Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố được tính đến khi quyết định đầu tư các dự án. Bởi vậy, phát triển cơ sở hạ tầng cũng chính là bước tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với khó khăn lớn là cơ sở hạ tầng chưa đủ đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế.
Trước nhu cầu phát triển nhanh của đất nước, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng còn góp phần làm nên diện mạo mới cho các đô thị. Hiện nay, nhiều yếu tố phục vụ kinh doanh như điện năng có thời điểm vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất cho các trung tâm công nghiệp. Bên cạnh đó là hàng loạt các hạn chế như: chi phí cho điện năng và viễn thông vẫn còn cao; chất lượng đường xá kém và không đồng đều; cấp thoát nước thiếu đồng bộ . Do đó ngoài việc lập quy hoạch sớm, các ngành chức năng cần có sự phối hợp để cùng triển khai các dự án hạ tầng, tránh tình trạng lãng phí.
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 16785 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chi ngân sách nhà nước và giải pháp nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách đồng bộ giữa các công cụ tài chính, tiền tệ giá cả…trong đó công cụ ngân sách với các biện pháp như phát hành công trái, chi trả nợ, các biện pháp chi tiêu dùng của Chính phủ cho toàn xã hội, đào tạo…
Còn khi có lạm phát xảy ra, giá cả hàng hóa tăng lên do cung mất cân đối (cung nhỏ hơn cầu), Chính phủ có thể sử dụng biện pháp thuế như tăng thuế tiêu dùng giảm thuế đối với đầu tư và thắt chặt chi tiêu của NSNN, nhất là các khoản chi cho tiêu dùng để nâng đỡ cung và giảm bớt cầu.
4.Tăng cường sức mạnh của bộ máy Nhà nước, bảo vệ đất nước và giữ gìn an ninh.
NSNN là công cụ tài chính quan trọng nhất để cung ứng nguồn tài chính cho hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến xã, phường ở nước ta, nguồn NSNN hầu như là nguồn duy nhất để phục vụ cho các hoạt động của bộ máy nhà nước đến các cơ quan quyền lực,cơ quan hành chính Nhà nước đến các cơ quan tư pháp. NSNN còn cung ứng nguồn tài chính cho Đảng cộng sản lãnh đạo hoạt động, tài trợ cho các tổ chức xã hội mà nguồn tài chính của các tổ chức này không đảm bảo. Như vậy chi NSNN có vai trò quan trọng trong việc quản lý và duy trì hệ thống chính trị của nước ta.
B. Thực trạng chi NSNS
I.Bảng cân đối NSNN
1.Thu NSNN
Đơn vị : tỷ đồng
STT
Nội dung
DT 2007
UTH 2008
DT 2008
A
B
1
2
3
A
THU CÂN ĐỐI NSNN
281.900
287.900
323.000
I
Thu nội địa
151.800
159.500
189.300
1
Thu từ kinh tế quốc doanh
53.954
53.963
63.159
2
Thu từ DN có vốn ĐTNN ( không kể dầu thô)
31.041
30.378
40.099
3
Thuế CTN và dịch vụ NQD
27.667
30.508
38.347
4
Thuế sử dụng dất nông nghiệp
81
97
82
5
Thuế thu nhập với người có thu nhập cao
6.119
6.859
8.135
6
Lệ phí trước bạ
3.750
4.493
5.194
7
Thu phí xăng dầu
4.693
4.640
4.979
8
Các loại phí, lệ phí
3.885
4.364
4.889
9
Các khoản thu về nhà, đất
18,.43
21.724
21.792
_ Thuế nhà đất
584
644
698
_Thuế chuyển quyền sử dụng đất
1.249
1.739
1.974
_Thu tiền thuê đất
967
1.600
1.569
_Thu tiền sử dụng đất
14.500
16.000
16.500
_Thu bán nhà ở thuộc sở hữu NN
843
1.741
1.051
10
Thu ngân sách khác
