời gian lo thủ tục xuất nhập khẩu và chịu chi phí cao hơn nhiều so với các đồng nghiệp của họ ở trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia và Singapore. Điều này gây ảnh hường tới tính cạnh tranh trong xuất khẩu của Việt Nam.
II. Tình hình kích cầu
Nửa cuối năm 2008, đặc biệt từ tháng 10/2008 trở lại đây, tình hình kinh tế thế giới diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã dẫn đến suy thoái kinh tế ở nhiều quốc gia trong đó có những quốc gia lớn như Mỹ, Đức, Pháp, Italia, Thụy Sĩ, Nhật, Singapore Tác động của cuộc khủng hoảng này ngày càng rõ rệt đối với nước ta thể hiện ở các mặt:
Hoạt động sản xuất kinh doanh giảm, trong đó từ tháng 10 giá trị gia tăng ngành xây dựng hầu như không tăng.
Kim ngạch xuất nhập khẩu tháng sau giảm so với tháng trước (kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 10 giảm 3,3% so với tháng 9, tháng 11 giảm 4,8% so với tháng 10)
Sức tiêu dùng giảm, hàng hóa ứ đọng, hoạt động sản xuất có xu hướng bị thu hẹp, nhất là ở các lĩnh vực và sản phẩm như thép, xi măng, xây dựng, điều , cà phê, gạo
Thu Ngân sách Nhà nước giảm (thu Ngân sách Nhà nước tháng 10 giảm 13,5% so với tháng 9, tháng 11 giảm 11,2% so với tháng 10 và chỉ bằng 72% số bình quân tháng trong 10 tháng đầu năm)
Chỉ số giá tiêu dung giảm
Thị trường chứng khoán trì trệ, chỉ số giá chứng khoán giảm thấp (chỉ số Vn index giảm gần 70% so với đầu năm 2008)
Thị trường bất động sản trầm lắng
Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đang tiếp tục rút khỏi Việt Nam
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu như hiện nay, cuối 2008 Chính phủ đã có chủ trương kích cầu với gói 1 tỷ USD, rồi 6 tỷ USD. Gói kích cầu tổng thể của Chính phủ gồm nhiều nguồn giải ngân:
Nguồn thứ nhất là phát hành trái phiếu Chính phủ để tiếp tục vay tiền đầu tư vào những công trình mục tiêu như trường học, bệnh viện, cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi. Tiếp nữa là đầu tư cho các công trình nhà ở xã hội.
Nguồn thứ hai dùng để kích cầu là sẽ miễn giảm, hoãn, chậm việc thu thuế để doanh nghiệp có nguồn đầu tư.
Nguồn thứ ba là Chính phủ sẽ sử dụng Quỹ dự trữ Nhà nước của Chính phủ để đầu tư cho một số mục tiêu, chủ yếu là để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm để thúc đẩy tiêu dùng.
Kích cầu thông qua lãi suất
* Lãi suất là một trong hai yếu tố quan trọng tới quyết định tới chi đầu tư của doanh nghiệp vì lãi suất với tư cách là chi phí sử dụng vốn nên ảnh hưởng trực tiếp chi tiêu và hiệu quả tài chính của dự án đầu tư. Chính vì vậy, nó quyết định rất lớn đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Lãi suất giảm làm chi phí vốn nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận đầu tư, doanh nghiệp tăng vay nợ. để tăng đầu tư mới, mở rộng sản xuất nên tác động tích cực đến tổng cầu. Việc Chính phủ sử dụng gói kích cầu tác động trực tiếp đến lãi suất cho vay sẽ tác động tích cực đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, sản xuất đình trệ như hiện nay.
Đầu năm 2009 gói 1 tỷ USD được định hình với Quyết định 131/TTg-QĐ ngày 23/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về bù 4% lãi suất cho một số khoản vay của các DN vừa và nhỏ. Về độ lớn, nếu xét về mức tuyệt đối thì còn thấp xa so với các nền kinh tế lớn, nhưng nếu so với nguồn lực của đất nước thì thuộc loại cao. Nếu so với GDP tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái bình quân năm nay của Việt Nam (khoảng 88,5 tỷ USD), thì gói tài chính trên đã chiếm khoảng 6,8%; nếu so với mức dự trữ ngoại hối, thì đã chiếm khoảng 26%. Các tỷ lệ này thuộc loại khá cao so với mức bình quân chung của khu vực, châu Á và thế giới.
Điều 1 của Quyết định cho biết, trong năm 2009, nhà nước sẽ hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất - kinh doanh, nhằm giảm giá thành sản phẩm hàng hóa, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới.
