Mục lục
Lời mở đầu 1
I. Tổng quan về ASEAN, AFTA: 2
1. Liên kết KTQT: 2
2. ASEAN và AFTA 3
II. Thực trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA 6
1. Việt Nam và AFTA 6
2. Những cơ hội và thách thức của các danh nghiệp Việt Nam khi tham gia AFTA 9
III. Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng caokhả năng cạnh tranh của các DNVN khi hội nhập AFTA. 15
1. Khả năng phát triển của DNVN trong những năm tới. 15
2. Các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNVN trong tiế trình hội nhập AFTA. 16
Kết luận 23
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2063 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mang tính phổ biến của ASEAN khi tham gia hiệp định CEPT thành lập AFTA và các hoạt động kinh tế quốc tế và khác.Đặc thù dễ nhận thấy nhất là ở thể chế và cơ chế quản lý kinh tế ; ở khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam với các nước trong ASEAN đã có nền kinh tế thị trường phát triển ở năng lực các doanh nghiệp doanh nghiệp bao gồm các nhà nước và tư nhân trong điều kiện cạnh tranh trong điều kiện của nền kinh tế thị trường mở của hội nhập kinh tế toàn cầu theo hướng tự do hoá ; đến các yếu tố cơ bản khác của nền kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và các kết cấu hạ tầng phần cứng (giao thông, chính sách....) và các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ và công nghệ hiện đại chưa đảm bảo sự tham gia vào quá trình hội nhập chủ động có hiệu quả.
Khó khăn to lớn đang trở thành thách thức làm thế nào để chủ động và tích cực tham gia vào dòng chảy hội nhập kinh tế khu vực và thế giới mà vẫn bảo vệ và phát huy lợi ích quốc gia bản sắc dân tộc, gắn liền với lợi ích khu vực theo mục tiêu đoàn kết, hòa bình ổn định và thịnh vượng. Đây có thể là thách thức lớn nhất trước mắt và trực tiếp trong công cuộc hội nhập. Tuy nhiên Việt Nam với hướng thuận lợi căn bản là trong khi vẫn nỗ lực phát triển theo con đường riêng của mình đã tranh thủ tận dụng những hình thức, xu thế hợp tác tích cực ở nhiều cấp độ với khu vực và thế giới. Những thuận lợi đó trước hết là ở chính con người Việt Nam thông minh, hiếu học cần cù vượt khó, ở một lực lượng lãnh đạo thống nhất kiên trung, đường lối đổi mới toàn diện phát huy tối đa nội lực và sức mạnh dân tộc tích cực tranh thủ ngoại lực và gắn kết với thế mạnh của đoàn kết khu vực ngày nay và với chính sách đối ngoại đúng đắn nâng cao vị thế của Việt Nam trong trường quốc tế, do đó Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực chủ động trong hiệp hội và càng thu hút được nhiều thành công trong tiến trình hội nhập AFTA
Với chủ trương tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế (Việt Nam đã có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA.Trong năm qua Việt Nam đã công bố các danh mục hàng hoá hàng năm thực hiện hiệp định CEPT ngay từ những năm 1996 Việt Nam đã công bố danh mục hàng hoá và mức thuế suất của 857 mặt hàng vào thực hiện CEPT, thuộc danh mục IL, năm 1997, Việt Nam tiếp tục công bố đưa thêm vào thực hiện CEPT 621 mặt hàng ; Năm 1998 công bố đưa thêm 137 mặt hàng; Năm 1999 là 1949 mặt hàng và năm 2000 có thêm 640 dòng thuế nữa vào mục thực hiện CEFT. Cho đến nay, tổng các mặt hàng được đưa vào danh mục cắt giảm gồm 4 230 dòng thuế, trong đó có 2 960dòng thuế có thuế suất 0-5%. Dự kiến có khỏng 1940 dòng thuế thuộc danh mục tạm thời được chuyển vào cắt giảm trong những năm 2001 –2003 để đến năm 2006 thuế suất nhập khẩu toàn bộ các dòng thuế thực hiện AFTA đúng theo cam kết 0 –5%. Trong giai đoạn 2001 – 2006 Việt Nam phải thực hiện tiến trình cắt giảm thuế quan 6210 dòng thuế nhập khẩu trong tổng số 6400 dòng thuế hiện hành bao gồm 4200 đã được đưa vào thực hiện CEPT trước năm 2001; 720 dòng thuế cắt giảm trong năm 2001 khoảng 510 dòng thuế ở năm 2002 và 710 dòng thuế ở 2003.Theo lịch trình tổng thể đã được thông qua về nguyên tắc nên đến 2006, khoảng 95% mặt hàng nhập khẩu từ ASEAN có mức thuế suất 5% và không bị áp dụng biện pháp phi thuế quan.