1.804
1.811
1.937
11
Thu đất công ích, hoa lợi công sản tại xã
663
663
687
II
Thu từ dầu thô
71.700
68.500
56.600
III
Thu cân đối ngân sách từ hoạt động XNK
55.400
56.500
64.500
1
Tổng số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
69.900
74.000
84.500
_Thuế XNK và TTĐB hàng hoá nhập khẩu
23.800
25.000
26.200
_Thuế GTGT hàng hoá NK
46.100
49.000
58.300
2
Hoàn thuế GTGT và kinh phí quản lý thu thế
14.500
17.500
20.000
IV
Thu viện trợ
3.000
3.400
3.600
B
THU CHUYỂN NGUỒN
19.000
23.940
9.080
C
THU QUẢN LÝ QUA NSNN
32.616
26.550
47.698
D
VAY VỀ CHO VAY LẠI
11.650
28.100
12.800
TỔNG CỘNG (A+B+C+D)
345.166
366.490
392.578
2. Chi NSNN
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Nội dung chi
DT 2007
UTH 2007
DT 2008
A
B
1
2
3
A
Chi cân đối ngân sách
357.400
368.340
398.980
I
Chi đầu tư phát triển
99.450
101.500
99.730
Trong đó :chi đầu từ phát triển cơ bản
95.230
97.280
96.110
II
Chi trả nợ và viện trợ
49.160
49.160
51.200
1
Trả nợ trong nước
37.990
37.990
39.700
2
Trả nợ ngoài nước
10.400
10.700
10.700
3
Chi viện trợ
770
770
800
III
Chi thường xuyên
174.550
206.000
208.850
1
Chi SN giáo dục- đào tạo
47.280
53.720
54.060
2
Chi y tế
14.660
16.425
16.643
3
Chi dân số KHH gia đình
590
602
615
4
Chi khoa học, công nghệ và môi trường
3.580
3.700
3.827
5
Chi văn hoá thông tin
2,250
2.374
2.440
6
Chi phát thanh và truyền hình
1.310
1.397
1.420
7
Chi thể dục, thể thao
820
880
880
8
Chi đảm bảo xã hội
26.800
36.310
35.793
9
Chi sự nghiệp kinh tế
12.830
14.609
15.647
10
Chi quản lý HC, Đảng đoàn thể
24.800
28.075
28.438
11
Chi bù giá hàng chính sách
690
750
763
12
Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường
3.500
3.637
3.883
IV
Chi tinh giảm biên chế, lao động dôi dư
500
500
_
V
Hỗ trợ tài chính kinh doanh xăng dầu
_
2.000
_
VI
Chi dự phòng
9.040
0
10.700
VII
Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính
100
100
100
VIII
Chi cải cách tiền lương
24.600
0
28.400
IX
Chi chuyển nguồn
_
9.080
_
B
QUẢN LÝ QUA NSNN
32.616
26.550
47.698
C
VAY NN VỀ CHO VAY LẠI
11.650
28.100
12.800
TỔNG CỘNG (A+B+C)
401.666
422.990
459.478
II.Phân tích đánh giá chi NSNN
1. Đánh giá chung:
Báo cáo của Bộ Tài Chính cho biết tổng chi ngân sách Nhà nước trong tháng 8 ước đạt 29.105 tỷ đồng, tăng 1.440 tỷ đồng so với thực hiện tháng 7; luỹ kế chi đến hết tháng 8/2007 ước đạt 221.630 tỷ đồng, đạt 62% dự đoán, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2006.
Chi cho đầu tư phát triển ước đạt 55,7% dự đoán, tăng 12,9%; chi trả nợ và viện trợ ước đạt 69,3% dự đoán, tăng 21,2%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, toàn thể (bao gồm chi cải tiến tiền lương và thực hiện chính sách với lao động dôi dư) ước đạt 65,9%, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2006.
Về những thống kê trên, Bộ Tài Chính cho rằng thu – chi ngân sách Nhà nước đó chịu tác động của nhiều yếu tố và dự báo sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng trong những tháng cuối năm.
2. Chi đầu tư phát triển
Dự đoán 99.230 tỷ đồng, ước cả nắm đạt 101.500 tỷ đồng, tăng 2,1% (2.050 tỷ đồng) so với dự đoán, chiếm 27,6% tổng chi NSNN và đạt 8,9% so với GDP.
