MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung . 1
I. Những nội dung cơ bản về CPH doanh nghiệp nhà nước . 1
1. Khái niệm CPH, đặc điểm của công ty cổ phần và tình hình các DNNN
trước CPH . 1
2. Sự cần thiết CPH doanh nghiệp nhà nước. 2
a. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước và tình hình hoạt động hiện nay của
doanh nghiệp nhà nước . 2
b. Mục tiêu CPH . 5
II. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về CPHDNNN . 5
1. Đối tượng doanh nghiệp được cổ phần . 5
2. Những hình thức CPH . 6
3. Quy trình CPH . 7
4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định danh sách DNNN để CPH thành công
ty cổ phần . 8
5. Những ưu đãi m à doanh nghiệp được hưởng sau CPH . 9
6. Đối tượng mua cổ phiếu và cơ quan quản lý việc phát hành cổ phiếu của
các doanh nghiệp CPH . 9
III. Thực trạng CPHDNNN ở Việt Nam hiện nay và một số biện pháp thúc
đẩy quá trình CPH - ví dụ cụ thể mà sinh viên biết . 10
1. Thực trạng CPHDNNN ở Việt Nam hiện nay . 10
2. Giải pháp thúc đẩy tiến trình CPHDNNN . 13
3. Ví dụ cụ thể mà sinh viên biết . 15
C. Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
22 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1772 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay và một số biện pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế mà nói để giữ được vai
4
trò chủ đạo, Doanh nghiệp Nhà nước phải hoạt động có hiệu quả góp nhằm
tăng ngân sách Nhà nước hoặc giảm tối đa phần bù lỗ đối với doanh nghiệp
hoạt động công ích.
Nhờ vậy, xuất phát từ yêu cầu khách quan, Doanh nghiệp Nhà nước sẽ
không được phát triển tràn lan ở tất cả mọi ngành nghề, lĩnh vực song nó vẫn
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, chúng vẫn phải tồn tại ở những lĩnh vực
quan trọng nhằm thực hiện chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô, nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần của chúng ta sẽ không phát triển mạnh mẽ nếu không có
mặt khu vực kinh tế Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được hình thành từ những năm 1954 ở
miền Bắc và năm 1975 ở niềm Nam, với xuất phát điểm còn thấp vì điều kiện
kinh tế chung của cả nước. Trong điều kiện ấy, Doanh nghiệp Nhà nước đã
tồn tại với một quy mô phần lớn là nhỏ bé, trình độ kỹ thuật lạc hậu bên cạnh
đó còn có sự phân bố bất hợp lý giữa các ngành các vùng…
Con số báo lỗ khổng lồ hàng năm của các Doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh và thường xuyên dẫn đến bộ chi ngân sách.
Chỉ tính trong giai đoạn 1985 - 1990 tỷ lệ thâm hụt ngân sách thường xuyên ở
trên 30%.
Nói tóm lại, so với Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh hiện nay thì Doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động chính chưa có hiệu quả. Nhờ vậy, tại sao chúng ta
không nghĩ đến một giải pháp? để cho Doanh nghiệp Nhà nước mới thực sự
còn lại giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Và đây chính là yêu cầu cơ bản
mà Đảng Nhà nước ta cần đẩy mạnh chủ trương việc CPH. Cái mà chúng ta
quan tâm ở đây là giải pháp về số lượng nhưng t ăng chất lượng và hoạt động
phải có hiêụ quả, với một số ít doanh nghiệp, khả năng đầu tư đổi mới trang
thiết bị công nghệ là điều có thể. Bên cạnh đó, dưới sức ép của nền kinh tế thị
trường, các Doanh nghiệp Nhà nước còn lại sẽ nhận thức được rõ hơn vai trò
thực sự của mình để có một hướng đi đúng đắn.
5
Thật vậy, CPH Doanh nghiệp Nhà nước đó là một việc làm mang tính
phổ biến cao, nó được áp dụng hầu hết ở các quốc gia trên toàn cầu. Ở Việt
Nam, Chính phủ đã chủ trương cơ cấu lại nền kinh tế, cải cách khu vực kinh
tế Nhà nước nhằm thu hẹp sở hữu Nhà nước, phát triển kinh tế nhiều thành
phần với sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp.
CPH là một biện pháp không thể bỏ qua. Đó là một nội dung quan trọng
của công cuộc đổi mới và cũng là đòi hỏi khách quan để chuyển sang nền
kinh tế thị trường dựa trên các động lực của thị trường và vai trò định hướng
của Nhà nước. Và hình thái kinh doanh thích hợp với nền kinh tế thị trường
đó là: Công ty cổ phần.
b. Mục tiêu CPH.
Tại điều 2 NĐ44 quy định "chuyển DNNN thành Công ty cổ phần
nhằm các mục tiêu sau:
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế
tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo
thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ
cấu DNNN.
- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương pháp quản lý
tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà
nước, nâng cao thu nhập người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất
nước.
II. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về CPHDNNN
1. Đối tượng doanh nghiệp được cổ phần.
Theo nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của chính phủ đã quy định tiêu
chuẩn để chọn 1 số DNNN để CPH.
- Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
- Những doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi hoặc trước mắt tuy có
gặp khó khăn nhưng triển vọng sẽ hoạt động tốt.
6
- Không thuộc diện các DNNN cần thiết phải gữi 100% vốn đầu tư của
Nhà nước.
Căn cứ luật DNNN đã được quốc hội khoá IX, kì họp thứ VII thông qua
ngày 20 tháng 4 năm 1995 để phân loại doanh nghiệp thì có thể phân ra.
Loại 1: Những DNNN trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng, sản xuất
sản phẩm, cung ứng dịch vụ Nhà nước độc quyền kinh doanh (ngân hàng, vật
liệu nổ, chất phóng xa, điện, xăng dầu, viễn thông, đường sắt, bảo hiểm) một
số doanh nghiệp công ích phục vụ đời sống sản xuất (nước máy phục vụ sinh
hoạt, vệ sinh môi trường. Những doanh nghiệp này không CPH.
Loại 2: Những DNNN trong 1 số ngành then chốt có tác dụng điều phối
kinh tế hoặc chi phối thị trường (xi măng, phân bón,một số lĩnh vực thương
mại, xuất nhập khẩu đặc biệt … trước mắt chưa CPHDN này, hoặc nếu có thì
chỉ CPH một số bộ phận nhỏ phân xưởng sản xuất, một số Công ty nhỏ mang
tính hỗ trợ). Khi CPH nhất thiết NN phải nắm gữi trên 50% tổng số vốn.
Loại 3: Một số DNNN trong lĩnh vực phục vụ công cộng, có quy mô
vừa hoặc nhỏ (sản xuất hàng tiêu dùng, khách sạn, du lịch, các xí nghiệp sản
xuất rượu, bia, thuốc lá, vận tải đường bộ, đường sông…) Những doanh
nghiệp này có thể CPH, nhưng NN vẫn giữ tỷ lệ cổ phần chi phối (trên 30%).
Loại 4: Những doanh nghiệp khác, không có ý nghĩa về quốc tế dân
sinh, không có vai trò chi phí thị trường (may mặc, sản xuất vật liệu xây
dựng, vận tải nhỏ, các cửa hàng thương nghiệp…) cần tiến hành CPH các
doanh nghiệp này và nhà nước có thể không hoặc giữ 1 tỷ lệ cổ phiếu nhỏ
theo quy định hiện nay dưới 10%.
2. Những hình thức CPH.
Theo điều 7NĐ44 CPH được tiến hành theo 4 hình thức sau:
a. Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu theo
quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
b. Bán 1 phần giá trị hiện có của doanh nghiệp.
c. Tính 1 bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện CPH.
7
d. Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn NN tại doanh nghiệp đó chuyển
thành Công ty cổ phần.
Ở hình thức 1 là hình thức hoàn toàn mới được quy định trong NĐ 44,
hình thức này áp dụng cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh các ngành
nghề thông thường, NN không nắm gữi cổ phần, quy định này thể hiện rõ
quyết tâm thực hiện CPH và mở rộng tiền trình CPH trong giai đoạn hiện nay.
Nhà nước sẽ không trực tiếp can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp,
quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp sẽ hoàn toàn do doanh nghiệp quyết
định.
3. Quy trình CPH
Để thực hiện nhiệm vụ của mình, ban đổi mới doanh nghiệp TW đã ra
công văn 3395/VPCP - DMDN ngày 29/8/98 về việc dẫn quy trình và phương
án mẫu CPH. Theo tinh thần của văn bản này thì quy trình CPH doanh nghiệp
Nhà nước được thực hiện theo 4 bước cơ bản sau đây:
a. Chuẩn bị CPH.
b. Xây dựng phương án CPH.
c. Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án CPH.
d. Ra mắt Công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh.
Các bước giải quyết quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước
CPH được quy định khá rõ ràng trong NĐ 44 đó là:
Đối tượng mua cổ phần và quyền mua cổ phần lần đầu, theo quy định
tại điều 3 NĐ 44 thì đối tượng mua cổ phần ở các doanh nghiệp nhà nước
cổphần hoá bao gồm.
* Các tổ chức kinh tế,
* Các tổ chức xã hội.
* Công dân Việt Nam
* Người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư ở
Việt Nam.
8
Việc bán cổ phần cho người nước ngoài được quy định trong hai quyết
định của TT - CP đó là: QĐ 139/1999 (ngày 10/6/99) về tỉ lệ tham gia của bên
nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam và QĐ 145/1999 (QĐ -
TTg ngày 28/6/99 về quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài).
Và những quy định: quyền mua cổ phần lần đầu khi doanh nghiệp nhà
nước chuyển thành Công ty cổ phần (đây là điểm mới được quy định tại nghị
định 44).
Ưu đãi của nhà nước với doanh nghiệp CPH và người lao động trong
doanh nghiệp CPH. Bên cạnh đó là các vấn đề: Xác định giá trị doanh nghiệp,
những nguyên tắc xác định doanh nghiệp…
Như vậy, địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước sau khi CPH sẽ
khác, nó hoạt động theo luật doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp nhà nước
CPH theo đúng nghĩa của nó là đã thực hiện đúng quy trình cổ phần theo luật
định.
Theo quy định tại Đ 19, vậy sau "khi chủ thể mới" đăng ký kinh doanh
tại sở kế hoạch đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc TW nơi doanh nghiệp đóng
trụ sở chính là được sở kế hoạch đầu tư cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho Công ty cổ phần.
4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định danh sách DNNN để CPH
thành công ty cổ phần.
Căn cứ vào điều kiện quy định tại Điều và Nghị định 28/CP ngày 7/5/96
các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thứ trưởng cơ quan thuộc Chính
phủ, Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi
nhất trí với ban cán sự Đảng hoặc tỉnh uỷ (thành uỷ) quyết định danh sách
một số doanh nghiệp Nhà nước để CPH.
- Đối với những doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng, Bộ
trưởng các bộ, Chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp tỉnh xây dựng phương án
CPH gửi về Ban chỉ đạo Trung ương để trình Thủ tướng Chính phủ để phê
9
duyệt cho phép thực hiện dưới sự tham gia chỉ đạo trực tiếp của Ban chỉ đạo
trung ương CPH.
- Đối với những doanh nghiệp có vốn Nhà nước từ 10 tỷ đồng trở
xuống, Bộ trưởng và Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, (thành phố) trực thuộc
trung ương tổ chức thực hiện CPH trên cơ sở Nghị định 28/CP và hướng dẫn
kiểm tra của các Bộ có liên quan, dưới sự hướng dẫn, theo dõi, giám đốc của
ban chỉ đạo Trung ương CPH.
- Đối với việc CPH doanh nghiệp thành viên Tổng Công ty Nhà nước
do thủ tướng chính phủ quyết định thành lập, Hội đồng quản trị xây dựng
phương án CPH gửi về ban chỉ đạo Trung ương CPH để thực hiện dưới sự
tham gia trực tiếp của Ban chỉ đạo trung ương CPH.
5. Những ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng sau khi CPH.
Được giảm thuế lợi tức 50% trong 2 năm liên tiếp sau khi chuyển sang
hoạt động theo luật Công ty.
Được sử dụng quỹ khen thưởng - phúc lợi chia cho cán bộ công nhân
viên mua cổ phiếu.
Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc
quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp Nhà nước CPH thành sở hữu của
Công ty cổ phần.
Được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại của Nhà nước theo cưo
chế và lãi suất áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá theo chế độ quy định của Nhà
nước.
Các khoản chi phí hợp lý và cần thiết cho quá trình CPH được vào giá
trị doanh nghiệp do Bộ tài chính quy định.
6. Đối tượng mua cổ phiếu và cơ quan quản lý việc phát hành cổ
phiếu của các doanh nghiệp CPH.
Những người sau đây có quyền mua cổ phiếu của doanh nghiệp CPH.
- Các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân
10
- Các tổ chức xã hội được pháp luật công nhận.
- Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên.
- Việc bán cổ phiếu cho các tổ chức cá nhân nước ngoài theo quy định
riêng của chính phủ.
Cổ phiếu được bán công khai tại doanh nghiệp CPH bán thông qua các
ngân hàng thương mại và các Công ty tài chính được chỉ định. Số tiền thu
được từ bán cổ phiếu chỉ được sử dụng để đầu tư phát triển doanh nghiệp nhà
nước.
Quyền sở hữu và mọi quyền lợi hợp pháp của người mua cổ phiếu được
Nhà nước bảo vệ theo quy định tại điều 6 và điều 175 của Bộ luật dân sự và
theo các quy định khác của pháp luật hiện hành.
Trật tự ưu tiên về bán cổ phiếu như sau:
- Thứ nhất là bán cho công nhân viên chức đang làm việc tại doanh
nghiệp, một số công nhân viên chức có hoàn cảnh khó khăn được ưu tiên trả
chậm tiền mua cổ phiếu không qúa 12 tháng. Danh sách công nhân viên chức
này do Công đoàn xét chọn và công bố công khai.
- Thứ hai là các tổ chức kinh tế xã hội trong nước, đặc biệt là các đơn
vị kinh tế như ngân hàng, Công ty bảo hiểm, Công ty tài chính.
Thứ ba là các cá nhân trong nước.
Cơ quan quản lý việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp CPH:
Bộ tài chính thống nhất quản lý việc phát hành cổ phiếu ở các doanh nghiệp
CPH. Đình chỉ việc phát hành cổ phiếu khi Công ty cổ phần vi phạm các quy
định hiện hành.
III. THỰC TRẠNG CPHDNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ BIỆN
PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CPH- VÍ DỤ CỤ THỂ MÀ SINH VIÊN BIẾT
1. Thực trạng CPHDNNN ở Việt Nam hiện nay.
Ở nước ta, vấn đề CPHDNNN được đặt ra từ năm 1991, xuất phát từ
tình hình thực tế củ nền kinh tế Việt Nam, trong đó khu vực kinh tế nhà nước
11
đóng vai trò chính. Xong tuy nhiên CPHDNNN diễn ra với tốc độ chậm, do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra.
Mặc dù CPHDNNN là 1 chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước
nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và phù hợp với
quá trình đổi mới và mở cửa, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước nhưng hiệu quả kinh doanh vânc còn thấp. Với khoảng 5.740
DNNN, nắm giữ 58% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, chỉ
có 50% DNNN làm ăn có lãi trong đó thực sự làm ăn có lãi chỉ chiếm gần
30%.
Trên danh nghĩa DNNN đóng góp tới 70 - 80% tổng doanh thu ngân
sách Nhà nước, xong nếu khấu trừ tài sản cố định và thuế tgián thu thì DNNN
chỉ còn đóng góp khoảng 30% tổng doanh thu ngân sách Nhà nước, đấy là
chưa kể nếu khấu trừ chi phí về TSCĐ, đất đai theo giá thị trường thì DNNN
hoàn toàn không tạo ra được tích luỹ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này là TSCĐ, đặc biệt là máy móc thiết bị quá cũ, lạc hậu về kỹ
thuật. Hiện có đến 54% DNNN trung ương và 74 DNNN địa phương còn sản
xuất bằng công nghệ thủ công. Quy mô DNNN còn nhỏ, vốn ít. Thực tế vốn
hoạt động chỉ có 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại là công
nợ khó đòi, tài sản, vật tư, hàng hoá mất mát, kém phẩm chất và thua lỗ chưa
được xử lý. Ngân sách nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp cho
các DNNN như trước đây. Ngân hàng cho vay cũng đòi hỏi doanh nghiệp
phải có những điều kiện bảo đảm như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh
để tính khả năng thu hồi vốn. Các DNNN ở trong các vòng luẩn quẩn, vốn
thiếu nhưng không có cách nào để huy động. Với tình hình kỹ thuật và tài
chính như trên, DNNN hầu như không có khả năng đổi mới công nghệ nhằm
nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra từ sau khi đổi mới kinh tế
chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới đã kéo theo hàng loạt
những biến đổi tích cực trong đất nước và đem lại những kết quả ban đầu.
12
Nhờ đa dạng hoá các hình thức sở hữu và thiết lập 1 cơ cấu kinh tế hỗn hợp
bao gồm các thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, cứ thế kinh tế tư
bản tư nhân năng lực sản xuất đã được giải phóng song nhu cầu xây dựng và
phát triển đất nước đòi hỏi ngày càng nhiều vốn nhất là trung và dài hạn.
Nhưng số vốn tồn đọng của các ngân hàng thương mại đã là lên tới hàng ngàn
tỉ đồng trong khi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp là rất lớn. Các ngân hàng
muốn giảm số vốn dư bằng cách giảm lãi suất huy động nhưng không thể làm
giảm nhu cầu đầu tư để sinh lợi nguồn vốn của người dân. Vì chưa có thị
trường chứng khoán và chưa có chính sách về CPHDNNN, người dân đành
đầu tư trực tiếp dưới mọi hình thức như mở cửa hàng, xây dựng khách sạn,
văn phòng cho thuê… tạo ra một thời kì kinh tế phong trào mới. Năm 2000,
kế hoạch mà bộ tài chính đã đặt ra để có thể thực hiện được các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội trong năm là trên 120 nghìn tỉ đồng thì khoảng gần 90%
số vốn đầu tư nói trên là của NN. Phần còn lại lấy ở phần đầu của mọi thành
phần kinh tế, các tổ chức xã hội và dân cư. Nếu không có những biện pháp
khơi thông mạnh mẽ (trong đó có việc đẩy nhanh sự phát triển của thị trường
chứng khoán tại Việt Nam) thì việc thu hút số vốn còn lại sẽ rất khó được như
mong muốn.
Hiện nay, việc CPH DNNN được coi là một giải pháp lớn để khắc phục
các khó khăn nói trên, nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn cho
DNNN đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ và sản phẩm, nâng cao sức cạnh
tranh của DN trên thị trường.
Tính đến hết năm 2002 cả nước đã có hơn 120 DNNN thực hiện CPH.
Báo cáo hoạt động của 50 DN đã CPH trên 1 năm cho thấy hầu hết đều biến
chuyển tích cực. Doanh thu bình quân hàng năm tăng trên 25% số lượng lao
động bình quân hàng năm tăng 10%, thu nhập người lao động bình quân hàng
năm tăng trên 25%. Các khoản nộp ngân sách tăng bình quân trên 30% năm.
Vốn điều lệ (bao gồm tích luỹ từ lợi nhuận phát hành cổ phiếu) tăng bình
quân 25% năm lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân 2,5%./tháng.
13
Xong nếu xét về góc độ là hàng hoá cung cấp cho thị trường giao dịch
chứng khoán thì số lượng các DNCPH có thể đủ tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu
chưa nhiều, do hầu hết các DNCPH là các DN nhỏ, vốn điều lệ thấp (xấp xỉ 6
tỷ/doanh nghiệp).
Mặc dù số lượng các DNCPH trong những năm gần đầy tăng lên nhanh
chóng nhưng so với mục tiêu đề ra so với lượng DNNN không thuộc diện NN
nắm giữ 100% vốn thì tiến trình CPH vẫn còn quá chậm. Điều này chủ yếu do
các nguyên nhân sau.
+ Do cơ chế chính sách CPH chậm được ban hành và thiếu đồng bộ,
thiếu tính cụ thể, quy trình xác định giá trị doanh nghiệp còn quá nhiều phức
tạp, nhiều mặt chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
+ Trước yêu cầu đổi mới, các doanh nghiệp còn nhiều bối rối lúng túng.
+ Một số cán bộ, địa phương, Tổng Công ty Nhà nước chưa nhận thức
đầy đủ ý nghĩa chru trương CPH của Nhà nước. Do đó thiếu chủ động và
chưa kiên quyết tổ chức triển khai.
+ Do công tác tuyên truyền giáo dục và CPH từ trong bộ máy NN từ
trung ương xuống địa phương chưa được đẩy mạnh và chưa được triển khai
hiệu quả từ đó dẫn tới việc coi nhẹ và chưa nhìn nhận hết vai trò của CPH.
+ Do môi trường kinh tế chưa thực sự bình đẳng, chưa tạo được mặt
bằng thống nhất và cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh
tranh phát triển, cơ chế tài chính cho các doanh nghiệp quốc doanh chưa có,
Công ty cổ phần chưa có.
+ Việc thực hiện các quy định công khai tài chính của các doanh nghiệp
chưa có nề nếp thường xuyên. Các thông tin về tài chính về CPH chỉ được
phổ biến trong nội bộ doanh nghiệp và cơ quan liên quan, chưa được phổ biến
rộng rãi ra bên ngoài.
+ Các chế độ chính sách ưu đãi, khuyến khích chưa thực sự là động lực
thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia CPH. Nhiều doanh nghiệp còn tỏ ra e dè
14
với chủ trương này của Đảng và Nhà nước, chưa có sự nhận thức đầy đủ và tỏ
ra chưa sẵn sàng để thực hiện công tác CPH.
2. Giải pháp thúc đẩy tiến tình CPHDNNN.
Tiến trình CPH doanh nghiệp nhà nước của chúng ta hiện này còn hết
sức chậm chạp. Để có thể thực hiện tốt chỉ tiêu đặt ra đến năm 2005: đa dạng
hoá sở hữu, CPH từ 40% - 70% và tiến đến 100% số DNNN không cần duy
trì 100% sở hữu nhà nước và thực hiện mục tiêu tổng quan; DNCPH đạt mức
tăng doanh thu lợi nhuận, nộp ngân sách Nhà nước tăng hơn năm trước. Như
doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu đạt tiêu chuẩn AFTA vào năm 2003 thì
chúng ta phải đẩy nhanh hơn nữa hoạt động CPH trong thực tế.
Tôi xin nêu ra đây một số giải pháp nhằm thúc đẩy CPH doanh nghiệp
nhà nước:
- Nhà nước cần ban hành hệ thống các văn bản pháp luật đồng bộ và
hoàn chỉnh, mà trước tiên là các văn bản điều chỉnh về hoạt động CPH cũng
như các vấn đề có liên quan, nhằm tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc hướng dẫn
thực hiện CPH. Đặc biệt cơ chế chính sách của nhà nước phải được thể hiện
một cách rõ ràng, tránh mâu thuẫn chồng chéo…
- Tăng cường tuyên truyền phổ biến các kiến thức cơ bản và lợi ích của
việc CPH doanh nghiệp nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng,
công bố công khai kết quả thực hiện CPH và hoạt động của các Công ty cổ
phần sau khi nhà nước đực CPH chuyển thành để quảng đại quần chúng nhân
dân nắm bắt và mạnh dạn đầu tư.
- Bên cạnh việc động khuyến khích đã thông tư tưởng cho các doanh
nghiệp nhà nước trong diện CPH, cần phải có biện pháp xử lý kiên quyết các
trường hợp lãnh đạo ở các doanh nghiệp nhà nước đã đủ điều kiện và nằm
trong kế hoạch thực hiện CPH mà không nghiêm túc thực hiện, cản trở tiến
trình chung của hoạt động phần hoá. Với qui định ấy, ý thức trách nhiệm của
mỗi cán bộ lãnh đạo sẽ được nâng cao. Tâm lý chờ đợi hay sức ý sẽ không
còn chỗ đứng.
15
- Cần đào tạo và bồi dưỡng để có một đội ngũ cán bộ chuyên môn cao
về CPH. Bởi lẽ hoạt động kinh doanh đòi hỏi nhà kinh doanh phải có hai tố
chất: tính khoa học và nghệ thuật quản trị, để có thể điều hành hoạt động kinh
doanh một cách khoa học, nhạy bén, linh hoạt. Muốn kinh tế phát triển năng
động hiệu quả thì trước hết nhân tố con người phải được coi trọng. Xây dựng
một đội ngũ cán bộ có khả năng điều hành nền kinh tế, và một đội ngũ các
nhà kinh doanh nhất là với Công ty cổ phần mới hình thành là điều rất cần
thiết.
- Sớm có cơ chế xử lý nợ trong các doanh nghiệp nhà nước thực hiện
CPH và đặc biệt là các khoản nợ của doanh nghiệp đối với ngân sách nhà
nước, cơ ngân hàng. Giải quyết được vấn đề này sẽ góp phần đáng kể trong
việc thúc đẩy tiến trình CPH. Đối với những đơn vị có khoản nợ nhưng số nợ
nhỏ thì nhà nước nên xoá nợ, đối với những đơn vị có khoản nợ lớn thì nhà
nước nên chuyển khoản nợ này thành vốn góp của nhà nước vào Công ty cổ
phần dưới dạng CPH nhà nước.
- Cần thúc đẩy việc thành lập qũy hỗ trợ CPH để có thể hỗ trợ kịp thời
cho các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá với tiến trình nhanh
hơn, ví dụ: trường hợp doanh nghiệp không bán hết số cổ phiếu theo dự kiến,
quỹ sẽ ứng tiền trước cho doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể tiến hành đại
hội cổ đông c huyển sang hoạt động theo luật công ty. Quỹ cũng được sử
dụng để giúp người lao động trong doanh nghiệp nhà nước CPH có khả năng
mua cổ phiếu theo giá ưu đãi, để trợ cấp cho người lao động bị mất việc
làm…
3. Ví dụ cụ thể mà sinh viên biết
Công ty dệt 10 - 10 thuộc Sở Công nghiệp thành phố Hà Nội. Thành lập
1974, đầu năm 2000 Công ty chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty cổ
phần. Chuyển sang cơ chế quản lý mới, Công ty gặp không ít khó khăn về
vốn: tổng số vốn điều lệ 8 tỷ đồng, trong đó nhà nước giữ 30% còn lại 70%
16
của 440 cổ đông là CBCNV. Rồi còn nhà xưởng, trang thiết bị đều cũ nát, lạc
hậu… khó khăn chất chồng.
Sau khi chuyển sang CPH, Công ty từng bước sắp xếp lại sản xuất cho
phù hợp với tình hình mới. Cân đối sản xuất thường xuyên, xử lý, cắt, may và
mua trọn gói cho một phần các đơn thầu! Công ty quyết định đầu tư thêm
thiết bị như máy mắc sợi, máy văng sấy và công nghệ tẩm của Đức, Hàn
Quốc để đáp ứng yêu cầu thị trường. Sản phẩm chính của Công ty là vải tuyn,
vải lưới, rèn cửa, màn tuyn các loại được người tiêu dùng liên tục bình chọn
là hàng Việt Nam chất lượng cao, đạt 10 huy chương vàng tại hội chợ Quốc tế
hàng công nghiệp Việt Nam.
Hàng năm Công ty mở khoá đào tạo công nhân học nghề và bố trí việc
làm tại Công ty. Cụ thể năm 2002 thu hút 52 lao động, năm 2003 tiếp tục thu
hút thêm 100 lao động vào làm việc. Đơn vị không ngừng nâng cao và phát
triển năng lực sản xuất kinh doanh. Các bộ phận nghiệp vụ phấn đấu thực
hiện cung ứng vật tư, kịp thời đầy đủ phục vụ tốt cho sản xuất, mở rộng thị
trường và đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu ngày càng khắt khe.
Năm đầu tiêu CPH Công ty đã đạt được những chỉ tiêu cơ bản khả
quan; doanh thu thực hiện 39 tỷ đồng, tăng 12% so với năm trước, kim ngạch
xuất khẩu đạt 1,25 triệu USD tăng 50% nộp ngân sách đầy đủ. Trong 3 năm
đầu CPH, Công ty đã đầu tư 10 tỷ đồng (bằng nguồn vốn tự có và vay ngân
hàng) mua thêm trang thiết bị nhằm nâng công suất sản phẩm màn chống
muỗi xuất khẩu sang thị trường Châu Phi. Ước tính 9 tháng đầu năm 2003,
Công ty đạt doanh thu xuất khẩu 840.000 USD (tăng 190% so với cùng kỳ
năm. Nờ đầu tư thiết bị, cải tiến kỹ thuật sản phẩm, tạo được uy tín đối với
bạn hàng trong nước và quốc tế, năm 2002 Công ty đã được BVQI và UKAS
Vương quốc Anh cấp chứng chỉ ISO 900 - 2000 năm 2001.
Mặc dù nguồn vốn có hạn song công tác tài chính vẫn có nhiều cố gắng
để bảo toàn và phát triển vốn sản xuất kinh doanh có hiệu quả Công ty đã huy
động vốn sản xuất kinh doanh bằng cách nhằm gửi tiết kiệm của CBCNV.
17
Đây là biện pháp mới linh hoạt giúp Công tý có thêm vốn quay vòng, thanh
toán kịp thời các khoản nộp ngân sách. Đời sống CBCNV được cải thiện từ
mức thu nhập 1.080 triệu đồng/người/tháng (năm 2000) nay đạt 1,5 triệu
đồng/người/tháng.
Năm 2003 này, Công ty đã đưa công suất sản phẩm màn chống muối
lene gấp đôi để cung cấp cho chương trình chống sốt rét thế giới, từ 150.000
màn/tháng lên 300.000 màn/tháng, kim ngạch xuất khẩu đạt 5 triệu USD và
đến năm 2005 đạt 10 triệu USD. Sắp tới, Công ty sẽ đầu tư gần 4 triệu USD
đổi mới thiết bị, công nghệ đưa năng suất kinh doanh lên gấp 2 lần hiện tại.
18
C- PHẦN KẾT LUẬN
Chúng ta đang bắt đầu một thiên niên kỉ mới, một thiên niên hội nhập
và tăng trưởng kinh tế. Việc tiến hành CPH của các DNNN là một chủ trương
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của
DNNN để DNNN tiếp tục góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Bằng những phương thức khác nhau, CPH đã góp phần thực hiện đa
dạng hoá hình thức sở hữu trong doanh nghiệp, chuyển hình thức hoạt động
phù hợp hơn cho từng doanh nghiệp, điểm hiện nay chương trình CPH đã thu
được những kết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích quá trình CPH DNNN ở Việt Nam Trình bày tình hình CPH một doanh nghiệp Nhà nước mà sinh viên biết.pdf