Như vậy Việt Nam muốn phát triển kinh tế trong bối cảnh tổng hợp CEPT / AFTA đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết ở các cấp nghành từ trung ương đến địa phương
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam
là động lực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ thích ứng với quá trình hội nhập trực tiếp là CEPT và AFTA. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA cũng có nghĩa là chấp nhận một cuộc chơi cạnh tranh trong sân chơi bình đẳng ngay trong khu vực và tại nước mình. Thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh. Khi đã nâng cao được khả năng cạnh tranh, sản xuất được thúc đẩy và doanh nghiệp phát triển. Một sự chuẩn bị tích cực để tham gia hợp tác, hội nhập trên nhiều phương diện ở nhiều cấp độ không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện cần thuộc phạm vi chính sách vĩ mômà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác, đặc biệt là khả năng nội lực chủ động thích ứng của các doanh nghiệp. Nâng cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam đối với AFTA đang là yêu cầu cấp thiết, liên quan trực tiếp đến các lợi ích của các chủ thể tham gia công cuộc hội nhập khu vực và quốc tế, trong đó có doanh nghiệp và người tiêu dùng
2. Những cơ hội và thách thức của các danh nghiệp Việt Nam khi tham gia AFTA
2. 1) Cơ hội:
Quan điểm của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cho rằng, tham gia vào AFTA doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức hơn là cơ hội. Lý giải cho quan điểm này bắt nguồn từ thực trạng yếu kém của các DNVN cũng như khả năng cạnh tranh của các DNVN trước các đối tác ASEAN, đặc biệt là ASEAN 5. Tuy nhiên nếu xem xét nội dung AFTA đối chiếu vào hoạt động của DNVN, có thể thấy nếu các DNVN có chiến lược, giải pháp đúng đắn sẽ tận dụng được những cơ hội thuận lợi.
Thứ nhất: Quá trình hội nhập sẽ ép buộc DNVN phải tự đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tích cực áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ và cung cách làm ăn mới. Hội nhập bắt buộc và khuyến khích các DNVN tập trung vào những nghành được ưu đãi lớn và ngừng sản xuất những mặt hàng không có tính cạnh tranh. Sức ép to lớn đó đòi hỏi các DNVN phải đuổi kịp và vượt các nước khác về mẫu mã, chất lượng và gia cả hàng hoá, nếu không sẽ phá sản và trao thị trường Việt Nam cho các đối thủ khu vực và thế giới
Thứ hai: DNVN có thể hạ giá thành sản phẩm do mua được nguyên vật liệu đầu vào rẻ hơn. Đây là cơ hội không dễ có được với bất cứ một doanh nghiệp nào. Những khó khăn khan hiếm nguyên liệu cho sản xuất sẽ được giải quyết. Nếu DNVN tận dụng tốt cơ hội này họ sẽ đủ sức vươn lên cạnh tranh với các đối thủ khác.
Thứ ba: DNVN sẽ tự trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp nhà nước (DNNN) xưa nay làm ăn thua lỗ nhưng vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bởi các doanh nghiệp nước ngoài hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng. Do đó sản xuất trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích ứng nhanh chóng với các điều kiện thay đổi
Thứ tư: AFTA tạo điều kiện thuận lợi mở rộng thị trường hàng hoá dịch vụ xuất khẩu cho các DNVN hội nhập vào thương mại khu vực
Nội dung của AFTA đã đưa ra các nguyên tắc về xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại, các tranh chấp thương mại được gíải quết công bằng, thực hiện bình đẳng trong đàm phán. Thông qua các nguyên tắc này, khi các DNVN tham gia AFTA các sản phẩm sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi hơn cả thuế suất tối huệ quốc (MFN) mà các nước ASEAN sẽ dành cho các nước thành viên WTO.