Chi đầu tư phát triển từ NSNN 2007-2008
Nội dung chi
Dự đoán 2007
Ước thưc hiện 2007
Dự đoán 2008
Tổng chi cân đối NSNN
357,400
368,340
398,980
Tổng chi đầu tư phát triển
99,450
101,500
99,730
Tỷ lệ chi phát triển so với GDP (%)
8.7
8.9
7.5
Trong đó, chi đầu tư XDCB
95,230
97,280
96,110
Tỷ lệ chi XDCB trong tổng chi ĐTPT(%)
95.8
95.8
96.4
2.1 Chi đầu tư XDCB:
Dự đoán 95.230 tỷ đồng, ước cả năm đạt 97.280 tỷ đồng, tăng 2,2% (2.050 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 19% so với năm 2006. Vốn đầu tư XDCB năm 2007 được ưu tiên thực hiện các công trình, dự án kết cấu hạ tầng quan trong phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, phát huy lợi thế từng vùng, từng ngành. Nhất là hạ tầng các tỉnh miền núi phía Bắc, miền núi phía tây các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên, Tây Nam bộ; các địa phương sử dụng dự phòng NSĐP và nguồn vượt thu NSĐP (nhất là vượt thu tiền sử dụng đất) để đầu tư cho các công trình hạ tầng quan trong trên địa bàn theo đúng chế độ quy định.
Trong tổ chức thực hiện, do nhiều nguyên nhân khác nhau như : giá nguyên vật liệu tăng , quy định của pháp luật hướng dẫn triển khai các dự án đầu tư XDCB còn vướng mắc, năng lưc của các đơn vị đầu tư còn hạn chế, giải phóng mặt bằng chậm… nên vấn đề thực hiện và giải ngân vốn đầu tư XDCN những tháng đầu năm 2007 còn chậm. Sau khi Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị số 836/CTT-TTg ngày 02/07/2007 về tăng cường quản lý đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước 6 tháng cuối năm 2007, với giải pháp mạnh mẽ để khắc phục những yếu kém trong quản lý đầu tư và xây dựng, giảm thiểu sự chồng chéo trong kiểm tra, xét duyệt giữa khâu kiểm soát chi với khâu xét duyệt khác… thì tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đã được đẩy nhanh hơn. Nhờ vậy, dự kiến đến hết năm 2007 nhiều dự án quan trọng sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng, phát huy tác dụng tốt cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội.
Năm 2007 huy động trái phiếu Chính phủ để đầu tư các công trình giao thông, thuỷ lợi trọng điểm và tái định cư phục vụ xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La, thuỷ lợi miền núi và đường giao thông đến các trung tâm các xã. Tuy nhiên, do khả năng hấp thụ vốn không cao và tiến độ giải ngân vốn chậm, nên vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện trong năm ước đạt trên 70% mức dự kiến đầu năm. Kết hợp nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, nguồn đầu tư từ xổ số kiến thiết với nguồn vốn bố trí trong cân đối NSNN, thì tổng chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước năm 2007 ước đạt 31,7% tổng chi NSNN, chiếm 10,8% GDP. Nguồn vốn đầu tư của NSNn, cùng với vốn của cá nhân nhà đầu tư trong và ngoài nước đã góp phần đưa tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2007 đạt 40,4% GDP, tăng 16,2% so với năm 2006.
Theo bộ kế hoạch và đầu tư, trong mười năm gần đây, Nhà nước đã đầu tư gần 85 tỷ đồng cho đầu tư cải tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông, trong đó NSNN hơn 49 nghìn tỷ đồng. Nguồn vốn có tính chất ngân sách gần 33 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn tín dụng gần 9 nghìn tỷ đồng, vốn đặc biệt hơn 5 nghìn tỷ đồng, vốn trái phiếu Chính phủ 17 nghìn tỷ đồng và vốn đầu tư bán quyền thu phí 1 nghìn 5 trăm tỷ đồng.
Nhờ được quan tâm đầu tư, nâng cấp, chất lượng đường giao thông được nâng lên một bước. Hiện mạng lưới đường bộ cả nước có 233 nghìn km, trong đó có 17 nghìn km đường quốc lộ, chiếm 7,63; tỉnh lộ 23 nghìn km, chiếm 10,37% , còn lại là đường đô thị, đường chuyên dụng và đường xã.
