Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HOÁ DNNN 2

 1.Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần trong Chủ nghĩa tư bản 2

2. Cổ phần hoá là gì? 3

3. Mục tiêu của cổ phần hoá 3

4. Khu vực kinh tế Nhà nước và quá trình cổ phần hoá các DNNN 3

5. Cổ phần hoá ở Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu 4

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

 Ở VIỆT NAM 6

 1. Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt nam 6

 2. Những thành tựu đạt được 8

 3. Những mặt chưa được và nguyên nhân 9

 4. Quan điểm và biện pháp để xúc tiến cổ phần hoá 10

CHƯƠNG III- TRÌNH BÀY MỘT DOANH NGHIỆP 12

CHƯƠNG IV : MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY

 CỔ PHẦN HOÁ DNNNTRONG THỜI GIAN TỚI 13

 1. Những quan điểm cơ bản cần quán triệt 13

 1.1. Dưới góc độ thị trường CPH không phải là tư nhân hoá 13

1.2. Công ty cổ phần trong đó Nhà nước nắm cổ phần khống chế

 vẫn là DNNN 13

 1.3. Làm rõ vấn đề sở hữu và lợi ích trong các DNNN 14

 1.4. CPH DNNN và định hướng XHCN 15

 2. Các giải pháp cơ bản để tiến hành CPH trong thời gian tới 16

PHẦN KẾT LUẬN 18

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o ra sự liên kết phát triển bền vững. Hiện nay cả nước có khoảng 5280 doanh nghiệp, bình quân mỗi doanh nghiệp chỉ có 22 tỷ đồng( khoảng 1,4 triệu USD), trong đó số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng ( khoảng 300 nghìn USD) chiếm tới 65,45%, số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng (trên 650 nghìn USD) chỉ chiếm 21%. Đặc biệt số doanh nghiệp do địa phương trực tiếp quản lý qui mô còn nhỏ bé hơn nhiều, trong đó số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng ( khoảng 65 nghìn USD) còn chiếm hơn 30 %. Nhiều doanh nghiệp cùng loại thì hoạt động trung tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng 1 địa bàn tạo ra sự cạnh tranh không đáng có. Do dàn trải về ngành nghề từ sản xuất đến thương mại và dịch vụ, manh mún về vốn trong khi vốn đầu tư của Nhà nước rất hạn chế đã gây chi phối xé lẻ các nguồn lực không tập trung được cho những lĩnh vực then chốt. Thiếu vốn cũng là nguyên nhân làm cho công nghệ của chúng ta không được cải thiện, sản phẩm làm ra thường kém chất lượng, giá cả lại cao dẫn đến năng lực cạnh tranh kém, bị thua thiệt trong hội nhập về kinh tế thế giới. Các máy móc, thiết bị được trang bị thường nhập với các chủng loại và thế hệ rất khác nhau. Theo kết quả khảo sát của Bộ Khoa Học, Công Nghệ và Môi Trường thì dây truyền sản xuất, máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới 10 đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30 đến 50 %, có tới 38% ở dạng phải thanh lý. Do nhiều lý do khác nhau không ít trường hợp chúng ta nhập khẩu những máy móc không đúng tiêu chuẩn và qui cách Hơn nữa, việc đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT, công nhân lành nghề chưa được chú trọng hoặc chưa phù hợp với xu thế phát triển, chưa có những ràng buộc về mặt lợi ích để người lao động phát huy hết khả năng của mình, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí.... rất khó kiểm soát đang là những nhân tố làm khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh những khó khăn chủ quan xuất phát từ nội bộ nền kinh tế, các tác động tiêu cực do hội nhập kinh tế thế giới mang lại như cuộc khủng hoảng Tài chính – Tiền tệ khu vực gần đây đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nước ta. Điều này cho thấy tính cấp bách phải nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển đất nước một cách ổn định vững chắc trong tương lai lâu dài. Nhận thức được tầm quan trọng của việc này Nghị quyết Hội nghị Trung Ương IV( khoá VIII) của Đảng đã dành một phần quan trọng cho mục tiêu tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các DNNN, phấn đấu đưa chúng thực sự trở thành lực lượng chủ đạo dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm nòng cốt để thực hiện thành công tiến trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế thế giới. Tiếp theo, Chính phủ đã có chỉ thị số 20/TTG ngày 20/4/1998, trong đó đã đề ra chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện và quyết tâm thông qua đợt sắp xếp này để hình thành một cơ cấu doanh nghiệp hợp lý mạnh mẽ được quản lý tốt. CPH là 1 trong 4 nội dung quan trọng của quá trình đổi mới sắp xếp ( bao gồm: Đổi mới cơ chế quản lý DNNN, tổ chức lại, củng cố và hoàn thiện Tổng công ty Nhà nước, CPH DNNN và áp dụng các hình thức giao, bán, khoán, cho thuê những DNNN có qui mô nhỏ.) Chương II Thực trạng Cổ PHần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam 1. Tiến trình CPH doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam Sớm nhận thức được tầm quan trọng cũng như sự nan giải trong tiến trình thực hiện, chủ trương CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước đã được Đảng và Chính phủ đặt ra từ đầu những năm 1990 và chính thức triển khai từ giữa năm 1992 với những văn bản: - Nghị quyết hội nghị lần 2 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (tháng 11/1991) đã ghi: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành Công ty Cổ phần và thành lập một số Công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp”. - Nghị quyết của Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chỉ đạo của DNNN ( số NQ/TW) đã chỉ rõ: tuỳ loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên... và bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp”. - Thông báo số 63 TB/TW ngày 4/4/1991 của Bộ chính trị khẳng định tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc CPH doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. - Nghị quyết kỳ họp số 10 Quốc hội khoá VIII ngày 26/12/1991 về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991 -1995 đã ghi: “ Thí điểm về việc CPH một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rut ra một số kinh nghiệm và thêm nguồn vốn phát triển”. Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Quốc Hội , Chính phủ đã ban hành các văn bản - Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính phủ) về tiếp tục chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần . - Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm và giao nhiệm vụ cho mỗi bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn một đến hai doanh nghiệp thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. - Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước - Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. - Nghị định số 25/Cp ngày 26/3/1997 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổ một số điều của Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996. - Chỉ thị số 658/TTg ngày 20/8/1997 cuảThủ tướng Chính phủ về thức đẩy chiển khai vững chắc CPH DNNN . Thực hiện Quyết định số 202/CT, cac bộ ngành đã hương dẫn các DNNN đăng ký thực hiện trhí điểm chuyên sang công ty cổ phần . Trên cơ sở lố lượng DNNN đã đăng ký, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ra Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 DNNN do chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần: 1.Nhà máy Xà phòng Việt nam (Bộ Công nghiệp) 2.Nhà máy Diêm Thống Nhất (Bộ Công nghiệp) 3.Xí Nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ nông nghiệp). 4.Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long Bình (Bộ thương mại) 5.Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (Bộ thương mại). 6.Xí nghiệp Dệt da may Legamex (TP.HCM). 7.Xí nghiệp sản xuất bao bì (TP.HN) Sau một thời gian làm thử, 7 DNNN được Chính phủ chọn thí điểm đều xin rút, hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH như Legamex, Nhà máy Xà phòng Việt Nam v..v... Hơn 30 doanh nghiệp đã ký với Bộ Tài chính để thí điểm thực hiện CPH và 3 DNNN xin chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị số 84/TTg. Sau 4 năm thực hiện Quyết định 202/CT có 5 doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần : 1. Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển ( thuộc Bộ Giao Thông ). 2. Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (TP HCM) 3. Công ty Cổ phần Giầy Hiệp An (Bộ Công Nghiệp ) 4. Công ty Cổ phầnChế biên hàng xuất khẩu Long An (Tỉnh Long An) 5.Công ty chế biên thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp) Trong đó, doanh nghiệp đi tiên phong trong chủ trương CPH là Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Tổng Công ty Hàng Hải), tiếp sau là Công ty Cổ phần cơ điện lạnh TPHCM. Hai công ty này đã hoàn thành việc CPH và chính thức hoạt động theo hình thức Công ty Cổ phần từ ngày 1/10/1993. Hai DNNN chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn là Công ty dịch vụ và Thương Mại tổng hợp quận Hồng Bàng(Hải phòng) và Công ty Gạch Bông Đức Tân (TPHCM). Sau vài năm thực hiện đã rút ra được một số kinh nghiệm để bổ xung và sửa đổi chế độ về CPH, 7/5/1996 Chính phủ đã ra nghị Quyết số 28/CP thay cho Nghị quyết số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn . Thực hiện Nghị định số 28/CP công tác CPH đã được quan tâm hơn, các ngành các cấp đã chiển khai về một số công việc sau: Củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban Chỉ đạo CPH, kiện toàn và thành lập Ban Chỉ đạo CPH ở địa phương . Đến đầu năm 1998 có 36 tỉnh, thành phố, bộ, ngành và các Tổng Công ty 91 đã đăng ký hơn 200 doanh nghiệp thực hiện CPH chiếm 3% số DNNN. Từ khi có Nghị định số 28/CP, đã thực hiện CPH được 13 doanh nghiệp, số doanh nghiệp đang tiến hành ở các bước xác định giá trị doanh nghiệp. Đầu năm 1998 có khoản 18 doanh nghiệp thực hiện CPH chuyển sang hoạt động theo Luật Công ty. Trong số 18 doanh nghiệp có 1 DNNN không lắm vững cổ phần là Công ty Đầu tư sản xuất và Thương Mại Hà Nội(Xí nghiệp Mộc). Còn lại 17 Công ty cổ phần, Nhà nước nắm ít nhất 18%, cao nhất 51 cổ phần công ty; Cổ đông do người lao động trong công ty chiếm 18-50%, cổ phẩn còn lại do cổ đông ngoài xã hội năm giữ. Hầu hết các công ty này sau khi chuyển sang Công ty Cổ phần đều kinh doanh phát triển, có tiến bộ về mọi mặt, Nhà nước và doanh nghiệp đều có lợi. Sau một thời gian thí điểm rút ra một kinh nghiệm, tại Thông báo số 63/TB - TU ngày 4/4/1997, Bộ Chính trị đã tổng kết và cho ý kiến chỉ đạo tiếp tục triền khai vững chắc CPH DNNN. Ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/4998/NĐ/CP về “Chuyển DNNN thành Công ty Cổ phần, kèm theo phụ lục danh mục các loại DNNN để lựa chọn CPH”. Theo phụ lục này chỉ có một số doanh nghiệp đặc biệt Nhà nước chưa CPH và một số doanh nghiệp quan trọng Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, còn lại cơ bản các DNNN khác đều chuyển thành Công ty Cổ phần. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nghị định số 44/CP có những điểm mới, thông thoát, với những quy định cụ thể, chặt chẽ sát với thực tế, giải quyết những băn khoăn thắc mắc của nhiều doanh nghiệp khi tiến hành CPH. Chẳng hạn như: - Về đối tượng huy động vốn cổ phần không chỉ bó khung trong công nhân viên chức mà theo hướng mở rộng “ huy động vốn toàn xã hội”. - Về nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp và giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp trước khi tiến hành CPH Bộ tài chính đã có thông tư 104/1998/TT-BTC hướng dẫn cách tính toán cụ thể giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp và xác định lợi thế của doanh nghiệp qua tỷ xuất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi CPH (chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp). - Về chính sách ưu đãi đối với người lao động khi DNNN chuyển sang Công ty Cổ phần được xác định tương đối cụ thể và thoả đáng: mỗi năm làm việc người lao động được mua tối đa 10 cổ phần với mức ưu đãi giảm 30% (tổng giá trị ưu đãi tập thể ngưòi lao động không vượt quá 