Thực tế thương mại hai chiều giữa Việt Nam và các nước ASEAN kể từ khi Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN (1995) và khi Việt Nam tham gia AFTA (1996) cho đến nay cho thấy các sản phẩn đóng góp của DNVN trong thương mại nội bộ khu vực tăng lên.
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
XK
1,112
1,364
1,911
2,372
2,463
NK
2,378
2,788
3,166
3,749
3,288
Gross
3,490
4,152
5,077
6,122
5,751
%
23,9 %
33,4 %
25,5 %
29,7%
28,4 %
Nguồn: vụ hợp tác đa biên bộ thương mại
Thứ năm: Thông qua AFTA các DNVN có cơ hội thuận lợi mở rộng hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, tận dụng lợi thế về nhân công, tài nguyên thiên nhiên nhằm năng cao khả năng cạnh tranh.
Khi môi trường thương mại nội bộ khu vực ngày càng tự do cũng có nghĩa là mức độ hội nhập kinh tế giữa các nước thành viên ngày càng tăng lên. Các hình thức liên kết khác như: đầu tư nội bộ ASEAN(AIA), hợp tác công nghiệp (AICO), tài chính, giao thông vận tải, năng lượng... đang tạo điều kiện cho các DNVN có đủ khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Mặt khác do có đảm bảo bằng cam kết đa phương nên các nhà đầu tư ASEAN và nước ngoài yên tâm đầu tư và chuyển giao công nghệ tại thị trường Việt Nam cũng như các DNVN đầu tư ra nước ngoài được đối xử bình đẳng.
Thứ sáu: tham gia AFTA, các NDVN có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu, tranh thủ và bổ sung các lợi thế sắn có giữa các doanh nghiệp trong nội bộ khu vực.
Mặc dù có sự trùng lặp về cơ cấu ngoại thương giữa Việt Nam và ASEAN nhưng có nhiều lĩnh vực DNVN có thể khai thác từ thị trường ASEAN như: Việt Nam có thế mạnh về các sản phẩm nông sản, hàng dệt may mặc trong khi đó ta cũng có nhu cầu nhập khẩu máy móc hạng trung bình, các sản phẩm hoá chất, bán thành phẩm từ các nước ASEAN với giá thấp hơn so với khu vực khác trên thế giới. Nếu tranh thủ được các lợi thế này DNVN sẽ có lợi do tăng được khả năng cạnh tranh với các đối thủ bên ngoài ASEAN về giá cả, chi phí vận chuyển. Ngoài ra trong quá trình hội nhập kinh tế, các DNVN có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý,tiếp thu kỹ thuật công nghệ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ từ các nước ASEAN khác.
THứ bẩy:vị thế của DNVN được cải thiện nhờ quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ khu vực và thế giới. Trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận cũng như sức mạnh tập thể của tổ chức ASEAN, các DNVN sẽ tạo được thế và lực trong đàm phán thương mại song phương và đa phương với các cường quốc kinh tế cũng như các tổ chức quốc tế như APEC, EU, WTO....
2.2) Thực trạng năng lực cạnh tranh và khó khăn thách thức của các DNVN trong quá trình hội nhập AFTA:
Trong cạnh tranh, xét về phương diện sản phẩm đầu ra, sự thắng hay thua của một doanh nghiệp được quyết định bởi bốn yếu tố chính: gia bán (thấp); chất lượng (cao); tổ chức tiêu thụ (hợp người tiêu dùng) và uy tín của doanh nghiệp cao. Sản phẩm của các DNVN chỉ một số rất ít, còn đại đa số đều yếu kém hơn các sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN hoặc của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nguyên nhân này bắt nguồn từ sự yếu kém của các yếu tố đầu vào cuả DNVN là:
Thứ nhất: Giá đầu vào cao
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam tiến hành điều tra 800 doanh nghiệp mới đây cho thấy các DNVN chỉ dám chấm 2,87 điểm (theo thang điểm từ 1-5) cho khả năng cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Trong khi đó khả năng cạnh tranh với các đối thủ trong nước được các DNVN đánh gía ở mức 3,55 điểm. Đặc biệt so với năm 1999 thang điểm về sức cạnh tranh của các DNVN tại thị trường trong nước đã tăng từ 3,6 lên 3,7 điểm trong năm 2000. Rõ ràng sự vững tin trong cạnh tranh của các DNVN chỉ thực sự mạnh mẽ trong thị trường với những đối thủ quen thuộc. Cũng theo cuộc điều tra trên có tới 29% doanh nghiệp trong số 800 doanh nghiệp được hỏi vẫn phải sử dụng trên 40% nguyên phụ liệu nhập khẩu thậm chí có nghành phải sử dụng 70 - 80% nguyên phụ liệu nhập khẩu. Chính vì phương thức sản xuất này mà tỷ lệ giá trị gia tăng trong hàng hóa xuất khẩu của các DNVN được đánh giá thấp.Trong xu thế giảm giá hàng xuất khẩu công nghiệp của thế giới, thị việc giữ thị trường trong nước và mở rộng thị trường ASEAN cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đứng trước thách thức lớn.
