Đề tài Thực trạng chống bán phá giá trên thế giới và ở Việt Nam

Một điểm đặc trưng của cơchế đánh thuếchống bán phá giá của EU là

nguyên tắc đánh thuếthấp hơn biện độphá giá, nghĩa là trong mọi trường

hợp, thuếchống bán phá giá không được vượt qua biên độphá giá và thậm

chí sẽ đánh thuếthấp hơn biên độphá giá nếu nhưmức thuế đó đã đủ đểkhắc

phục thiệt hại. EU thường áp dụng nguyên tắc này trong những trường hợp

biên độphá giá tính được quá cao trong điều tra phá giá hàng nhập khẩu từ

các nước có nền kinh tếphi thịtrường.

pdf107 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3713 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chống bán phá giá trên thế giới và ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ban sẽ chọn một nước đại diện có nền kinh tế thị trường được EU coi là nước có trình độ phát triển tương tự, thường là một nước thứ ba. Việc chọn nước đại diện là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định GTTT của hàng nhập khẩu từ nước có nền kinh tế thị trường. Các nhà xuất khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường có thể chứng minh với Uỷ ban rằng họ hoạt động theo tiêu chí của nền kinh tế thị trường và nếu được Uỷ ban chấp nhận thì họ sẽ được đối xử như các nhà xuất khẩu từ các nước có nền kinh tế thị trường. Chẳng hạn, CHLB Nga vừa mới được EU công nhận là nền kinh tế thị trường. EU áp dụng biên độ phá giá trung bình với tất cả các nhà nhập khẩu từ nước có nền kinh tế phi thị trường. 4. Cách tính thuế và truy thu thuế 4.1 Hình thức đánh thuế Nếu cuộc điều tra dẫn đến kết quả là có phá giá và thiệt hại và nếu xét thấy cần thiết thì EU sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời như không được áp dụng sớm hơn 60 ngày và quá 9 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra, trường hợp đặc biệt có thể áp dụng trong 9 tháng. EU đánh thuế chống bán phá giá theo 4 hình thức như sau:  Thuế phần trăm  Thuế thay đổi trên cơ sở giá tối thiểu  Kết hợp giữa thuế phần trăm và thuế thay đổi.  Thuế tuyệt đối EU quyết định hình thức đánh thuế dựa trên cơ sở tính chất của sản phẩm, thuế thay đổi theo giá tối thiểu thường được áp dụng với hàng tiêu -51- dùng. EU thường đánh thuế chống bán phá giá với mức thuế riêng cho mỗi nhà sản xuất trên xuất khẩu nếu biên độ phá giá khác nhau. * Áp dụng thuế chống bán phá giá với cả những sản phẩm được sản xuất hoặc lắp ráp ở EU. Theo quy chế chống bán phá giá sửa đổi năm 1987, EU có thể đánh thuế chống bán phá giá với cả những sản phẩm sản xuất hoặc lắp ráp trong EU với những điều kiện sau:  Nhà sản xuất hoặc lắp ráp sản phẩm có mối liên hệ hoặc liên kết với bất kỳ nhà sản xuất nào xuất khẩu sản phẩm tương tự đang bị EU đánh thuế chống bán phá giá.  Việc lắp ráp hoặc sản xuất được bắt đầu hoặc tăng trưởng đáng kể sau khi tiến hành điều tra phá giá.  