20% tổng giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Riêng đối với DNNN có vốn tích luỹ trên 40% giá trị doanh nghiệp thì tổng giá trị ưu đãi cho tập thể người lao động không vượt quá 30% và trả dần trong vòng 10 năm không phải chịu lãi... Có thể nói việc giải quyết quyền lợi của người lao động trong DNNN được CPH theo quy định của Nghị định 44/CP là tương đối hợp lý, hợp tình có tác dụng thu hút người lao động tham gia tích cực vào CPH DNNN. 2.Những thành tựu đạt được. Tính đến giữa quý III năm 2000, cả nước đã có 415 DNNN được CPH, một số còn ít so với mục tiêu đặt ra. Theo dự kiến của Chính phủ thì cuối năm 2000 sẽ có khoảng 1.000 DNNN chuyển sang hình thức Công ty Cổ phần. Kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn ở một số doanh nghiệp điển hình trước và sau khi CPH chứng tỏ rằng CPH là một chủ trương đúng. Mục tiêu của chủ trương này huy động thêm vốn, đổi mới phương thức quản lý để tăng hiệu quả kinh tế, tạo động lực cho phát triển, qua đó cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước. Đánh giá về thành công của chủ trương này ta hãy xem xét những mục tiêu đạt được: - Về huy động vốn: theo tính toán của các nhà kinh tế, hiện nay còn một lượng vốn nhà rỗi khoảng 8 tỷ $. CPH chính là biện pháp có hiệu quả để huy động nguồn vốn này cho phát triển kinh tế nếu doanh nghiệp hoạt động sản xuất có hiệu quả. Thống kê 415 DNNN CPH có giá trị phần lớn vốn Nhà nước là 1.649 tỷ đồng qua CPH đã thu thêm được 1.432 tỷ đồng thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vào. Đồng thời thông qua việc bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu lại 814 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và dùng vào việc giải quyết chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH về số tuyệt đối thì đây chưa phải là lớn, nhưng về mặt tỷ lệ thì rất đáng kích lệ. Phần vồn nhà nước tại các doanh nghiệp khi CPH được xác định lại, nhìn chung đều tăng lên từ 10 -15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Như vậy, khi thực hiện CPH, vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH không mất đi mà tăng lên. Tuy nhiên, số lượng 415 DNNN cổ phần mới chỉ chiếm 7% tổng số DNNN hiện có, Số vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH so với tổng số vốn Nhà nước tại các DNNN hiện nay chỉ chiếm 1%. Điều này cho thấy số lượng doanh nghiệp và Nhà nước CPH còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chưa có tác động đáng kể đến việc cơ cấu lại vốn cuả khu vực DNNN. - Về đổi mới phương thức quản lý kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh: Trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần Hội đồng Quản trị và cao hơn là Đại hội Cổ đông điều hành nên hoạt động tài chính của doanh nghiệp thường xuyên được giám sát. Lợi ích của doanh nghiệp được gắn chặt với lợi ích của cổ đông nên người lao động trong doanh nghiệp là những chủ nhân thực sự. Cũng thông qua Đại hội Cổ đông và Hội đồng Quản trị trí tuệ tập thể đã được phát huy, nhờ đó mà phương thức quản lý kinh tế không ngừng được đổi mới cho phù hợp với tình hình biến động của nền kinh tế xã hội. -Về doanh thu : Bình quân các doanh nghiệp đều tăng gấp 2 lần so với trước khi CPH . Điển hình là công ty Cổ phần Cơ điện lạnh đã phát triển vượt bậc trong năm 1999 doanh thu đạt 478 tỷ đồng, gấp 4 lần so với trước khi CPH là 46 tỷ đồng. Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết năm 1999 doanh số là 86 tỷ đồng, tăng gấp 1.5 lần so với trước khi CPH là 55 tỷ đồng. -Về lợi tức cổ phần: bình quân đạt 1-2% tháng. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang phải chịu sức ép lớn của cuộc khủng khoản khu vực thì mức độ lợi tức cổ phần như vậy là cao và được các cổ đông chấp nhận. -Về vốn: tăng lên 2.5 lần so với trước CPH. -Về nộp ngân sách: Tăng bình quân 2 lần so với trước khi CPH. Điển hình là Công ty Cơ điện lạnh TP HCM tăng gấp 3 lần. Một số Công ty Cổ phần khác, do những kho khăn về thị trường nên doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách chưa tăng nhưng nền nếp, kỷ cương trong quản lý đã được thiết lập lại. -Về việc làm và thu nhập cho người lao động. Do phải mở rộng sản xuất kinh doanh bảo đảm sự phát triển nên các doanh nghiệp này đã tạo thêm nhiều việc làm, lao động tăng bình quân 12%, Thu nhập của người lao động tại các công ty cổ phần tăng lên bình quân 20% ( chưa kể cổ tức). Năm 1999 thu nhập của công nhân viên Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển đạt 4 triệu đồng/người/tháng, gấp gần 3 lần so với trước khi CPH . 3. những mặt chưa được và nguyên nhân. - Tuy nhiên theo đánh giá chung thì việc triển khai thực hiện còn chậm và không đồng đều giữa các ngành, các địa phương, các tổ chức Tổng Công ty Nhà nước; kết quả đạt được mặc dù có tính thuyết phục cao nhưng chưa tạo thành sức bật lôi kéo phong trào CPH đi lên. Tình hình trên có thể do nhiều nguyên nhân gây ra song một số nguyên nhân chủ yếu thể hiện trên các vấn đề sau: - CPH DNNN là công việc mới mẻ, phức tạp, vì vậy nghiên cứu các cơ chế chính sách CPH còn chậm chạp. Các văn bản ban hành thiếu đồng bộ, quy trình triển khai phức tạp, còn nhiều mặt chưa hợp lý. Như các văn bản pháp quy về thực hiện chủ trương không chế tỷ lệ mua cổ phần của các cán bộ, quản lý và cá nhân trong lần mua đầu tiên đã làm giảm nhiệt tình và niềm tin của người lao động; thủ tục pháp lý về nhà xưởng, đất đai, xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà, mất nhiều thời gian, đặc niệt là đối với các doanh nghiệp thuộc các Bộ, Tổng Công ty 91. Đồng thời, trong thời gian dài chậm quy định phạm vi DNNN được CPH, chưa đề ra mục tiêu CPH hàng năm để phấn đấu thực hiện. - Chưa có môi trường thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Một số nơi coi công ty cổ phần là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên không được ưu ái như DNNN. Mặt khác, do Luật Công ty trước dây và Luật Doanh nghiệp Nhà nước đều chưa quy định rõ vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đã sở hữu có vốn nhà nước góp, nên mỗi nơi vận theo nhận thức riêng, không thống nhất. - Về nhận thức: Do CPH đụng chạm đến lợi ích cả lợi ích cục bộ của ngành, đơn vị và cả lợi ích cá nhân, thêm nữa là thói quen trì trệ thích yên ổn, ngại thay đổi nên không khí ít Tổng Công ty ngần ngại chỉ đạo triển khai CPH vì e rằng khi một công ty thành viên được CPH tính độc lập sẽ cao hơn, ít lệ thuộc vào Tổng công ty hơn. Cũng có những đơn vị có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN trong phạm vi quản lý nhưng lại không có chương trình kế hoạch cụ thể, việc triển khai mang tính chất đối phó, hình thức. - Ngay cả Ban Chỉ đạo CPH ở Trung ương và địa phương do phải kiêm nhiệm nhiều niệc nên chưa tập trung vào công tác chỉ đạo dẫn đến công việc chậm trễ, kéo dài. - Hơn nữa việc tuyên truyền quán triệt tư tưởng chỉ đạo về CPH còn bị xem nhẹ. Chưa có một chế tài cụ thể đối với việc chấp hành chủ trương CPH. Do đó chưa tạo được sự quan tâm và hưởng ứng tích cực của toàn xã hội đối với chủ trương CPH . - Ngoài các lý do trên còn một nguyên nhân khác. Trước hết tình trạng tài chính nhập nhèm, nợ động dây dưa, nhiều năm không quyết toán được. Giá trị doanh nghiệp cũng là một vấn đề. Hầu hết ở các doanh nghiệp, giá trị được phản ánh trên sổ sách khác xa với giá trị thực của doanh nghiệp. Không ít người đã khai thác triệt để sự không rõ ràng của hệ thống tài chính doanh nghiệp để đưa mua lợi cho bản thân. 4 Quan điểm và biện pháp để xúc tiến cổ phần hoá. Để khắc phục những hạn chế và nguyên nhân gây ảnh hưởng chậm tới quá trình CPH, Chính phủ đã nhấn mạnh công tác CPH và chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN nói chung phải được đặt ở vị trí trung tâm trong lộ trình đổi mới và sắp xếp lại DNNN. Chính phủ đã có những nhắc nhở, phê bình kịp thời trong việc triển khai