Thứ hai: Chi phí trung gian cao.
So với thời điểm 1996 đến nay, giá xăng dầu tăng 42,2%, giá cước phí vận chuyển tăng 130%, tiền công tăng 75%, thuế sử dụng đất tăng 90,9% điện tăng 37,5 %, ngoại tệ tăng 20,2%, ngoài ra còn thêm các loại tiêu cực phí cũng góp phần không nhỏ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.
Thứ ba: Các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tình trạng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu làm cho năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp, dẫn đến gia sản phẩm cao. Các số liệu cho thấy hiện có khoảng 53000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với ba triệu lao động.Tuy nhiên nếu so sánh với doanh nghiệp của các nước ASEAN phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp qui mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu.Tài sản cố định bình quân cho một lao động của DNVN chỉ có 44 triệu đồng.Đối với các doanh nghiệp tư nhân, bao gồm 23000 doanh nghiệp, vốn tài sản cố định chỉ chiếm 16% tổng số vốn tài sản cố định của doanh nghiệp Việt Nam. Trình độ cong nghệ của Việt Nam hiện tụt hậu khoảng 25 - 30 năm so với Thailan, dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn từ 30 - 50 % so với các đối tác ASEAN khác. Đặc biệt trong các doanh nghiệp nhà nước có khoảng 30% doanh nghiệp thường xuyên kinh doanh thua lỗ, 30% thất thường và 40% còn lại có lãi, đây cũng chỉ lá số liệu dựa trên các báo cáo chính thức của các doanh nghiệp, mà tính chân thực của các báo cáo này không ai dám khảng định. Hơn nữa các DNVN làm ăn có lãi thường rơi vào những doanh nghệp độc quyền của nhà nước như bưu chính viễn thông, điện lực, xăng dầu... vì thế không phản ánh đúng thực lực kinh doanh của các doanh nghiệp này.
Thứ tư: kinh nghiệm về kinh doanh, năng lực quản lý, công tác tiếp thị, sự hiểu biết về thị trường, thông tin kinh doanh của các DNVN còn yếu kém, chất lượng lao động chưa cao, chưa có tính chuyên nghiệp, các doanh nghiệp chưa có chiến lược phát triển lâu dài ổn định, chiến lược cạnh tranh quốc tế mà phần lớn mới chỉ có chiến lược kinh doanh ngắn hạn, thậm chí chỉ là kế hoạch kinh doanh trong từng thương vụ.
Vấn đề này liên quan đế nhiều yếu tố. Trước hết, mức độ phổ cập các thông tin lien quan đến vấn đề AFTA đối với các doanh nghiệp còn thiếu và không đồng bộ. Nội dung của trương trình AFTA đối với các doanh nghiệp còn mang tính chất khái quát mà chưa có những nội dung cụ thể gắn với mụctiêu và chính sách hội nhập kinh tế của doanh nghiệp. Ngoài ra lịch trình cắt giảm thuế theo nội dung CEPT về tổng thể được chuẩn bị tương đối đầy đủ nhưng các danh mục sản phẩm cắt giảm thuế của từng doanh nghiệp triển khai chậm và lúng túng. Nhìn chung các DNVN chưa định ra được chiến lược và chính sách cạnh tranh sản phẩm để tiến tới 2006, khi kết thúc chương trình tự do hoá thương mại của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA, các doanh nghiệp có khả năng chủ động cạnh tranh để chiếm thị phần tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước và khu vực.Phần lớn cơ cấu sản phẩm của các DNVN hiện nay chủ yếu là sản phẩm sơ chế,sản phẩm nhiều lao động do đó giá trị gia tăng thấp, khả năng cạnh tranh yếu so với doanh nghiệp của một số nước ASEAN khác.
