Đề tài Thực trạng chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế từ năm 1991 đến nay

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

I. KHÁI NIỆM VỀ CƠ CẤU, NGÀNH KINH TẾ, CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU KINH TẾ, MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 2

1. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế 2

2. Khái niệm chuyển đổi cơ cấu kinh tế 3

3. Một số lý thuyết về chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện "mở cửa", hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế 5

3.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối, lý thuyết lợi thế tuyệt đối 5

3.2. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay "cực tăng trưởng" 6

3.3. Lý thuyết phát triển theo mô hình "đàn nhạn bay" 7

II. THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY 10

1. Tổng quan về chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế 10

1.1. Kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh và ổn định 10

1.2. Cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, phát huy các lợi thế so sánh 11

1.3. Cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển đổi theo chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, định hướng tăng trưởng xuất khẩu 12

2. Nhà nước và thị trường cùng tham gia vào qúa trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế 20

3. Những hạn chế chủ yếu của quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo chiến lược CNH, HĐH mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế 22

III. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VỀ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 28

1. Quan điểm cơ bản về chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế 28

2. Phương hướng chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta 10 năm đầu thế kỷ XXI 28

IV. KINH NGHIỆM CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN 30

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2049 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế từ năm 1991 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã thay đổi tích cực theo hướng chiến lược xác định trong từng thời kỳ. Thứ hai, do tăng trưởng tiết kiệm, đầu tư, xuất nhập khẩu: sự tăng trưởng của các ngành công, nông nghiệp và dịch vụ, trong đó công nghiệp làm đầu tàu cho tăng trưởng chung của nền kinh tế; sự gia tăng của các sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế v.v… Thứ ba, nhờ sự gia tăng khối lượng đầu tư phát triển xã hội, đầu tư của khu vực nhà nước (xem bảng 2) Thứ tư, mở cửa, hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế đã có tác động thúc đẩy mạnh đối với nền kinh tế nước ta, thể hiện ở những đóng góp to lớn của tăng trưởng ngoại thương, đầu tư nước ngoài vào tăng trưởng của các ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế; tăng thu nhập, tạo việc làm, nâng cao trình độ công nghệ - kỹ thuật. Những năm 1994- 1996, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu tăng mạnh đã đóng góp to lớn đẩy tốc độ tăng trưởng GDP lên cao: năm 1995 đạt 9,54%, năm 1996 là 9,34%. Trong 2 năm 1998 - 1999 do tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu giảm đã tác động làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP. Kết quả tăng trưởng GDP và các ngành lớn trong nền kinh tế đã góp phần đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng; tạo lòng tin của nhân dân vào đường lối chuyển đỏi sang kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng và Nhà nước; tạo thế phát triển vững chắc để đi nhanh vào giai đoạn tăng trưởng và phát triển cao hơn. 1.2. Cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, phát huy các lợi thế so sánh Tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng, dịch vụ - thương mại có xu hướng tăng lên khá nhanh, tỷ trọng nông nghiệp giảm tương ứng; tỷ trọng công nghiệp chế biến và các sản phẩm có giá trị gia tăng cao tăng lên. Xu