Một số dự án Nhà nước đầu tư vào lĩnh vực giao thông:
Đường cao tốc vành đai 3 Hà Nội : đoạn Nội Bài-Mai Dịch. Vốn đầu tư dự kiến là 540 triệu USD, hình thức đầu tư BOT
Đường cao tốc Tp HCM-Thủ Dầu Một, đoạn Tp HCM- Bình Dương với chiều dài 40km, 4-6 làn xe. Vốn đầu tư dự kiến 125 USD, hình thức đầu tư BOT.
Đường cao tốc Nội Bài- Hạ Long- Móng Cái, Hà Nội-Bắc Ninh- Quảng Ninh với chi tiết Nội Bài- Hạ Long 110 km, 4 làn xe, vốn đầu tư dự kiến 655 triệu USD hình thức đầu tư BOT.
Đường cao tốc Hà Nội-Lạng Sơn: đoạn đường Hà Nội-Bắc Ninh-Lạng Sơn với 118 km, 4 làn xe, vốn đầu tư dự kiến 855 triệu USD.
Tuyến đường sắt Bảo Lâm-Phan Thiết : đoạn đường Bình Thuật- Lâm Đồng chiều dài 110 km, vốn đầu tư dự kiến 500 triệu USD.
2.2 Đầu tư đặc thù kinh tế.
-Khu kinh tế mở Chu Lai: Nhà nước đầu tư một phần và tạo điều kiện để thu hút đầu tư vào 3 dự án lớn : Dự án xây dựng và sửa chữa máy bay hạng nặng tái sân bay Chu Lai với tổng nguồn vốn đầu tư 500 triệu USD; Nhà máy sản xuất phân đạm và máy nông nghiệp với vốn đầu tư 400 triệu USD và nhà máy dệt công suất 300 MW, tổng vốn đầu tư hơn 400 triệu USD. Toàn bộ 3 dự án này đang được xúc tiến đầu tư và triển khai đồng bộ trong năm 2005. Được biết, các dự án này khi đi vào hoạt động sẽ giải quyết cho khoảng 10000 lao động tại chỗ, đóng góp khoảng 21000 tỷ đồng Việt Nam mỗi năm.
-Khu kinh tế mở Dung Quất: Theo báo cáo ban đầu của Ban Quản Lý khu kinh tế Dung Quất, tính đến giữa tháng 8/2007, khu kinh tế này đã thu hút nguồn vốn đầu tư hơn 5,4 tỷ USD của 119 dự án đầu tư trong và ngoài nước. Trong đó có 34 dự án đã đi vào hoạt động, 45 dự án đang triển khai xây dựng. Khu kinh tế Dung Quất là địa điểm thu hút vốn đầu tư cao nhất hiện nay trong 8 khu kinh tế được thành lập trên toàn quốc, với tổng số vốn đăng kí đạt 3,4 tỷ USD với 94 dự án. Tính đến thời điểm hiện nay tại khu kinh tế Dung Quất đã có 27 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư khoảng 647.040 tỷ VND, giải quyết việc làm cho hơn 20000 lao động. Bên cạnh đó, hơn 29 dự án đã được cấp phép đầu tư và 45 dự án đã được chấp thuận đầu tư, trong tương lai khi đi vào hoạt động các dự án này sẽ giải quyết việc làm cho hơn 30.000 lao động.
2.3 Đầu tư cơ sở hạ tầng doanh nghiệp
Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố được tính đến khi quyết định đầu tư các dự án. Bởi vậy, phát triển cơ sở hạ tầng cũng chính là bước tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với khó khăn lớn là cơ sở hạ tầng chưa đủ đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế.
Trước nhu cầu phát triển nhanh của đất nước, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng còn góp phần làm nên diện mạo mới cho các đô thị. Hiện nay, nhiều yếu tố phục vụ kinh doanh như điện năng có thời điểm vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất cho các trung tâm công nghiệp. Bên cạnh đó là hàng loạt các hạn chế như: chi phí cho điện năng và viễn thông vẫn còn cao; chất lượng đường xá kém và không đồng đều; cấp thoát nước thiếu đồng bộ…. Do đó ngoài việc lập quy hoạch sớm, các ngành chức năng cần có sự phối hợp để cùng triển khai các dự án hạ tầng, tránh tình trạng lãng phí.
Trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên về đầu tư cơ sở hạ tầng thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia. Đặc biệt là ngày 26/09/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục 136 dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010. Danh mục này chính là sự cụ thể hoá các kế hoạch thu hút đầu tư nước ngoài đã được đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. Đây là những dự án quan trong đã được Chính phủ phê chuẩn về phương thức đầu tư.
Trong đó tổng số vốn đầu tư cho các dự án ước tính trên 61 tỷ USD bao gồm: khoảng 53 tỷ USD cho 109 dự án công nghiệp- xây dựng; trên 7,8 tỷ USD cho 47 dự án thuộc lĩnh vực du lịch- dịch vụ; số còn lại dành cho 6 dự án nông- lâm- ngư- nghiệp. Từ những số liệu này cho thấy điểm nhấn quan trọng nhất của danh mục thu hút đầu tư là ưu tiên các dự án phát triển cơ sở hạ tầng; đặc biệt là có 47 dự án thuộc lĩnh vực giao thông vận tải. Trong danh sách này, nhiều dự án kêu gọi lương vốn đầu tư rất lớn như: nhà máy lọc dầu Nghi Sơn( Thanh Hoá) khoảng 5 tỷ USD, Nhà máy lọc dầu số 3 (Bà Rịa- Vũng Tàu) cần 5-6 tỷ USD; dự án sân bay quốc tế Long Thành (Đồng Nai) khoảng 5 tỷ USD cho giai đoạn I; Khu càng Lạch Huyền (Hải Phòng) khoảng 2 tỷ USD; Đường vành đai 3 Tp HCM ước tính khoảng 1,55 tỷ USD….
Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% nhất là việc gia nhập WTO, nhu cầu đầu tư vào các cơ sở hạ tầng của Việt Nam sẽ phải tăng lên khoảng 11-12% GDP thay vì 9-10% như hiện nay. Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực huy động nguồn lực từ ngân sách và vốn ODA nhưng vẫn chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Với những hạn chế về ngân sách và nhất là khi Việt Nam sắp hết hạn hưởng nguồn tài chợ ưu đãi thì khả năng tìm kiếm nguồn vốn từ các nhà đầu tư tư nhân cho cơ sở hạ tầng (ước tính khoảng 2,5 tỷ USD mỗi năm ) sẽ trở thành vấn đề cấp bách.
3.Các khoản chi NSNN khác
3.1 Chi trả nợ và chi viện trợ:
Dự đoán 49.160 tỷ đồng, ước cả năm đạt 49.160 tỷ đồng, bằng mức dự đoán, đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ nợ đến hạn NSNN, không để tác động đến kinh tế vĩ mô..
3.2 Chi thường xuyên:
Bao gồm: Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế, giáo dục-đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, thể dục thể thao, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả cải cách tiền lương).
Chi tiết các khoản mục chi thường xuyên của NSNN 2007:
Dự toán 2007
Ước thực hiện 2007
Thực hiên so với dự toán 2007 (%)
Dự toán 2008
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tổng chi thường xuyên
174.550
100
206.000
100
118
100
Chi đảm bảo xã hội
26.800
15,4
36.310
17,6
135,5
17,1
Chi sự nghiệp kinh tế
12.830
7,4
14.609
7,1
113,9
7,5
Chi giáo dục đào tạo
47.280
27,1
53.720
26,1
113,6
25,9
Chi quản lý h/c Đảng, đoàn thể
24.800
14,2
28.075
13,6
113,2
13,6
Chi y tế
14.660
8,4
16.425
8
112
8
Chi bù giá chính sách
690
0,4
750
0,4
108,7
0,4
Chi thể dục thể thao
820
0,5
880
0,4
107,3
0,4
Chi phát thanh và truyền hình
1.310
0,8
1.397
0,7
106,6
0,7
Chi văn hoá thông tin
2.250
1,3
2.374
1,2
105,5
1,2
Chi bảo vệ môi trường
3.500
2
3.637
1,8
103,9
1,9
Chi khoa học công nghệ