Thứ năm: vấn đề cân đối và sử dụng vốn để đầu tư và tái đầu tư sản xuất của các DNVN vẫn còn những vấn đề bất ổn.
Nếu so sánh với tiềm năng nguồn vốn của một số doanh nghiệp các nước ASEAN khác như:singapore, thailan, malayxia... các doanh nghiệp Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng. Theo các số liệu, DNVN cần phải huy động khoảng 20 000 tỷ VND chưa kể các nguồn vốn đầu tư đến cơ sở hạ tầng, mặt bằng sản xuất,... Riêng nguồn vốn lưu động của các DNVN mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu. Đây là bài toán khó đặt ra cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên điều nghịch lý ở chỗ một số DNVN mặc dù thiếu vốn nhưng ngại vay vốn từ ngân hàng hoặc huy động vốn từ các nguồn vốn khác.Thực tế cho thấy, lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với các doanh nghiệp hiện nay khá thấp, kèm theo các thủ tục vay vốn đơn giản nhưng cũng không thu hút được nhiều doanh nghiệp vay vốn. Sở dĩ có tình trạng này là do các doanh nghiệp lúng túng khi làm thủ tục giải ngân cũng như khó khăn tìm đầu ra bao tiêu sản phẩm.
Mặt khác chính sách thẩm định nguồn vốn cho vay của ngân hàng còn bộc lộ nhược điểm khi đánh giá thực trạng và năng lực kinh doanh của từng doanh nghiệp.Chính vì vậy dẫn đến tình trạng những doanh nghuiệp kinh doanh lành mạnh, cần vốn đầu tư chưa được đáp ứng kịp thời. Ngược lại có những doanh nghiệp sản xuất không hiệu quả, sử dụng vốn sai mục đích do có những mối quan hệ với những các bộ phụ trách ngân hàng đã chiếm dụng vốn đáng kể gây thất thoát ngiêm trọng cho nguồn ngân sách.
Thứ sáu: khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa chậm hạn chế đến việc kích thích các DNVN nâng cao hiệu quả sản xuất, cải cách cơ cấu mặt hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam mà còn làm giảm tốc độ đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay cho thấy tình trạng cung vượt cầu trong một số sản phẩm công nghiệp như điện tử, dệt may, vải sợi, xi măng,sắt thép... nguyên nhân chủ yếu do sức mua trong nước giảm.Kết quả dẫn đến hiện tượng tồn đọng vốn lưu chuyển cũng như làm tăng lãi suất vay ngân hàng của các doanh nghiệp.chính vì thế làm giảmvị thế cạnh tranh cũng như cải thiện môi trường kinh doanh của các DNVN.
Thứ bẩy: môi trường pháp lý đối với doanh nghiệp chưa được hoàn chỉnh, còn có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Từ những cơ hội và thách thức nêu trên, bài toán đặt ra đối với các DNVN hội nhập kinh tế khu vực nói chung và tham gia AFTA nói riêng là tìm ra các giải pháp khả thi có hiệu quả.
III. Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng caokhả năng cạnh tranh của các DNVN khi hội nhập AFTA.
1. Khả năng phát triển của DNVN trong những năm tới.
Các DNVN chỉ có quĩ thời gian từ 2002 đến 2005 để chuẩn bị và đảm bảo khả năng thích ứng với hoạt động sản xuất kinh doanh trong môi trường tự do hoá thương mại ở phạm vi khu vực. Troing khoảng thời gian đó các DNVN phát triển ra sao sẽ tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngoài. Nhưng bản thân các yếu tố đó cũng đang thay đổi và có những ảnh hưởng khác nhau đến sức phát triển của doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Về yếu tố khai thác nguồn tài nguyên và cơ hội khai thác nguồn tài nguyên để phát triển là yếu tố hết sức quan trọng đối với các DNVN. Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay lợi thế phát triển nhờ tài nguyên đã và đang mất dần do:
+ Hiện nay xu hướng phát triển xuất khẩu tăng mạnh ở những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hàm lượng chất xám cao.