thực hiện CPH . Tiếp theo Quyết định số 51/2000/QĐ-TTg, ngày 7/7/2000, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/2000/QĐlTTg về giao chỉ tiêu CPH và đa dạng hoá hình thức sở hữu doanh nghiệp năm 2000. Theo Quyết định, này năm 2000 sẽ có 692 DNNN được chuyển hình thức sở hữu. Trong 3 năm từ năm 2000-2002 dự kiến sẽ CPH 1.673 DNNN chiếm 73,7% trong tổng số 2.280 DNNN thuộc diện phải sắp xếp lại trong thời gian này. Số lao động hiện đang làm việc trong các doanh nghiệp dự kiến CPH trong 3 năm 2000-2002 là 311.977 người, bằng 72,7% tổng lao động trong doanh nghiệp thuộc diện phải sắp xếp thời kỳ này và chỉ bằng 1.9% tổng số lao động đang làm việc tại 5.280 DNNN hiện nay. Về quy mô, các doanh nghiệp thuộc diện sắp sếp nói chung cũng như thực hiện CPH, giao, bán, khoán, cho thuê nói riêng đa phần là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Số doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 75% và thuộc những ngành nhà nước không cần nắm giữ. Qua đây, Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan điểm CPH theo định kỳ hướng xã hội là: CPH là sự kết hợp kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân chứ không phải là tư nhân hoá hoàn toàn, hơn nữa Nhà nước vẫn là duy trì hình thức quốc doanh đối với một số doanh nghiệp đặc biệt có vai trò quan trọng. Để đảm bảo mục tiêu đã định, trong thời gian tới chúng ta cần làm tốt một số việc sau đây: - Do trong CPH cũng có tư nhân hoá nên việc bán cổ phần cho các cá nhân là điều tất nhiên, do đó cần qui định tỷ lệ cổ phần bán cho người nước ngoài cho phù hợp để thu hút tối đa nguồn lực cho phát triển kinh tế. - Các cấp các ngành, các DNNN cần quán triết sâu sắc và có nhận thức đầy đủ, đúng đắn chủ trương, chính sách, các giải pháp đổi mới và phát triển các DNNN với tiến trình cụ thể cho từng năm của Chính phủ, từ đó triển khai thực hiện với phương châm tích cực, vững chắc, tạo sự chuyển biến rõ rệt . - Tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, trước hết là trong các DNNN về các chủ trương CPH với những sửa đổi bổ sung về chế độ khuyến khích tạo sự quan tâm của toàn xã hội với chủ trương quan trọng. - Giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm cho ngưòi lao động, tích cực giải quyết các khoản nợ của doanh nghiệp, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công chương trình CPH . - Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, ban hành với các Nghị định về CPH để phù hợp với yêu cầu và những vấn đề đặt ra trong CPH : từ đối tượng, chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động, đồng thời xem xét mối quan hệ giữa các cấp công nhân với nông dân, đảm bảo sự công bằng cho xã hội, có chính sách hỗ trợ những ngưòi có thu nhập thấp, giảm bớt nhũng người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp trong doanh nghiệp. - Chính phủ giao nhiệm vụ và phân cấp mạnh cho các bộ, ngành Trung ương và UBND tỉnh, thành phố xử lý các vấn đề cụt hể nẩy sinh, giải quyết nhanh các yêu cầu không cần phải chờ đợi kéo dài. - Các ngành, các địa phương cần tiến hành phân loại sắp xếp DNNN do mình quyết định thành lập, phân loại thành : +Trước mắt là một số ít các doanh nghiệp Nhà nước cần giữ 100% vốn Nhà nước hoặc có cổ phần chi phố mà các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng đầu tư vốn. +Các doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng làm ăn thua lỗ triền miên thì cho thuê, sát nhập, bán, giao không cho công nhân sử dụng hoặc phá sản. + Các doanh nghiệp còn lại không phụ thuộc qui mô, ngành nghề đều thuộc diện CPH với bước đi thích hợp. - Các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố lập Ban Chỉ đạo CPH cần khẩn trương thành lập ngay thư các văn bản hướng dẫn của Trung ương. Riêng một số Bộ và các thành phố lớn có thành lập Ban Chỉ đạo CPH hoạt động theo chế độ chuyên trách để giúp UBND thành phố và các Bộ giải quyết các công việc về CPH . Hoàn thiện hệ thống Luất doanh nghiệp và các Luật khác có liên quan. Cần quán triệt các tư tưởng mới của Luật doanh nghiệp đến các cơ quan chức năng.Bởi vì các DNNN sau khi được chuyển đổi sẽ được điều chỉnh theo luật này, thế nhưng không ít các cơ quan chức năng vẫn cong sử dụng những qui định cũ đã lỗi thời để gây khó khăn cho cac hoạt động của doanh nghiệp. -Tiếp tục đẩy nhanh qúa trình CNH, HĐH, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, trình độ dân trí làm cơ sở cho CPH đi lên. Trên đây là một số việc cần thiết để chúng ta đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả của CPH góp phần xây dựng một nên kinh tế phát triển, đứng vững trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, tránh xa nguy cơ tụt hậu, đảm bảo mục tiêu phát triển nhanh, bền vững. Chương III- Trình bày một doanh nghiệp. Thực hiện Nghị đínhố 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của chính phủ về chuyển DNNN thành Công ty Cổ phần. Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương hướng dẫn quy trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty Cổ phần. Hưởng ứng nghị định này doanh nghiệp Kính mắt Tràng Tiền đã chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty Cổ phần gồm các bước sau: Bước 1: Chuẩn bị cổ phần hoá. Các thành phần ban đổi mới của doanh nghiệp gồm Ban Gáim đốc làm trưởng ban, kế toán trưởng làm uỷ viên thường trực, các trưởng phòng, ban kế hoạch, sản xuất kinh doanh, tổ chức cán bộ, kỹ thuật làm uỷ viên và mời đồng chí bí thư Đảng uỷ (hoặc chi bộ) chủ tịch công đoàn tham gia làm uỷ viên ban đổi mới quản lý tại đơn vị mình. Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp có trách nhiệm tuyên truyền giải thích cho người lao động trong doanh nghiệp mình những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để tổ chức thực hiện. Ban quản lý tại doanh nghiệp: chuẩn bị tài liệu về: + Hồ sơ pháp lý khi thành lập doanh nghiệp. + Tình hình công nợ, tài sản, nhà xưởng, vật kiến trúc đang quản lý. + Vật tư hàng hoá ứ đọng, kém, mất phẩm chất và đề ra hướng giải quyết. Bước 2: 1. Xây dựng phương án cổ phần hoá . Doanh nghiệp đã kiểm kê tài sản, vật tư, tienè vốn công nợ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đã phân loại tài sản gồm: - Tài sản đang dùng - Tài sanr không cần dùng - Tài sản xin thanh lý - Tài sản được hình thành từ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp. 2. Doanh nghiệp tiến hành quyết định giá trị của doanh nghiệp. Bước 3: Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án cổ phần hoá. Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp mở sổ đăng ký mua cổ phần của các cổ đông. Đăng ký mua cổ phiếu tại kho bạch Nhà nước. Chương IV Một số quan điểm và giải pháp thúc đẩy CPH DNNN trong thời gian tới Những quan điểm cơ bản cần quán triệt: 1.1 Dưới góc độ KTTT, CPH không phải là tư nhân hoá: Về vấn đề nay, sự phân tích về tính chất xã hội hóa của hình thái cổ phần so với các hình thái công ty khác ở phần trên đã xem xét rõ. Vấn đề cần xem xét ở đây là liệu rằng ciệc chuyển một phần các DNNN có làm cho tính chất XHCN của nề kinh tế có bị suy yếu đi hay không. Trong vấn đề này ít nhất có một điều đã rõ là, không phải tỷ lệ kinh tế thuộcDNQD càng lớn về mặt lượng thì tính chất xã hội hoá càng cao. Đây là một sự nhầm lẫn về nhận thức đã được thực tiễn lịch sử kiểm chứng và xác nhận. Thách thức về mặt lý luận là ở chỗ, CPH một bộ phận DNNN sẽ có tác động, ảnh hưởng gì đến tính chất XHCN. Câu trả lời ở đây sẽ tuỳ thuộc vào cách tiếp cận để giải quyết vấn đề. + Theo quan điểm truyền thống của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, DNQD được coi là hình thức mang tính chất xã hội hoá trực tiếp và cao nhất, DNQD đã trở thành hình thái độc quyền biểu thị tính chất xã hội hoá của sản xuất, hoàn toàn là CNXH. Chính cách biểu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35242.doc
Tài liệu liên quan