hướng này phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với sự thay đổi mạnh mẽ tỷ trọng, giá trị sản lượng của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cũng tăng nhanh, nhờ có thay đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch tập trung, khép kín sang cơ chế thị trường - mở cửa đã mở đường cho lực lượng sản xuất có bước phát triển mới và tạo khả năng huy động, phân phối, sử dụng các nguồn lực hiệu quả. Cơ cấu ngành chuyển đổi mạnh theo hướng tăng tỷ phần công nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp và dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn là do mức đầu tư phát triển, đầu tư nước ngoài dành cho hai nhóm này tăng nhanh hơn. Còn khu vực nông nghiệp do chỉ dựa chủ yếu vào vốn đầu tư của các hộ gia đình nông dân, còn mức đầu tư phát triển xã hội dành cho ít hơn, lại bị cản trở bởi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cho nên tốc độ tăng trưởng đạt được thấp hơn hai khu vực kia. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế chuyển đổi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tuy diễn ra còn chậm và kết quả chuyển đổi cơ cấu sản lượng theo ngành chưa tỷ lệ thuận với chuyển đổi cơ cấu lao động, nhưng tiến trình chuyển đổi cơ cấu lao động trên đây là một bước tiến bộ trong phân bổ nguồn lực lao động xã hội vào quỹ đạo chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 1.3. Cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển đổi theo chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, định hướng tăng trưởng xuất khẩu Thứ nhất, sự thay đổi cơ cấu đầu tư phát triển xã hội đã hỗ trợ, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mở cửa và hội nhập. Bảng 2: Vốn đầu tư phát triển qua các năm (Theo giá thực tế) Năm Tổng số Chia ra Khu vực nhà nước Ngoài quốc doanh Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Nghìn tỷ đồng Tăng % Nghìn tỷ đồng Tăng % Nghìn tỷ đồng Tăng % Nghìn tỷ đồng Tăng % 1990 7.581 3.057 3.544 0.990 1991 13.470 79.2 5.114 67.3 6.430 81.4 1.926 94.5 1992 24.736 84.3 8.687 69.9 10.864 68.9 5.185 69.2 1993 42.176 74.3 18.555 13.6 13.000 19.6 10.621 104.8 1994 54.296 31.9 20.796 12.0 17.000 30.7 16.500 55.3 1995 72.447 26.8 30.447 46.4 20.000 17.6 22.000 33.3 1996 87.394 20.6 42.894 40.8 21.800 9.0 22.700 22.7 1997 108.371 24.0 53.570 12.9 24.500 12.3 30.30 12.2 1998 117.134 8.0 65.034 21.4 27.800 13.4 24.30 -19.8 1999 131.170 12.0 76.958 18.3 31.542 13.4 22.670 -6.7 2000 145.333 10.8 83.567 8.6 34.593 9.6 27.171 19.8 2001 163.543 12.5 95.020 13.7 38.512 11.3 30.011 10.4 2002 193.099 18.07 106.231 11.8 52.111 35.3 755 15.8 Nguồn: - Số liệu thống kê - kinh tế - xã hội Việt Nam 1975 - 2000 - Niên giám thống kê năm 1996, 1999, 2001, 2002. Đầu tư phát triển xã hội tăng lên cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng tạo nguồn lực cho phát triển sản xuất. Nhà nước đã có chính sách thu hút nguồn vốn khác nhau vào phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và tài trợ cho các vùng chậm phát triển, vùng khó khăn. Đầu tư phát triển đã hướng vào sản xuất xuất khẩu, phát triển nhanh các ngành công nghiệp, nông nghiệp làm hàng xuất khẩu, phát triển các ngành dịch vụ thu ngoại tệ, tăng hiệu quả sử dụng vốn luôn đặt ra đối với tất các các khu vực kinh tế: nhà nước, ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành mối quan tâm lớn đối với các ngành, các khu vực của nền kinh tế. Thứ hai, đầu tư của khu vực kinh tế trong nước, trong đó khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng lớn, đã hướng vào các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu. Đầu tư của khu vực kinh tế trong nước (khu vực nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư xã hội và đã đóng góp với tỷ trọng lớn vào xuất khẩu hàng hóa. Đầu tư nhà nước chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội và đã đóng góp nhất định vào tăng trưởng. Đầu tư nhà nước tăng nhanh là một nhân tố quan trọng chặn