Giá trị linh kiện hoặc vật liệu sử dụng trong sản xuất hoặc lắp ráp có xuất xứ từ nước xuất khẩu sản phẩm đang bị đánh thuế chống bán phá giá chiếm ít nhất 60% tổng giá trị linh kiện và vật liệu. Trường hợp này thuế suất áp dụng sẽ bằng thuế suất áp dụng với nhà sản xuất ở nước xuất xứ sản phẩm liên quan, giá tính thuế sẽ là giá CIF của linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu. Các nhà sản xuất và lắp ráp sản phẩm trong EU, nếu thấy sản phẩm của mình rơi vào các điều kiện trên thì phải thông báo với cơ quan hải quan nước mình trước khi xuất xưởng để bán trên thị trường EU. 4.2 Biên độ thiệt hại Cơ chế chống bán phá giá của EU thường hay đề cập đến yếu tố “biên độ thiệt hại”. Theo nguyên tắc đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá thì cơ quan điều tra của EU sẽ đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu như mức thuế đó đã đủ để khắc phục thiệt hại. Vì vậy, cơ quan điều tra thường tính mức độ sụt giá của sản phẩm nội địa tương tự do tác động của hàng nhập khẩu hoặc mức giá nội địa phải tăng lên để đủ thu hồi chi phí cộng với một khoản lợi nhuận nhất định cho nhà sản xuất trong nước. Mức giá đó gọi là “biên độ thiệt hại”, -52- nếu biên độ này nhỏ hơn biên độ phá giá thì EU sẽ đánh thuế chống bán phá giá đúng bằng biên độ thiệt hại. 4.3 Truy thu thuế Quy chế chống bán phá giá của EU cho phép truy thu thuế chống bán phá giá đối với những mặt hàng nhập khẩu không quá 90 ngày trước khi đánh thuế tạm thời với những điều kiện sau:  Có một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã biết rằng nhà xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại.  Lượng hàng nhập khẩu rất lớn bị bán phá giá trong thời gian ngắn gây thiệt hại đến mức cần phải truy thu thuế chống bán phá giá thì mới ngăn ngừa việc tiếp tục phá giá; hoặc  Việc cam kết gia bị vi phạm. Mặc dù trong quá trình điều tra, cơ quan diieù tra của EU đã xem xét đến khả năng truy thu thuế nhưng thực tế cho đến nay EU chưa truy thu thuế lần nào. Thuế chống bán phá giá của EU được ấn định ở một mức thuế nhất định trong suốt thời hạn áp dụng tính theo giá CIF với sản phẩm nhập khẩu từ nước xuất khẩu liên quan bất kể có bị bán phá giá hay không. Vì vậy có thể có mặt hàng sẽ bị đánh thuế vượt quá biên độ phá giá bình quân gia quyền và Qui chế của EU cho phép hoàn thuế trong trường hợp như vậy. Đơn xin hoàn thuế phải được nộp cho cơ quan điều tra của EU thông qua nước thành viên nhập khẩu sản phẩm liên quan trong vòng 3 tháng kể từ ngày nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra ít trường hợp hoàn thuế vì thủ tục hoàn thuế tốn rất nhiều thời gian, có thể từ hai đến ba năm. Hơn nữa, thuế chống bán phá giá chỉ được hoàn khi mức thuế vượt quá biên độ phá giá, trong khi phần lớn các trường hợp EU đều đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá. 4.4 Rà soát  Rà soát thông thường -53- Các bên liên quan (nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu) có thể đề nghị cơ quan điều tra của EU tiến hành rà soát sớm nhất là 1 năm sau khi kết thúc cuộc điều tra ban đầu. Một nước thành viên EU hoặc cơ quan điều tra của EU cũng cơ thể kiến nghị tiến hành rà soát, nhưng trường hợp này hiếm khi xảy ra. Khi có yêu cầu rà soát, cơ quan điều tra của EU sẽ kiểm tra xem có đủ bằng chứng, bao gồm các yếu tố: việc bán phá giá tăng hay giảm, vi phạm cam kết giá, thiệt hại gia tăng v.v... về việc bối cảnh thay đổi không. Tuỳ thuộc bối cảnh cụ thể của từng trường hợp, việc rà soát có thể dẫn đến một cuộc điều tra mới với quy mô như cuộc điều tra ban đầu. Mặc dù có quy định về việc rà soát, nhưng trên thực tế các nhà xuất khẩu trong cơ chế chống bán phá giá