Đối tượng và phạm vi áp dụng gồm các tổ chức tín dụng cho vay vốn đối với các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật, là các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, ngân hàng 100% vốn nước ngoài và quỹ tín dụng nhân dân trung ương.
Các khoản vay được xác định là ngắn hạn bằng đồng Việt Nam theo các hợp đồng được ký kết và giải ngân trong năm 2009 của các tổ chức, cá nhân để làm vốn lưu động sản xuất, kinh doanh, được thống kê tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 8 tháng kể từ ngày giải ngân, áp dụng trong năm 2009 đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 1/2 -31/12/2009. Với các khoản vay có thời hạn vay vượt quá năm 2009, thì chỉ được hỗ trợ lãi suất đối với khoảng thời gian vay của năm 2009; các khoản vay quá hạn trả nợ, được gia hạn nợ vay thì không được tính hỗ trợ lãi suất đối với khoảng thời gian quá hạn trả nợ và gia hạn nợ vay.
Ngân hàng Nhà nước vừa cho biết, trong tháng 2/2009, các ngân hàng thương mại đã giải ngân 93.027 tỷ đồng cấp bù lãi suất. Trong đó, khối ngân hàng thương mại nhà nước giải ngân 72.630 tỷ đồng, ngân hàng thương mại cổ phần 18.854 tỷ đồng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các liên doanh 1.543 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, chiều 23/1, Ngân hàng Nhà nước công bố loạt quyết định và thông tư với những điều chỉnh quan trọng về lãi suất và cơ chế cho vay của các tổ chức tín dụng. Theo Quyết định số 172/QĐ-NHNN ngày 23/1, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 8,5%/năm xuống 7%/năm. Với quyết định này, lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng giảm từ 12,75%/năm xuống 10,5%/năm. Cùng ngày, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 173/QĐ-NHNN, điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ 9,5%/năm xuống 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 6%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm. Với Quyết định số 174/QĐ-NHNN ngày 23/1, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng giảm từ 8,5%/năm xuống 3,6%/năm. Theo Ngân hàng Nhà nước, mục đích của việc điều chỉnh giảm lãi suất nêu trên là triển khai thực hiện các giải pháp cấp bách của Chính phủ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới.
Kích cầu thông qua Chi đầu tư của Nhà nước
* Đầu tư của Nhà nước là một trong các yếu tố ảnh hưởng tới chi đầu tư. Chi tiêu Chính phủ cũng là một trong các yếu tố của tổng cầu. Việc Chính phủ tăng ngân sách cho việc đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư phát triển sẽ tạo tác động trực tiếp đến tổng cầu, đến tổng vốn đầu tư xã hội, góp phần thúc đầy tăng trưởng kinh tế. Không những thế, chi đầu tư của Chính phủ còn tạo tác động gián tiếp đến đầu tư khu vực tư nhân do các nhà đầu tư kỳ vọng vào môi trường đầu tư ổn định, nền kinh tế tăng trưởng và được Chính phủ đầu tư một cách đáng kể. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái như hiện nay, việc đầu tư của khu vực tư nhân suy giảm nhiều. Chính phủ tăng chi đầu tư một cách hợp lý sẽ tạo ra sức lan tỏa, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng.
Theo số liệu thống kê chính thức, đầu tư công chiếm khoảng 18% GDP và 45% tổng đầu tư toàn xã hội. Trên thực tế, con số này có thể còn cao hơn do vai trò quan trọng của nhà nước trong nhiều công ty cổ phần. Vì vậy, chính phủ có thể và cần tác động tới hoạt động đầu tư công thông qua việc xác lập lại ưu tiên trong đầu tư.
Trong năm 2009, ưu tiên trong đầu tư của chính phủ phải được dành cho các dự án tạo việc làm để bảo vệ thu nhập cho người lao động, duy trì nhu cầu nội địa để giảm thiểu thâm hụt thương mại và khuyến khích sản xuất trong nước. Đầu tư công cũng phải tập trung vào việc cung ứng những cơ sở hạ tầng cơ bản cho những khu vực và ngành kinh tế thâm dụng lao động nhiều nhất và tạo ra kim ngạch xuất khẩu.
Nghị quyết 30/2008/NĐ-CP của Chính phủ nêu ra một số biện pháp kích cầu đầu tư thông qua vốn Ngân sách Nhà nước:
Đối với các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cho phép tiếp tục giải ngân số vốn còn lại của năm 2008 đến hết tháng 6/2009. Đối với các dự án, công trình quan trọng, cấp bách nhưng chưa bố trí được nguồn vốn, trong đó có dự án tái định cư các khu kinh tế, các bộ ngành và địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành các thủ tục đầu tư và chủ động làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xử lý nguồn vốn, kể cả việc tạm ứng ngân sách nhà nước để thực hiện.
Tạm hoãn thu hồi các khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch năm 2009, trừ các khoản đã tạm ứng năm 2009 để hoàn thành trong năm 2008. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ngay trong tháng 12 này danh mục các dự án và mức vốn được hoãn thu hồi.
Đối với các dự án, công trình sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ, cho phép điều chỉnh tổng mức đầu tư đối với các dự án đã có trong danh mục được Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ giao; trên cơ sở đó thực hiện việc điều hòa vốn giữa các dự án, công trình và được thanh toán theo đúng tiến độ. Đồng thời, cho phép tiếp tục giải ngân nguồn vốn trái phiếu Chính phủ còn lại của năm 2008 trong năm 2009. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan hoàn thành phương án phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ năm 2009 trước ngày 31/12/2008; bổ sung các dự án cấp bách khác trong các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục để triển khai thực hiện. Tạm ứng từ nguồn trái phiếu Chính phủ khoảng 1.500 tỷ đồng để đầu tư, xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi, nâng cao năng lực phòng chống lụt bão vùng đồng bằng sông Hồng
Thưc tế, sự bất cập và chậm trễ trong hoạt động bảo dưỡng, cải tạo hệ thống thủy lợi và thoát nước đã làm xói mòn hiệu quả của đầu tư công trong lĩnh vực nông nghiệp. Xu hướng phổ biến hiện nay là chú trọng quá mức tới việc xây mới trong khi không quan tâm đúng mức tới việc bảo dưỡng và duy trì hệ thống tưới tiêu hiện có; trong khi đó, hoạt động bảo dưỡng và quản lý hệ thống thủy lợi và tưới tiêu không chỉ tạo ra nhiều việc làm mà còn giúp nâng cao năng suất nông nghiệp.
Ở một thái cực khác, chính phủ đã phê duyệt kế hoạch xây dựng nhà máy lọc dầu thứ tư với tổng đầu tư lên tới 4,4 - 4,8 tỷ USD. Chính phủ vẫn chưa công bố nghiên cứu khả thi để chứng minh cho lợi ích kinh tế của dự án này, mà theo ước tính sơ bộ chắc sẽ thấp nếu không nói là có thể âm. Các công ty dầu mỏ trên khắp thế giới đã giảm công suất ngay từ khi giá dầu còn cao khi thấy biên lãi suất bị thu hẹp dần.
Chính phủ cũng đã công bố kế hoạch xây dựng tổ hợp công nghiệp - dịch vụ - cảng biển Hải Hà ở tỉnh Quảng Ninh, tình trạng đầu tư quá mức vào cảng biển ở Việt Nam. Những dự án loại này vừa sử dụng vốn không hiệu quả, vừa không tạo ra nhiều việc làm mới, vừa dẫn tới thâm hụt ngân sách và thương mại.
Kích cầu thông qua các yếu tố tác động đến môi trường đầu tư
* Môi trường đầu tư cũng là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2006, mức độ tin tưởng của doanh nghiệp vào tương lai kể cả độ tin cậy trong chính sách Nhà nước sẽ quyết định việc doanh nghiệp có đầu tư hay không và tiếp tục đầu tư như thế nào. Việc Chính phủ áp dụng các biện pháp kích cầu tác động đến môi trường đầu tư sẽ giúp nâng cao lòng tin của các nhà đâu tư, tăng kỳ vọng của các nhà đầu tư vào hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái như hiện nay, việc tăng kỳ vọng của nhà đầu tư cho các khoản lợi nhuận trong tương lai càng có ý nghĩa quan trọng. Từ đó, góp phần tăng chi đầu tư của khu vực tư nhân và nước ngoài tại Việt Nam.
Nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng:
Muốn giải quyết các khó khăn của nền kinh tế thì phải giải quyết phần gốc, phần nền tảng. Kích cầu vào cơ sở hạ tầng là kích cầu vào khâu then chốt, vì cơ sở hạ tầng của ta còn kém. Hơn nữa, nó sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn. Ngành xây dựng cơ bản thì sức cầu lớn. Sức cầu hay chính là nhu cầu của xã hội, của người dân lớn, thế thì khả năng hoàn trả vốn đầu tư lớn. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng hiện nay có thuận lợi hơn nhiều vì kinh tế vẫn có khả năng tăng trưởng. Thu nhập của người dân thì họ có khả năng chi trả được. Hơn nữa nguyên liệu cũng giảm, lãi suất ngân hàng cũng giảm.
Hiện nay, kích cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng cần rất nhiều vốn (tổng số vốn cần để đầu tư cho cơ sở hạ tầng từ nay đến năm 2020 là trên 72,8 tỷ USD), do đó không nên chỉ trông vào ngân sách, nguồn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6284.doc