đà giảm sút tốc độ tăng trưởng những năm qua, mặc dù nguồn đầu tư đó còn dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Đầu tư nhà nước theo ngành từ nguồn ngân sách đã được cơ cấu lại hướng vào việc tạo lập môi trường, các điều kiện chung cho sự chuyển đổ cơ cấu ngành và phát triển các yếu tố thị trường, thay vì đầu tư trực tiếp cho sản xuất của ngành theo cơ chế bao cấp trước đây. Chính những tác động của việc "mở cửa" nền kinh tế, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường làm thay đổi phương hướng đầu tư nhà nước. Vốn đầu tư Nhà nước dành cho nông - lâm nghiệp - thủy sản được đầu tư cho thuỷ lợi tới 70%, ngoài ra còn dành cho phát triển cây công nghiệp dài ngày, phổ biến và ứng dụng khoa học - kỹ thuật nông nghiệp và phát triển một số hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp như giao thông, điện khí hoá nông thôn. Trong công nghiệp đầu tư công cộng được ưu tiên cho các ngành then chốt như điện, xi măng, thép, phân bón, hoá dầu và chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ xuất khẩu như dệt, may, giày dép, lắp ráp điện tử. Đầu tư nhà nước cho cơ sở hạ tầng, thương mại, khoa học - kỹ thuật, giáo dục và đào tạo, y tế cũng tăng nhanh. Đây được coi là một bước chuyển biến tích cực nhằm cơ cấu lại đầu tư theo hướng phát triển mạnh các ngành dịch vụ hiện đại, thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước được tập trung vào các ngành khai thác lợi thế sẵn có như lao động dồi dào, giá rẻ, phát triển những sản phẩm có hàm lượng lao động cao như dệt may, giày dép, nước giải khát… Hiện nay, trước yêu cầu phải chặn đà giảm sút tăng nhanh trở lại tốc độ tăng trưởng, doanh nghiệp nhà nước hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp được bảo hộ, các ngành sử dụng nhiều vốn và các ngành xuất khẩu theo hạn ngạch ưu đãi, một số ngành độc quyền hoặc độc quyền bán phần. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã hướng đầu tư vào chiều sâu, cải tiến kỹ thuật, đổi mới thiết bị để nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh sản phẩm. Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước đã dần dần hướng vào phục vụ nông nghiệp và nông thôn, tạo sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh đã đóng góp tích cực, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hội nhập. Thứ ba, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân hướng vào tăng trưởng xuất khẩu. FDI ở Việt Nam là một nguồn vốn bổ sung vào vốn đầu tư phát triển xã hội, đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng nền kinh tế (xem bảng 3). Bảng 3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành Ngành Từ 1988 đến hết năm 1996 Từ 1988 đến hết năm 2002 Tổng vốn đăng ký (Tr.USD) % Tổng vốn đăng ký (Tr.USD) % Tổng vốn 26.974,3 100 43.194,0 100 1. Nông - lâm - thủy sản 1.394,6 5,2 1.813,7 4,2 - Nông, lâm nghiệp 1.086,8 4,0 1.433,3 3,3 - Thủy sản 307,8 1,2 380,4 0,9 2. Công nghiệp và XD 12.490,5 46,3 24.132,2 55,9 - Công nghiệp 9.508,5 35,2 19.422,4 45,0 Trongđó: CN dầu khí 1.504,6 5,6 4.709,8 9,7 - Xây dựng * 2.982,0 11,1 4.696,5 10,9 3. Dịch vụ 13.089,1 48,5 17.248,1 39,9 - Khách sạn, du lịch 3.692,1 13,7 5.013,5 11,6 - Giao thông vận tải, bưu điện 2.006,0 7,5 3.676,8 8,5 - Tài chính - ngân hàng 174,3 0,64 248,4 0,6 - Văn hóa - y tế- giáo dục 276,5 1,0 607,6 1,4 - Dịch vụ khác** 6.940,2 25,7 7.702,1 17,8 * Bao gồm cả xây dựng khu chế xuất ** Bao gồm cả xây dựng văn phòng và căn hộ. Nguồn: Niên giám thống kê năm 1996, 1999, 2001, 2002. FDI đã có tác dụng làm tăng cả số lượng và chất lượng đầu tư,bởi vì nguồn vốn này thường đi kèm với công nghệ, kỹ thuật và trình độ quản lý tiên tiến. FDI đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành hướng vào xuất khẩu, thể hiện: - Thay đổi tỷ trọng giữa ba khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. - FDI đã hướng vào các ngành phục vụ xuất khẩu và đã đóng góp tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước. Có hai ngành chiếm tỷ trọng xuất khẩu cao là dầu khí và công nghiệp thực phẩm. - FDI đã có hướng chuyển đầu. Nếu những năm đầu đổi mới, FDI tập trung vào lĩnh vực thăm dò dầu khí và xây dựng khách sạn, các ngành công nghiệp xi măng, đồ uống, sản phẩm kim loại, lắp ráp điện tử và lắp ráp ô tô, xe máy, thì gần đây, FDI có sự dịch chuyển, hướng sang các ngành giao thông vận tải, bưu chính - viễn thông, xây dựng văn phòng cho thuê và khu công nghiệp. Thứ tư, chuyển đổi cơ cấu ngành theo chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu được thể hiện qua sự thay đổi cơ cấu thương mại. Chuyển đổi cơ cấu ngành được thể hiện ở sự thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu: Kim ngạch và tốc độ tăng xuất khẩu đạt cao làm tăng mức độ mở cửa nền kinh tế, thúc đẩy cơ cấu ngành từng bước chuyển đi phù hợp theo xu hướng mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã có bước chuyển biến tích cực ngày càng đa dạng. Trước năm 1989, mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nông - lâm nghiệp - thủy sản, chiếm 62,7%, mặt hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 29,8%, công nghiệp nặng và khai khoáng chiếm 7,5%. Từ năm 1989, nước ta đã xuất khẩu dầu thô và gạo với khối lượng lớn nên lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu Việt Nam vượt con số 1 tỷ, đạt 1.946. Tỷ trọng các nhóm hàng xuất khẩu có biến đổi: công nghiệp nặng và khai khoáng có xu hướng giảm xuống (năm 1992 là 37% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, đến năm 2002 là 29.0%); xuất khẩu hàng nông sản cũng có xu hướng giảm (năm 1991 là 52.1%, đến năm 2002 còn chiếm 30.0%) nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao; xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng lên, từ 14,4% năm 1992 lên 41,0% vào năm 2002. Số lượng, kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã tăng lên và nhiều mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD. Bảng 4: 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 1991 - 1995. Mặt hàng 1991 1992 1993 1994 1995 Triệu USD % Triệu USD % Triệu USD % Triệu USD % Triệu USD % 1. Dầu thô 580 27.9 840 33.9 866 29.0 976 24.1 1074 19.7 2. Dệt may 116 5.6 161 6.5 450 15.1 554 13.7 700 12.8 3. Thuỷ sản 252 12.1 305 12.3 427 14.3 551 13.6 620 11.7 4. Gạo 230 11.0 40.4 16.4 358 12.3 423 10.4 550 10.1 5. Giầy dép 15 00.7 16 0.6 24 0.8 100 2.5 250 4.6 6. Than đá 47 22.3 51 2.1 60 2.0 88 2.2 119 2.2 7. Cà phê 74 33.6 91 3.8 119 4.0 249 6.1 560 10.3 8. Cao su 51 22.4 64 2.6 71 2.4 143 3.5 77 1.4 9. Hạt điều 24 1.2 41 1.7 58 1.9 110 2.7 92 4.6 10. Lạc nhân 40 19 32 1.3 47 1.6 78 1.9 46 0.8 % tổng kim ngạch XK 68.7 81.2 83.1 80.7 77.9 Nguồn: Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới năm 2010 + Chất lượng hàng xuất khẩu đã từng bước được cải thiện: Chất lượng gạo (gạo phẩm cấp cao tăng), thủy sản (một số mặt hàng thủy sản đã thâm nhập được những thị trường khó tính như EU), các mặt hàng may mặc, giầy dép, hàng điện tử, máy tính v.v… đã được nâng lên, khối lượng xuất khẩu hàng tiếp sang các thị trương tiêu thụ tăng đáng kể. * Chuyển đổi cơ cấu ngành được thể hiện ở sự chuyển đổi tích cực cơ cấu mặt hàng nhập khẩu. Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, do đầu tư nước ngoài giảm cho nên nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị giảm làm giảm tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu tư liệu sản xuất tăng lên, hàng nhập khẩu quan trọng nhất là xăng, dầu,thép, phân bón, linh kiện điện tử và máy tính, nguyên liệu cho dệt may, giầy da. Trong số đó, chỉ có nguyên liệu cho hàng dệt may và giầy da phục vụ gia công xuất khẩu, đa số nhập khẩu còn lại là phục vụ sản xuất thay thế nhập khẩu. Cơ cấu nhập khẩu như vậy vừa là kết quả, vừa là nhân tố thúc đẩy phát triển cơ cấu xuất hướng vào thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu. Khu vực FDI tăng nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng các công trình, nhằm phát triển sản xuất và nhập khẩu nguyên liệu sản xuất gia công để bán trên thị trường nội địa hơn là xuất khẩu. * Chuyển đổi cơ cấu ngành thể hiện ở sự thay đổi cơ cấu thương mại trong nước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ở thị trường trong nước năm 2002 tăng 1,87 lần so với năm 1996. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ bình quân hàng năm thời kỳ 1991 - 2002 tăng 23,24%/năm. Tuy vậy, nhìn chung, tổng mức bán lẻ trên thị trường trong nước tăng chậm, chất lượng hàng hoá thấp, chủng loại nghèo nàn, đơn điệu, mẫu mã còn chưa hấp dẫn. Về cơ bản nền thương nghiệp còn nhỏ bé, phân tán, manh mún, hệ thống luật pháp còn chưa đồng bộ, công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu và gian lận thương mại hiệu quả chưa cao. * Đa phương hóa thị trường xuất nhập khẩu đã góp phần thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành hướng vào tăng trưởng xuất khẩu (xem bảng 5) Bảng 5: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 - 2002. Đơn vị tính: % 1991 1994 1995 1996 1997 1999 2001 2002 + Châu á 76.9 72.0 72.4 72.4 65.51 56.8 55.0 50.4 - Đông Nam á 25.1 22.0 20.4 24.5 22.02 21.8 16.0 14.5 - Các nước Châu Á khác 51.8 50.0 52.0 47.9 43.49 35.0 39.0 35.9 + Châu Âu 17.1 13.9 18.0 16.15 24.03 25.19 21.6 19.3 +Châu Mỹ 0.3 3.4 4.4 4.13 4.64 5.73 8.1 15.7 - Mỹ 2.3 3.1 2.8 3.17 5.01 2.54 14.5 + Châu Phi 0.6 0.5 0.7 0.37 0.54 0.6 +Châu Úc 0.2 1.2 1.0 1.0 2.78 5.39 7.06 8.2 Nguồn: Niên giám thống kê năm 1996, 1999, 2001, 2002. 2. Nhà nước và thị trường cùng tham gia vào qúa trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế Vai trò kinh tế nhà nước tăng lên, nhưng sự can thiệp trực tiếp có xu hướng giảm. Là người khởi xướng công cuộc đổi mới kinh tế. Nhà nước đã thông qua việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để định hướng chiến lược và thực hiện chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân. Những nỗ lực hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô, việc ban hành các luật phù hợp với yêu cầu thị trường và hội nhập quốc tế: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật Hải quan, Luật thuế GTGT và nhiều văn bản dưới luật, việc công bố lịch trình, danh mục cắt giảm thuế quan và phi thuế quan,v.v… phù hợp với thông lệ khu vực AFTA/ASEAN, APEC, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và những thông lệ quốc tế (WTO) đã thể hiện bước đầu thích ứng của nhà nước với tình hình mới. Nhà nước đã cố gắng tạo môi trường pháp lý, kinh tế cho các chủ thể kinh tế hoạt động và cạnh tranh lành mạnh bằng việc nỗ lực thực hiện cải cách hành chính, hoàn thiện cơ chế, chính sách, phương thức tác động, ổn định chính trị - xã hội, cung cấp các dịch vụ công cộng và tăng cường gắn kết vai trò của Chính phủ với doanh nghiệp. Nhà nước vừa tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích công bằng thông qua các công cụ chính sách như thuế, tín dụng, v.v… Những nỗ lực của Nhà nước trong những năm qua đã có tác dụng tích cực trong việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa, hội nhập. Tuy vậy, việc phát huy vai trò của Nhà nước trong việc điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế cũng bộc lộ nhiều hạn chế (trong công tác quy hoạch, trong việc tạo môi trường pháp lý và kinh tế, môi trường cạnh tranh, tiếp cận bình đẳng các nguồn lực giữa các chủ thể,v.v.) làm chậm tốc độ chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân. + Giải pháp thị trường thực hiện điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế được áp dụng ngày càng tăng. Thực hiện chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và có sự quản lý của Nhà nước, yếu tố thị trường (trong nước và ngoài nước) đã bắt đầu tham gia trong việc định hướng phân bổ nguồn lực đầu tư, lựa chọn ngành nghề, hình thức kinh doanh.Cùng với sự "cởi trói" của Nhà nước, dưới tác động của thị trường, các thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng đa dạng hoá, kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển "bùng nổ", nhiều ngành nghề kinh doanh mới xuất hiện, nhiều sản phẩm phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, nhiều loại hình dịch vụ được phát triển. Sự điều chỉnh của thị trường đối với sự chuyển đổi cơ cấu ngành đã bắt đầu có tác dụng khắc phục những hạn chế của sự điều tiết mang tính hành chính của Nhà nước, mặc dù vẫn còn rất khiêm tốn. Trên thực tế mặt trái của sự điều tiết qua thị trường trong việc điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế nói riêng, và đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nói chung đã bộc lộ. Sự tự phát trong đầu tư, phát triển những ngành nghề dẫn đến cơ cấu dàn trải, chồng chéo, trùng lắp, trang bị công nghệ lạc hậu.Sự "bùng nổ" dịch vụ nông thôn kém chất lượng làm giảm hiệu quả của những giải pháp điều tiết của thị trường. Qua phân tích thực trạng chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trên đây có thể khái quát những thành tựu to lớn của quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực từ năm 1991 đến nay như sau: + Trong cơ cấu nội dung của nền kinh tế quốc dân, xét về giá trị sản phẩm và về lao động thì tỷ trọng ngành công nghiệp tăng lên, còn tỷ trọng nông nghiệp giảm. + Cơ cấu ngành công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ có sự biến chuyển tích cực theo hướng CNH và từng bước HĐH, mở cửa, hướng vào tăng trưởng xuất khẩu, phát huy các lợi thế so sánh gắn với đáp ứng nhu cầu thị trường (trong nước và quốc tế), giải quyết nhiệm vụ xã hội, tạo việc làm và bước đầu gắn kết với chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế. + Các ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tiếp cận các công nghệ tiên tiến, hiện đại, tốc độ chuyển giao công nghệ tăng lên, trình độ công nghệ của một số ngành đã có tiến bộ rõ rệt. + Nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng, suy thoái và đã vượt qua giai đoạn suy giảm tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng cao, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số sản phẩm, một số lĩnh vực có sự chuyển biến tích cực.Danh mục sản phẩm có khả năng cạnh tranh khá trên thị trường ngày càng được mở rộng và một số sản phẩm thương hiệu Việt Nam đã đạt tiêu chuẩn quốc tế. 3. Những hạn chế chủ yếu của quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo chiến lược CNH, HĐH mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế Thứ nhất, sự chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân theo chiến lược CNH, HĐH và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực còn rất chậm, cả về tỷ trọng lẫn chất lượng. Xét về lượng, từ năm 1991 đến năm 1997, về cơ bản sự chuyển đổi cơ cấu ngành tuân theo quy luật chuyển đổi cơ cấu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (tỷ trọng trong GDP của công nghiệp và dịch vụ tăng lên, nông nghiệp giảm xuống). Nhưng từ năm 1998, sự chuyển đổi cơ cấu ngành không tuân theo triệt để quy luật đó: tỷ trọng trong GDP của ngành công nghiệp tăng nhanh và tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống là thể hiện sự phù hợp, còn tỷ trọng dịch vụ giảm xuống (chuyển dịch ngược).Sự chuyển đổi cơ cấu ngành chậm còn thể hiện trong nội bộ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Xét một cách tương đối, mức độ chuyển đổi cơ cấu ngành theo quy luật chuyển đổi cơ cấu ngành trong quá trình CNH, HĐH và theo chiến lược tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay còn ở trình độ tương đương các nước ASEAN vào khoảng trước năm 1980. Chẳng hạn, Philippin năm 1980 tỷ trọng công nghiệp trong GDP chiếm 38,8%; nông nghiệp 25,1%; dịch vụ 36,1%. Cùng năm đó ở Malaixia, công nghiệp chiếm tỷ trọng 35,8% GDP, nông nghiệp 22,9%, dịch vụ 41,3%. Kể từ năm 1980, các nước ASEAN đã chuyển sang chiến lược hướng vào xuất khẩu dựa vào tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm chế tạo và chế biến, còn ở Việt Nam hiện nay, cơ cấu ngành vẫn nghiêng về thay thế nhập khẩu. Trong công nghiệp đầu những năm 1980, Đài loan bắt đầu chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp có giá trị gia tăng cao và công nghiệp tiết kiệm năng lượng. Đến năm 1990, sản phẩm công nghệ cao là đã chiếm tới 40,2% tổng giá trị xuất khẩu, bao gồm các sản phẩm điện tử, tin học và thiết bị đạt tiêu chuẩn quốc tế. Từ đầu những năm 1990, Đài Loan vừa phát triển mạnh các ngành công nghệ cao đồng thời chuyển các ngành công nghiệp truyền thống ra nước ngoài. Hàn Quốc đầu những năm 1980 đã điều chỉnh và cải tổ cơ cấu kinh tế theo các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao, thực hiện tự do hóa và mở cửa nền kinh tế. Còn ở Việt Nam hiện nay, nền kinh tế về cơ bản đang ở giai đoạn chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, chủ yếu khai thác lợi thế "tĩnh" (tài nguyên đất đai, lao động) để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu. Ngành dịch vụ Việt Nam năm 2002 mới chỉ chiếm 38,46% GDP, trong khi đó năm 1986, ngành dịch vụ của Malaixia chiếm tới 40% GDP, Inđônêxia là 41,0%, Philippin là 40,66%. Trong nội bộ ngành dịch vụ mỗi nước, dịch vụ tài chính của Malaixia chiếm 13,7%, Inđônêxia chiếm 17,5%, Philippin chiếm 7,7% thì ở Việt Nam năm 2002, dịch vụ tài chính tín dụng mới chiếm 4,73%. Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ nước ta thấp và tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP giảm sút kể từ năm 1996 tới nay là do giảm sút tỷ trọng của các ngành thương mại (từ 37,3% năm 1996 xuống 36,67% năm 2002), du lịch khách sạn (từ 8,45% xuống 8,32%) và tốc độ tăng chậm của các ngành dịch vụ khác như: hoạt động khoa học và công nghệ, dịch vụ tư vấn và kinh doanh tài sản,v.v… Quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành còn chưa làm thay đổi căn bản về chất của cơ cấu ngành, chưa tạo được sự nhảy vọt trong cơ cấu, chưa tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa các ngành công, nông nghiệp và dịch vụ, giữa các phân ngành, phân nhánh ngành của nội bộ ngành đó. Có thể nhận thấy hạn chế này trong công tác quy hoạch phát triển cơ cấu ngành, cơ cấu đầu tư, cơ cấu phân công lao động xã hội theo ngành. Chẳng hạn: tác động của công nghiệp tới phát triển nông nghiệp và nông thôn còn hạn chế, cụ thể như, công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản còn yếu, phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu chế biến nguyên liệu nông - lâm - thủy sản; cơ khí nông nghiệp phát triển không ổn định, lao động trong khu vực liên quan đến cơ khí hoá nông nghiệp giảm sút, mức độ cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp còn thấp, chế biến nông sản còn dừng ở trình độ sơ chế và dùng lao động thủ công làchủ yếu v.v… Các ngành, loại hình dịch vụ tài chính - ngân hàng, khoa học - công nghệ, tư vấn, các dịch vụ sử dụng nhiều trí tuệ, chất xám phát triển chậm, chưa đáp ứng kịp thời và ngày càng cao cho phát triển các ngành công, nông nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế. Thứ hai, xu hướng cơ cấu ngành nghiêng về hướng nội, thay thế nhập khẩu, chưa triệt để theo chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu. Trong cơ cấu công nghiệp, phát triển các ngành nghiêng về hướng nội, sử dụng nhiều vốn, sử dụng ít lao động, thậm chí sử dụng lãng phí vốn xã hội, không tạo điều kiện nhảy vọt cơ cấu và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đi vào kinh tế tri thức. Cụ thể như: trong danh mục các sản phẩm chủ yếu và tăng trưởng nhanh có đa số các sản phẩm có xu hướng tiêu thụ chủ yếu trên thị trường nội địa, còn xuất khẩu chiếm phần nhỏ, đa số là những ngành đòi hỏi nhiều vốn, như thép, xi măng, khai thác dầu khí, đồ uống, lắp ráp điện tử, xe máy; nhiều sản phẩm tăng trưởng quá nhanh, cung đã vượt cầu nhưng vẫn tiếp tục đầu tư mở rộng trên quy mô (điển hình như thép,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKTCT (11).doc
Tài liệu liên quan