3.580
2,1
3.700
1,8
103,4
1,8
Chi dân số KHH gia đình
590
0,3
603
0,3
102,0
0,3
Dự toán 199.150 tỷ đồng (đã bao gồm chi tiêu thực hiện tiền lương tối thiểu theo mức 450.000 đồng/ tháng); ước thực hiện chi cả năm đạt 206.000 tỷ đồng, tăng 3,4 % (6.850 tỷ đồng) so với dự toá, tăng 26,7% so với năm 2006; đảm bảo các nhiệm vụ chi theo dự toán như: chi cho lĩnh vực đào tạo đạt 20%; chi cho khoa học công nghệ cao đạt 2% và chi sự nghiệp môi trường đạt 1% tổng chi NSNN; đồng thời tăng chi để đáp ứng những nhiệm vụ mới phát sinh hoặc nhiệm vụ đã bố trí dự toán nhưng chưa đủ so với yêu cầu thực tế, như: khắc phục hậu quả thiên tai (hạn hán, lũ lụt….); phòng chống bệnh dịch với gia súc gia cầm…
Năm 2007, nhiều chế độ chi tiêu NSNN và đổi mới quản lý tài chính trong các đơn vị sử dụng ngân sách đang được hoàn thiện hoặc triển khai, bước đầu đã có những kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó, việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nươc theo nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/09/2005 của Chinh phủ; cơ chế giao quyền đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 và nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 25/05/2006 của Chính phủ; chính sách khuyến khích xã hội hoá, thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cung ứng dịch vụ ngoài công lập theo Nghị định số 53/2006/NĐ-Cp ngày 25/05/2006 của Chính phủ đã được chú trọng, tạo bước chuyển mới trong hoạt động và quản lý tài chính với khu vực này. Công tác kiểm tra thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng NSNN và tài sản công được tăng cường, góp phần củng cố kỷ cương , kỷ luật tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngấn sách.
4. Bội chi ngân sách nhà nước
Từ các số liệu trên, có thể tính lại các số liệu theo mục tiêu năm 2007 như sau: Tổng thu ngân sách nhà nước là 298 nghìn tỷ đồng ( tăng 15,5% so với năm 2006), so với GDP đạt khoảng 26,3% (chứ không phải 24,2% như mục tiêu; năm 2006 cũng đã đạt 26,6%).
Bội chi NSNN cân khống chế ở mức 5% nên mức bội chi sẽ khoảng 57 nghìn tỷ đồng ( bằng mức bội chi năm 2006, nhưng tỷ lệ bội chi so với GDP thì thấp hơn). Với mức bội chi nhu trên thì tồng ngân sách nhà nước sẽ vào khoảng 355 nghìn tỷ đồng( Bằng 298 nghìn tỷ đồng cộng với 57 nghìn tỷ đồng), tăng 12,7% so với năm 2006.
GS-TSKH Tào Hữu Phùng, Phó Chủ Nhiệm Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc Hội nêu rõ: Cân đôi NSNN đã được đảm bảo bằng các quy phạm mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên, việc thực hiện Luật NSNN đã xuất hiện mốt số vướng mắc, tồn tại, trong đó vấn đề về phạm vi cân đối và cách tính bội chi NSNN còn có một số điểm chưa rõ ràng, chưa đúng với quy định với luạt NSNN, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ trưởng Bộ Tài Chính Đỗ Hồng Anh Tuấn nểu rõ cách xác định bội chi NSNN hiện nay của Việt Nam bao gồm toàn bộ các khoản vay để bù đắp, có nghĩa là chi ngân sách đối với các khoản vay này được thực hiện 2 lần: Lần thứ nhất sử dụng nguồn vay cho các mục tiêu nhiệm vụ của NSNN; Lần thư 2 bố trí chi ngân sách để trả nợ (gốc và lãi) khi các khoản vay đến hạn trả. Do đó, mức bội chi ngân sách của Việt Nam thường cao hơn so với phương pháp tính bội chi theo thông lệ quốc tế và trùng lặp khi bố trí chi ngân sách 2 lần đối với các khoản vay bù đắp bội chi. Theo thông lệ quốc tế, việc xác định bội chi chỉ bao gồm trả nợ lãi trong và ngoài nước, không bao gồm trả nợ gốc, nhưng bao gồm cả các khoản vay để cho vay lại