của EU vẫn bị phụ thuộc nhiêù vào kết quả của cuộc điều tra đầu tiên, vì cuộc điều tra này quyết định mức thuế mà các nhà xuất khẩu phải chịu chừng nào biện pháp chống bán phá giá chưa được huỷ bỏ hoặc sửa đổi. Khi biên độ phá giá giảm hoặc triệt tiêu thì họ có thể đề nghị rà soát. Nhưng rà soát có thể tốn nhiều thời gian như cuộc điều tra đầu tiên và sau khi rà soát, nếu biện pháp chống bán phá giá được sửa đổi thì cũng sẽ chỉ áp dụng với hàng nhập khẩu trong tương lai chứ không áp dụng với hàng đã nhập khẩu.  Rà soát cuối kỳ Quy chế chống bán phá giá của EU quy định rằng thuế chống bán phá giá và cam kết giá chỉ được áp dụng trong vòng 5 năm kể từ ngày các biện pháp này có hiệu lực hoặc kể từ lần sửa đổi gần nhất. Trong vòng 6 tháng trước khi kết thúc giai đoạn 5 năm, cơ quan điều tra của EU sẽ thông báo cho các nhà sản xuất có liên quan của EU về việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá sau khi trao đổi với Uỷ ban chống bán phá giá của WTO. Nếu các bên liên quan kiến nghị rằng việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá có thể lại gây hoặc có nguy cơ gây thiệt hại thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành rà soát, nếu không thì việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tự động chấm dứt. -54- IV. KINH NGHIỆM CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC 1. Tình hình chung Tình trạng bán phá giá tràn lan các mặt hàng ế thừa của nước ngoài tràn lan tại thị trường Trung quốc làm cho họ bị thua thiệt khoảng 10 tỷ Nhân dân tệ/năm (tương đương 1,2 tỷ USD). Nhiều công ty của Trung quốc không thể cạnh tranh nổi với các hãng nước ngoài làm hàng nghìn người mất việc làm. Căn cứ vào những quy định có liên quan trong “Luật mậu dịch đối ngoại nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa”, Trung quốc ban hành điều lệ chống bán phá giá và chống trợ cấp hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào thị trường trong nước. Điều lệ trên nhằm giúp các công ty trong nước bảo vệ vị trí của mình trên thị trường và tạo ra một hành lang pháp lý chống lại sự cạnh tranh bất công từ bên ngoài. Điều lệ ban hành tháng 11.1997 gồm 42 điều nhằm xem xét việc đánh thuế đối với các mặt hàng ế thừa và được hưởng trợ cấp của Chính ohủ nước ngoài nhập khẩu vào bán phá gía ở Trung quốc; hướng dẫn các công ty trong nước cách thức thưa kiện về những vụ tranh chấp; các biện pháp “trả đũa” với những nước áp dụng các mức thuế mang tính kỳ thị áp đặt đối với hàng hoá của Trung quốc. 2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá 2.1. Các cơ quan chức năng Việc điều tra bán phá giá và điều tra thiệt hại ở Trung quốc do Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại (gọi tắt là Bộ) và Uỷ ban kinh tế mậu dịch Nhà nước (gọi tắt là Uỷ ban) cùng bàn bạc xem xét. Khi có các quyết định, cơ quan Hải quan chiểu theo thi hành. 2.2. Thủ tục điều tra  Cơ sở tiến hành điều tra Các nhà sản xuất trong nước là người sản xuất toàn bộ sản phẩm giống hoặc tương tự tại nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa, hoặc người sản xuất có tổng sản lượng chiếm phần lớn tổng sản lượng hàng hoá giống hoặc tương tự -55- trong nước. Nhưng nếu người sản xuất trong nước có mối liên quan đến người kinh doanh xuất khẩu hoặc người kinh doanh nhập khẩu, hoặc chính họ là người kinh doanh nhập khẩu sản phẩm bán giá, thì có thể bị loại trừ. Các nhà sản xuất trong nước có thể viết đơn khiếu nại về việc bán phá giá với Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại, có kèm theo những chứng cứ cần thiết. Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại sau khi xem xét đơn và các chứng cứ kèm theo, và sau khi bàn bạc với Uỷ ban kinh tế mậu dịch Nhà nước, sẽ quyết định có lập hồ sơ điều tra hay không. Trong các trường hợp đặc biệt, Bộ đã có đủ chứng cứ về ban phá giá và sự tổn thương đang tồn tại, cùng với mối quan hệ nhân quả giữa chúng thì Bộ có thể tự tiến hành lập hồ sơ điều tra sau khi đã bàn bạc với Uỷ ban  Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá Thời gian điều tra chống bán phá giá là 12 tháng kể từ ngày thông báo quyết định lập hồ sơ điều tra, có thể kéo dài tới 18 tháng trong trường hợp đặc biệt. Sau khi quyết định lập hồ sơ điều tra, Bộ cùng với Tổng cục Hải quan điều tra việc bán phá giá và mức bán phá giá. Uỷ ban và các ngành hữu quan của Chính phủ điều tra về tổn thương và mức độ tổn thương. Bộ và Uỷ ban lần lượt đưa ra quyết định sơ bộ dựa vào kết quả điều tra. Bộ thông báo kết quả sơ bộ. Nếu quyết định sơ bộ cho rằng có tồn tại bán phá giá và có tổn thương, cần phải điều tra thêm về mức bán phá giá và mức độ tổn thương. Bộ và Uỷ ban lần lượt đưa ra quyết định cuối cùng dựa vào kết quả điều tra. Bộ thông báo kết định chính thức.  Kết thúc điều tra Nếu người kinh doanh xuất khẩu hoặc Chính phủ nước xuất khẩu có cam kết sẽ áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhằm xoá bỏ những tổn thất do việc bán phá giá gây ra, Bộ có thể quyết định ngừng điều tra việc chống bán phá giá và thông báo quyết định này sau khi đã bàn bạc với Uỷ ban. -56- Nếu việc cam kết không được thực hiện hoặc bị rút lại thì việc điều tra chống bán phá giá được khôi phục lại. 3. Xác định phá giá và thiệt hại Quy định bán phá giá xảy ra khi “giá xuất khẩu” của sản phẩm thấp hơn “giá trị thông thường” của sản phẩm đó khi bán trên thị trường của nước xuất khẩu. 3.1. Xác định giá xuất khẩu Giá xuất khẩu được xác định bằng các biện pháp sau:  Nếu sản phẩm nhập khẩu có giá trị chi trả trong thực tế hoặc phải chi trả, thì lấy giá đó làm giá xuất khẩu.  Nếu sản phẩm nhập khẩu không có giá trị chi trả trong thực tế hoặc phải chi trả, hoặc không thể xác định được giá của nó, thì lấy giá nhập khẩu sản phẩm đó khi bán lại lần đầu tiên cho người mua độc lập, hoặc lấy giá cả do Tổng cục hải quan, Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại xác định trên cơ sở hợp lý làm giá xuất khẩu. 3.2. Giá trị thông thường Giá trị thông thường được xác định bằng các biện pháp sau: Nếu sản phẩm giống hoặc tương tự với sản phẩm nhập khẩu có giá cả bất biến trên thị trường nước xuất khẩu, thì lấy giá cả bất biến đó làm giá trị thông thường. Nếu sản phẩm giống hoặc tương tự với sản phẩm nhập khẩu không có giá cả bất biến trên thị trường nước xuất khẩu, thì lấy giá cả bất biến khi xuất khẩu sản phẩm giống hoặc tương tự đó sang nước thứ ba, hoặc lấy giá thành sản xuất của sản phẩm giống hoặc tương tự đó cộng với chi phí, lợi nhuận hợp lý làm giá trị thông thường. 