+ Công nghiệ sản xuất hàng hoá chuyển từ công nghệ sử dụng tài nguyên tương đối hiếm sang sử dụng các vật liệu mới, sản xuất từ tài nguyên tương đối rẻ.
+ Thương mại dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị thương mại.
Về khả năng huy động vốn đầu tư xã hội:
Nếu như sự phát triển của các doanh nghiệp dựa trên cơ sở khai thác yếu tố tài nguyên đang đạt đến giới hạn do sự chuyển hoá của lợi thế so sánh,thì yếu tố vốn đầu tư lại càng trở nên quan trọng hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp.Tuy nhiên đang có một số khó khăn về khả năng huy động vốn đầu tư xã hội trong thập kỷ tới của một số doanh nghiệp như:
+ Nhiều doanh nghiệp nhà nước đang trong tình trạng nợ nần kéo dài, trong khi đó tỉ lệ lợi nhuận tương đối thấp.
+ Cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước đang phát triển nói chung và các nước trong khu vực ASEAN nói riêng được đánh giá sẽ gay gắt hơn
+ Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh vẫn còn nhiều vấn đề phải được tiếp tục hoàn thiên và đổi mơí trong nhiều năm tiếp theo, như chính sách đất đai, quy định về thế chấp khi vay vốn ngân hàng.
Về nguồn nhân lực: trong thập kỷ 90 có thể thấy rằng, sự dồi dào lao động tương đối giản đơn, giá rẻ ở nước ta đã đem lại sự phát triển chung của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất cần nhiều lao động. Tuy nhiên, lợi thế về lao động rẻ nhưng tương đối giản đơn của Việt Nam trong thập kỷ tới sẽ giảm dần và các doanh nghiệp cũng phải đề phòng nguy cơ rơi vào cái bẫy của lao động rẻ. Bên cạnh đó cũng cần thấy rằng sự khan hiếm lao động có trình độ chuyên môn được đào tạo sâu ở nưóc ta ngày càng hiện ra rõ nét hơn.
2. Các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNVN trong tiế trình hội nhập AFTA.
Trong quá trình toàn cầu hoá nói chung và quá trình tham gia AFTA nói riêng, ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lí là những yếu tố thuộc về lợi thế so sánh do thiên nhiên ban tặng, chúng ta chỉ còn một yếu tố lợi thế so sánh là lao động rẻ. Tuy nhiên lao động rẻ của chúng ta đang bị cạnh tranh gay gắt từ Trung quốc. Mặt khác, trong những năm tới lao động kĩ thuật trình độ cao mới là lao động nền kinh tế tri thức cần đến. Do vậy đông và rẻ không còn là lợi thế cho lực lượng lao động của ta nữa. Như vậy đôi khi người ta cũng phải tự tạo ra lợi thế so sánh cho mình.
2.1) Các giải pháp và kiến nghị từ phía chính phủ:1
Để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thì vai trò của nhà nước là rất quan trọng, do đó nhà nước cần phải:
Đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế:Thực tế chỉ rõ thể chế nào doanh nghiệp ấy. Một thể chế kinh tế nếu phù hợp với lòng dân, phù hợp với thực trạng của đất nước và quy luật phát triển của thời đại sẽ có tác dụng thúc đẩy to lớn với sự phát triển của một đất nước, thúc đẩy hình thành một hệ thống doanh nghiệp hùnh mạnh có khả năng cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu.điều đó đòi hỏi nhà nước phải tạo hành lang pháp lí bình đẳng ổn định cho các doanh nghiệp, mọi lĩnh vực hoạt động đều xuất phát theo luật (luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật cạnh tranh...) ngoài ra không còn rằng buộc gì nữa.Với mục tiêu như vậy, cần nhanh chóng xây dựng bộ máy làm luật một cách chuyên nghiệp,tránh tình trạng luật qui định chung chung kéo theo quy định hướng dẫn luật:nghị định hướng dẫn, thông tư hướng dẫn, thông tư liên bộ, xuông địa phương lại có văn bản hướng dẫn,sở ban nghành lại co văn bản hướng dẫn.Như vậy dễ xảy ra tình trạng cơ chế xin cho hoành hành làm cho doanh nghiệp khó có thể phát triển được.việc đổi mới thể chế kinh tế sẽ đạt được hai mục tiêu:Một là: nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế;Hai là: tạo sự minh bạch,công khai trong hoạt đọng kinh doanh,thúc đẩy khả năng cạnh tranh của các DNVN.
Xây dựng một chiến lược cạnh tranh mang tính toàn cầu:Việc thủ tướng chính phủ tiến hành các cuộc gặp gỡ với các doanh nghiệp hàng năm để lắng nghe những thắc mắc, những kiến nghị của các doanh nghiệp và giải quyết các vấn đề trên của các doanh nghiệp. Điều đó thể hiện sự quan tâm của chính phủ đế sự phát triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên để nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp thì đòi hỏi chính phủ cùng với các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh không những ở tầm khu vực, mà trên phạm vi toàn cầu, trên cơ sở đó chính phủ và doanh nghiệp sẽ có những chiến lược cụ thể. Điều này rất đúng khi nền kinh tế đã được quốc tế hoá cao, thì một sự biến động của một nước cũng sẽ ảnh hưởng tới các nước còn lại, thực tế khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997 đã chứng minh điều đó
Tạo môi trường cạnh tranh:danh nhân, giám đốc là một nghề và phải được thừa nhận như các nghề khác. đồng thời với việc đào tạo bồi dưỡng để hình thành một tầng lớp doanh nhân thực thụ, chuyên nghiệp, cần tạo ra cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong việc tuyển dụng doanh nhân, có như vậy đội ngũ doanh nhân mới ngày càng vững mạnh. Riêng với doanh nghiệp nhà nước, thực tế chỉ rõ:khi giám đốc doanh nghiệp vẫn là quan chức do nhà nươc bổ nhiệm thì lợi ích của họ không gắn bó trực tiếp với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Cần thết phải:
+ thay đổi cơ chế tuyển dụng, thực hiện việc tuyển dụng giám đốc thông qua cơ chế cạnh tranh trên thị trường
+ Xoá bỏ chế độ đẳng cấp doanh nghiệp, thực hiện cơ chế trả lương theo hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, kích thích giám đốc năng động, sáng tạo trong kinh doanh.
Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường cơ bản và thị trường hiện mới sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trương khoa học công nghệ, thị trường tư vấn và hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp. Nhà nước cần xúc tiến sớm việc xây dựng cơ chế giữa nhà nước, các chung tâm ngiên cứu khoa học và các doanh nghiệp.Điều này dẫn đến các doanh nghiệp có được các sản phẩm và mẫu mã mới, có chất lượng cao gía thành hạ, các trung tâm nghiên cứu có được thu nhập kích thích nghiên cứu phát triển, nhà nước giảm bớt được khoản ngân sách vố đã eo hẹp, lại dàn trải hiêu quả không cao.
Đẩy nhanh trương trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết giải thể các doanh nghiệp nhà nước làm ăn không có hiệu quả; hình thành công ty đầu tư tài chính nhà nước, các công ty mua bán nợi; đẩy mạnh cổ phần hoá, trong đó thành lập bộ phận chuyên trách về cổ phần hoá,bộ phận này có mối liên hệ chặt chẽ với các công ty đầu tư tài chính nhà nước, cho thuê, bán khoán, công ty mua bán nợ để giúp nhà nước tập trung vào một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các giám đốc và người lao động ở các doanh nghiệp.
Công khai lịch trình cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế quan tạo động lực mới cho các doanh nghiệp phát triển, có khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Tiếp tục cải cách hệ thống ngân hàng, trong đó cơ cấu lại các ngân hàng thương mại quốc doanh, tập trung vào cải cách thủ tục tín dụng, cải tiến dịch vụ ngân hàng hướng các ngân hàng trở thành người bạn đồng hành trong kinh doanh hơn là người chỉ coi doanh nghuiệp là người cần mình, người vay không trả.
Nhà nước cần có chính sách cụ thể, hợp lí để khuyến khích các doanh nghiệp trong quá trình tham gia AFTA như: ưu tiên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100050.doc