III.Hiệu quả chi tiêu NSNN ở một số nước Châu Á:
Niên giám thống kê các chỉ số chủ chốt của các nước đang phát triển Châu Á- Thái Bình Dương 2002 của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) xuất bản năm 2002 có số liệu thống kê các hoạt động kinh tế của 38 nước đang phát triển trong khu vực:
Tăng trưởng
Chi thường xuyên
Chi đầu tư
Tổng chi ĐT và TX
Chi TX/chi ĐT(lần)
Hàn Quốc
Singapore
Đài Loan
Inđônêxia
Malaixia
Thái Lan
Ấn Độ
Bănglađét
Srilanka
Nêpan
Philipin
Tonga
Fiji
7,03
6,92
6,65
6,56
6,26
6,14
5,38
4,47
4,23
4,20
2,87
2,15
1,82
14,12
15,39
11,40
10,96
20,03
12,57
15,21
6,56
21,67
7,90
15,23
33,16
29,48
3,01
6,49
4,34
7,71
6,60
4,15
2,24
5,87
8,04
11,64
2,71
5,92
5,18
17,1
21,9
15,7
18,7
26,6
16,7
17,4
12,4
29,7
19,5
17,9
39,1
34,7
4,7
2,4
2,6
1,4
3,0
3,0
6,8
1,1
2,7
0,7
5,6
5,6
5,7
Sắp xếp theo thứ tự giảm dần của tốc đọ tăng trưởng kinh tế giữa các nước trong bảng số liệu này, có thể thấy rằng trong vòng 20 năm qua, chi tiêu chính phủ của 13 nước Châu Á hoàn toàn không tương đồng với tốc độ phát triển. Mức chi cao, đặc biệt là khoản chi thường xuyên thể hiện ảnh hưởng tiêu cực rõ ràng đến tăng trưởng kinh tế. Gần 20 năm là quãng thời gian đủ dài để các dự án đầu tư phát triển về kinh tế, xã hội phát huy tác dụng của chúng; thế nhưng tốc đọ chi tiêu cao liên tục trong thời gian ấy không đẩy mạnh được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở những quốc gia này.
Trong đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX, một số điều kiện kinh tế, xã hội của Philipin không khác biệt lớn so với Inđônêxia và Đài Loan. Tuy nhiên, có thể thấy rằng qui mô chi tiêu của chính phủ Philipin là khá lớn, đặc biệt Philipin có mức chi thường xuyên cao gấp 5,6 lần mức chi cho đầu tư. Tỷ lệ này của Inđônêxia hoặc Đài Loan chỉ là 1,4 và 2,6 lần. Mức chi thường xuyên cao đặc biệt có thể thấy được ở Tonga và Fiji, tuy khoản chi đầu tư của 2 nớưc này không nhỏ. Qua số liệu ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của khoản chi thường xuyên làm hạn chế tốc độ tăng trưởng.
Gwartney, Lawson và Holcombe (1998) nghiên cứu về mối quan hệ giữa chi tiêu của chính phủ và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp phát triển đã chỉ ra rằng: sau khi loại trừ ảnh hương của các yếu tố như quyền sở hữu, lạm phát, giáo dục và đầu tư; mức chi tiêu cao của chính phủ có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP. Nghiên cứu này còn cho thấy 5 quốc gia có mức phát triển nhanh nhất thế giới trong khoảng 1980-1995 có mức chi tiêu chính phủ trung bình là 20,1% thấp hơn một nửa mức chi tiêu trung bình của các nước OECD. Một kết luận quan trọng trong nghiên cứu này là: chính phủ các nước OECD chỉ sử dụng 15% GDP vào các chức năng đích thực của chính phủ. Việc chi tiêu vượt quá các chức năng chủ chốt này đều đem lại hiệu ứng tiêu cực cho nền kinh tế.
Như vậy có thể thấy rằng có sự nhất quán giữa sự chi tiêu chính phủ của các nước đang phát triển cũng như phát triển liên quan tới vấn đề hiệu quả chi tiêu. Qua số liệu hoạt động chi tiêu trung và dài hạn của 13 nước Châu Á, có thể thấy rằng tình trạng chi tiêu thiếu hiệu quả của các nước này thể hiện qua tác động tiêu cực rõ rệt của qui mô tổng chi ngân sách và tỷ trọng của khoản chi thường xuyên. Khoản chi thường xuyên thể hiện sự can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế, xã hội, trong đó có việc cung cấp các hàng hóa công không thuần tuý cho xã hội. Phần chi tiêu này càng lớn càng gây thất thoát và tổn hại lớn cho nền kinh tế.Chính phủ buộc phải tăng chi tiêu nói lên nhiều vấn đề, trong đó một mặt phản ánh áp lực chính trị xã hội buộc chính phủ phải tăng cường các chức năng không đích thực của mình, mặt khác phản ánh nguy cơ giảm hiệu quả của chính phủ cùng với chiều hướng phát triển tham nhũng, quan liêu.
Từ việc phân tích các lí luận và thực tế của 13 nước Châu Á, rút ra kết luận: qui mô chi tiêu của chính phủ, đặc biệt là phần chi thường xuyên càng lớn càng làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Trong thực tế của Việt Nam hiện nay, chi đầu tư phát triển có mức tăng thấp (chỉ tăng 2,1% so với dự toán) do tỷ lệ giải ngân các dự án đầu tư năm 2007 đều ở mức độ rất thấp, nhất là các dự án giao thông. Các hạng mục khác thực hiện thấp hơn dự toán là do không thực hiện các khoản chi cải cách tiền lương như dự toán đã bố trí 24.600 tỷ đồng. Tổng chi thường xuy ên tăng 18% (thực hiện so với dự toán 2007) chủ yếu là do tất cả các hạng mục chi thường xuyên đều thực hiện vượt dự toán, trong đó các hạng mục có qui mô lớn tăng mạnh hơn các hạng mục có qui mô nhỏ.
Mức độ bố trí tăng chi 2007-2008 (%)
Thực hiện 2007 so với dự kiến 2007
Dự toán 2008 so với dự toán 2007
Dự toán 2008 so với thực hiện 2007
Chi đầu tư phát triển
Chi thường xuyên
Chi trả nợ và viện trợ
Các hạng mục khác
Tổng cộng
102,1
118,0
100,0
34,1
103,1
100,3
119,7
104,1
114,5
111,6
98,3
101,4
104,1
335,6
108,3
Dựa vào các số liệu trên ta thấy, mức độ bố trí tăng chi NSNN ở nước ta chưa phù hợp với xu hướng chung. Tốc độ tăng chi thường xuyên còn cao hơn rất nhiều so với chi đầu tư. Do đó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế trong thời gian trung và dài hạn.
C. Giải pháp nâng cao hiệu quả chi NSNN
Từ những nhận xét trên, cần đưa ra những giải pháp để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực để thực hiện chi ngân sách một cách có hiệu quả hơn.
1/ Xác định mục tiêu chiến lược quản lý chi tiêu công
Với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia, liên quan đến việc thực hiện phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính công, nên vấn đề xuyên suốt của quản lý chi tiêu công phải thực hiện các mục tiêu Đại hội Đảng lần thứ IX của Việt Nam đề ra, đó là:
Giữ kỉ luật tài chính tổng thể. Đảm bảo qui mô chi NSNN vào khoảng 24-25% GDP, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 25-25%, chi trả nợ 17-18% và chi thường xuyên 57-58%. Theo đó, khống chế bội chi NSNN 4-5% GDP; bù đắp bội chi ngân sách bằng nguồn vốn trong nước khoảng 3-5% GDP và vay nước ngoài 1-1,5% GDP.
Phân phối nguồn lực tài chính phù hợp với những ưu tiên chiến lược về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo; đảm bảo công bằng phù hợp với thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Nâng cao tính trách nhiệm, minh bạch, dân chủ trong chi tiêu công; đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực cảu những chương trình và cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cho xã hội; chi tiêu công thực sự trở thành thước đo năng lực, hiệu lực quản lí kinh tế xã hội của nhà nước.
2/ Quan điểm xây dựng chiến lược quản lí chi tiêu công
Cải cách quản lí chi tiêu công phải đặt trong bối cảnh hành chính công tổng thể và nâng cao năng lực quản lí của Chính phủ.
Với quan điểm này, yêu cầu nhà nước phả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chi_ngan_sach_nha_nuoc_679.doc