3.3. Mức bán phá giá Là mức chênh lệch khi giá xuất khẩu của sản phẩm nhập khẩu thấp hơn giá trị thông thường của nó. -57- 3.4. Xác định thiệt hại Tổn thương do hành động bán phá giá gây ra cho các ngành sản xuất ở trong nước có liên quan bao gồm những tổn thương thực tế hoặc đe dọa gây ra tổn thương thực tế. 4. Cách tính thuế và truy thu thuế 4.1. Thu thuế:  Thuế chống bán phá giá tạm thời Nếu quyết định ban đầu cho thấy có sự bán phá giá và gây thiệt hại cho các ngành sản xuất trong nước, thì có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời: Thu thuế chống bán phá giá tạm thời theo quy định. Yêu cầu nộp tiền ký quỹ bằng tiền mặt hoặc bảo đảm dưới các hình thức khác. Bộ quyết định việc nộp tiền ký quỹ hoặc đảm bảo dưới các hình thức khác. Bộ thông báo quyết định chống bán phá giá tạm thời giao cho Hải quan chiểu theo thi hành. Thời hạn thu thuế chống bán phá giá tạm thời là 4 tháng. Trong tình hình đặc biệt có thể kéo dài đến 9 tháng.  Thuế chống bán phá giá chính thức Nếu quyết định cuối cùng là có sự bán phá giá và gây tổn thương cho các ngành sản xuất trong nước, thì sẽ thực hiện việc thu thuế chống bán phá giá chính thức. Bộ ra kiến nghị thu thuế chống bán phá giá chính thức, Uỷ ban quy định thuế và mức thuế. Hải quan chiểu theo thi hành. Mức bán phá giá chính thức không được vượt quá mức bán phá giá mà quyết định cuối cùng đã xác định. Người nộp thuế chống bán phá là người kinh doanh nhập khẩu hàng hoá bán phá giá. 4.2. Hoàn thuế -58- Nếu thuế chống bán phá giá chính thức được xác định thấp hơn thuế chống bán phá giá tạm thời thì phải thoái trả phần tạm thu vượt quá. Nếu quyết định chính thức là không thu thuế chống bán phá giá thì phải trả lại tiền nộp thuế chống bán phá giá tạm thời, tiền ký quỹ hoặc các đảm bảo dưới các hình thức khác. 4.3. Truy thu thuế Nếu thuế chống bán phá giá chính thức được xác định cao hơn thuế chống bán phá giá tạm thời thì không thu bổ sung phần thu còn thiếu. 4.4. Rà soát Thời hạn thu thuế chống bán phá giá là 5 năm. Trong thời hạn này, Bộ có thể xem xét lại quyết định thu thuế chống bán phá giá theo thẩm quyền hoặc theo yêu cầu cuả các bên liên quan sau khi đã bàn bạc thống nhất với Uỷ ban. 5. Trợ cấp và biện pháp chống trợ cấp Trợ cấp là Chính phủ hoặc Cơ quan công cộng nước ngoài trực tiếp hoặc gián tiếp đem lại tài trợ tài chính hoặc ích lợi cho ngành sản xuất, xí nghiệp trong nước xuất khẩu. Mức trợ cấp thuần mà hàng hoá tiếp nhận là kim ngạch trợ cấp. Nếu qua điều tra phát hiện có sự trợ cấp và có tổn thất do trợ cấp gây ra thì áp dụng biện pháp chống trợ cấp thực hiện tương tự như với biện pháp chống bán phá giá. Nếu quốc gia hoặc khu vực nào áp dụng biện pháp chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp mang tính chất kỳ thị đối với hàng hoá xuất khẩu của Trung quốc thì Trung quốc sẽ căn cứ vào tình hình thực tế để áp dụng các biện pháp tương tự đối với quốc gia hoặc khu vực đó. 6. Thực tiễn và nguyên nhân Trung Quốc bị áp dụng nhiều nhất biện pháp chống bán phá giá trên thị trường Quốc tế -59- Hiện nay Trung quốc là nước bị áp dụng điều khoản chống bán phá giá nhiều nhất trên thế giới và làm thế nào để đối phó với việc chống bán phá giá đang là vấn đề nổi cộm đối với Trung quốc. Theo số liệu của Trung quốc, từ năm 1979 - 2000, Trung quốc đã bị 408 vụ khiếu kiện bán phá giá, chiếm kỷ lục về số vụ bị khiếu kiện trên thế giới. Các tài liệu của WTO cũng cho biết từ năm 1987 - 1997, Trung quốc là nước bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá nhiều nhất trên thế giới, chiếm 11,25% tổng số vụ bán phá giá trên toàn thế giới.Nếu xét theo số lượng các vụ khiếu kiện về bán phá giá đã đem ra xét xử thì Trung quốc cũng là nước đứng đầu với 15,3% tổng số vụ. Tính đến năm 2000, đã có 228 nước và khu vực trên thế giới thi hành biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của Trung quốc (EU được tính là một khu vực). Trong thập kỷ 70, chỉ có 70 chỉ có EU thi hành biện pháp này đối với Trung quốc. Trong thập kỷ 80, có thêm 6 nước áp dụng trong đó có Mỹ. Trong thập kỷ 90, có thêm 21 nước áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của Trung quốc. Từ năm 1979 - 2000, các nước và khu vực khiếu kiện bán phá giá nhiều nhất với Trung quốc là: EU: 90 vụ Mỹ: 77 vụ Ấn độ: 37 vụ Australia: 32 vụ Achentina: 27 vụ Nam phi: 26 vụ Mehico: 20 vụ Braxin: 15 vụ Canada: 15 vụ Hàn quốc: 14 vụ Trong 10 nước nói trên, có những nước là thị trường lớn của Trung quốc như Mỹ (thứ nhất), EU (thứ tư), Hàn quốc (thứ năm), Australia (thứ tám), Canada (thứ chín). Trong các nước khiếu kiện về bán phá giá đối với Trung quốc, ngoài những nước phát triển còn có 18 nước đang phát triển, chủ yếu là trong thập kỷ 90. Các nước này lúc đầu chỉ tiến hành những cuộc điều tra mang tính chất thăm dò nhưng khi có điều kiện liền áp dụng một loạt biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của Trung quốc. -60- Việc nước ngoài thi hành biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá Trung quốc không những tăng lên về số vụ,số nước thực hiện mà phạm vi sản phẩm bị thực hiện các biện pháp chống bán phá giá ngày càng lớn. Năm 1979 - 1980 mới chỉ có 3 mặt hàng liên quan đến 2 ngành sản xuất đến nay đã tăng đến hàng trăm mặt hàng liên quan đến 10 ngành. Các ngành hàng mà nước ngoài thi hành biện pháp chống bán phá giá đối với Trung quốc chủ yếu là kim loại cơ bản, thiết bị điện máy, hoá chất, hàng dệt may, giầy da chiếm 10% tổng số vụ chống bán phá giá về những ngành hàng đó trên toàn thế giới, thậm chí có ngành hàng chiếm tới 50% tổng số vụ. Biện pháp chống bán phá giá mà nước ngoài áp dụng đối với Trung quốc chủ yếu là đánh thuế chống bán phá giá, yêu cầu cam kết về giá cả, chấm dứt hiệp nghị buôn bán, chủ động phân bổ hạn ngạch. Thời gian thi hành biện pháp chống bán phá giá là 5 năm hoặc lâu hơn. Theo tài liệu thống kê của Trung quốc trong 20 năm qua các biện pháp chống bán phá giá mà các nước áp dụng đối với Trung quốc đã gây thiệt hại trực tiếp cho Trung quốc 10 tỷ USD.Trong đó riêng EU chiếm tới 3 tỷ USD, với 9 vụ trị giá 100 triệu USD/vụ, 32 vụ trị giá 10 triệu USD/vụ. Năm 1999 EU đã tiến hành 13 vụ điều tra về bán phá giá đối với Trung quốc liên quan đến 540 triệu USD hàng xuất khẩu bằng 1,8% kim ngạnh xuất khẩu của Trung quốc đến EU năm đó. Khi một nước thi hành biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của Trung quốc thì thị phần của Trung quốc ở đó bị thu hẹp hoặc bị triệt tiêu và khi đó hàng hoá sẽ đổ dồn đến các nước khác. Thế là các nước này cũng thi hành các biện pháp chống bán phá giá. Thí dụ thời kỳ 1990 - 1997 Nam phi, EU, Canada, Mexico, Achentina, Mỹ, Hàn quốc, Ba lan đã tiến hành điều tra việc bán phá giá xe đạp Trung quốc ở các thị trường này. Năm 1991 số lượng xe đạp Trung quốc xuất đến EU là 2 triệu chiếc trị giá 200 triệu USD. Đến năm 1993 Trung quốc bị đánh thuế chống bán phá giá 30,6% do đó năm 1999 chỉ còn xuất khẩu được 239.000 chiếc trị giá % 5,66 triệu USD. -61- Hiện nay mức độ phụ thuộc của một số ngành sản xuất của Trung quốc vào thị trường quốc tế rất cao. Khi xuất khẩu vấp phải biện pháp chống bán phá giá thì quan hệ cung cầu của những sản phẩm đó bị mất cân đối nên nhà máy ở Trung quốc sẽ bị giảm hoặc ngưng sản xuất, công nhân bị mất việc làm. Kim ngạch xuất khẩu của Trung quốc hiện chiếm 3,4% kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới là nước đứng thứ 9 về quy mô xuất khẩu và Trung quốc cũng là nước bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá nhiều nhất. Hiệp định thương mại Trung - Mỹ có một điều khoản quy định rằng trong 15 năm sau khi ra nhập WTO điều khoản chống bán phá giá vẫn được áp dụng đối với Trung quốc với biện pháp coi Trung quốc vẫn chưa phải nước thực hiện nền kinh tế thị trường. Sau khi điều khoản này trở thành một điều khoản đa biên bất cứ một nước thành viên nào của WTO đều có thể vận dụng thì số vụ hàng hoá của Trung quốc bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá có khả năng tăng thêm. Nguyên nhân của tình hình đó là:  Chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy trong quan hệ thương mại quốc tế: Song song với quá trình toàn cầu hoá nhanh chóng về kinh tế, cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới đang ngày càng gay gắt, những xung đột tranh chấp trong thương mại quốc tế không ngừng xảy ra. Do đó, chủ nghĩa bảo hộ trong thương mại quốc tế đang trỗi dậy. Do các biện pháp bảo hộ truyền thống như đánh thuế cao đã trở nên khó thực hiện nên một số nước lạm dụng điều khoản chống bán phá giá của WTO. Trong 20 năm qua, một số nước phương Tây đứng đầu là Mỹ và EU đã đặt ra và sửa đổi quy định về việc chống bán phá giá. Chống bán phá giá trở thành một trong các biện pháp chủ yếu để thực hiện chủ nghĩa bảo hộ trong thương mại quốc tế.  Các nước phương Tây thi hành chính sách phân biệt đối xử đối với Trung quốc: Chính sách này thể hiện trên các mặt sau đây: -62- Một là, khi xác định giá trị bình thường của hàng hoá, họ không căn cứ một nguyên tắc phổ biến là tham chiếu giá cả nơi sản xuất ra sản phẩm đó mà dùng giá hàng ở nước nhập khẩu hoặc một nước thứ ba để tính toán chênh lệch bán phá giá. Hai là, khi điều tra việc bán phá giá và xác định mức thuế chống bán phá giá, một số nước không sử dụng cách làm phổ biến trên thế giới mà lấy cớ công ty ngoại thương Trung quốc là công ty của Nhà nước để thi hành thuế suất chống bán phá giá riêng đối với các doânh nghiệp xuất khẩu của Trung quốc. Ba là, tuy Uỷ ban EU đã tuyên bố từ ngày 1 tháng 7 năm 1998 không còn coi Trung quốc là một nước chưa thực hiện kinh tế thị trường nhưng khi xử lý các vụ khiếu kiện bán phá giá người ta lại đặt ra những quy định khắt khe đối với các doanh nghiệp Trung quốc như “ năm tiêu chuẩn của kinh tế thị trường ” và “ tám tiêu chuẩn xử lý cụ thể ”  Khi bị khiếu kiện, các doanh nghiệp xuất khẩu Trung quốc không tích cực ứng phó Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến các doanh nghiệp xuất khẩu Trung quốc bị thua thiệt bởi vì nếu doanh nghiệp xuất khẩu Trung quốc không kháng kiện thì không thể tham gia trình tự pháp luật của vụ kiện; không biết nước ngoài đã tiến hành điều tra, lập hồ sơ như thế nào và quá trình sơ thẩm, chung thẩm ra sao tức là từ bỏ quyền được biết tình hình, quyền kháng kiện, đồng thời làm giảm nhẹ chi phí khiếu kiện của đối phương. Trong tình hình đó, nhà đương cục nước ngoài chỉ dựa vào sự khiếu kiện của một phía sẽ dễ dàng thành công trong việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Trung quốc. Hơn nữa, do các doanh nghiệp xuất khẩu Trung quốc không kháng kiện nên đối phương cũng được thể, thi hành biện pháp chống bán phá giá nhiều hơn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Trung quốc. Và khi một nước nào đó thành công trong việc khiếu kiện Trung quốc thì nước khác cũng làm theo. Thực tế một số vụ việc cho -63- thấy nếu các doanh nghiệp Trong quốc tích cực kháng kiện thì có thể tránh được hoặc giảm bớt số thuế chống bán phá giá phải nộp. Các doanh nghiệp xuất khẩu Trung quốc không tích cực kháng kiện vì không hiểu rõ quy tắc quốc tế về chống bán phá giá nên cho rằng khi bị khiếu kiện về bán phá giá thì không thể làm gì được. Mặc khác, muốn kháng kiện thì phải mời luật sư để cãi, chi phí tương đối lớn. Hơn nữa, nếu kháng kiện thành công thì không chỉ doanh nghiệp kháng kiện mà còn các doanh nghiệp không kháng kiện cũng tự nhiên nhờ đó mà được hưởng lợi nhưng doanh nghiệp kháng kiện không thể chia xẻ chi phí, rủi ro với các doanh nghiệp không kháng kiện khác.  Một số doanh nghiệp đã giảm giá quá mức để mưu cầu lợi ích nhất thời trong cạnh tranh Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho hàng hoá được bán với giá quá rẻ, dẫn đến khiếu kiện bán phá giá. -64- CHƯƠNG III VẤN ĐỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM I. THỰC TRẠNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG NHẬP KHẨU CỦA NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 1. Thực trạng bán phá giá hàng nhập khẩu của nước ngoài ở Việt nam Thị trường Việt nam đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các hãng đa quốc gia của nhiều nước có nền kinh tế lớn mạnh như Mỹ, Nhật, EU, Trung quốc, Hàn quốc... Với sự cạnh tranh như vũ bão của các công ty nước ngòai lớn mạnh hơn hẳn về mọi mặt, nhiều ngành sản xuất của Việt nam đã từng một thời làm ăn khá như: xe đạp, quạt điện, may mặc, điện tử, nước giải khát... nay bị sức ép mạnh mẽ dồn ép vào một góc thị phần nhỏ hẹp. Trong quá trình cạnh tranh, các công ty nước ngoài dùng mọi biện pháp để chiếm đoạt thị phần của đối phương, mở rộng thị phần của mình kể cả các biện pháp tiêu cực trong đó có biện pháp bán phá giá. Tình trạng buôn lậu ở nước ta vẫn đang có chiều hướng gia tăng phức tạp làm cho hàng hoá ế thừa, hàng hết hạn sử dụng hoặc hàng kém phẩm chất tràn vào nước ta bày bán tràn lan khắp nơi gây tổn thất nặng nề cho các nhà sản xuất tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThực trạng chống bán phá giá trên thế giới và ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan