Mục lục
I. Tổng quan về công tác kế toán 4
1. Khái niệm, lịch sử ra đời kế toán trong doanh nghiệp: 4
1.1. Khái niệm: 4
1.2. Lịch sử ra đời và hình thành của kế toán: 4
2. Chức năng của hệ thống kế toán 5
3. Phân loại 5
3.1. Kế toán trong doanh nghiệp có thể được phân chia theo nhiều cách : 5
3.2. Kế toán tài chính và kế toán quản trị : 6
4. Vai trò của công tác kế toán trong doanh nghiệp 8
4.1. Đối với doanh nghiệp: 8
4.2. Đối với Nhà nước: 9
5. Đối tượng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế toán trong doanh nghiệp 9
5.1. Đối tượng kế toán 9
5.2. Nhiệm vụ kế toán 10
6. Tổ chức công tác kế toán: 10
6.1. Tổ chức vận dụng các chính sách, chế độ, thể lệ về kế toán được qui định, các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán được thừa nhận 11
6.2. Tổ chức hệ thống chứng từ, sổ kế toán và báo cáo kế toán: 11
6.3. Tổ chức vận dụng các công việc kế toán: 12
6.4. Một số nhân tố ảnh hưởng tới công tác kế toán trong các DN 12
II. thực trạng công tác kế toán tại các doanh nghiệp may mặc Việt Nam 14
1. Thực trạng tổ chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam 14
2. Đối với ngành maymặc 15
III. Gỉai pháp 17
1. Hoàn thiện việc phân loại chi phí 17
2. Hoàn thiện hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng 17
3. Lựa chọn kỳ tính giá thành phù hợp, phục vụ kịp thời thông tin cho quản trị doanh nghiệp 18
4. Xây dựng hệ thống định mức chi phí sản xuất 19
5. Xây dựng và vận hành hệ thống kế toán quản trị chi phí sản xuất - giá thành sản phẩm 19
6. Về bản thân doanh nghiệp 20
7. Về phía nhà nước 21
Kết luận 22
Danh mục tham khảo 23
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3498 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác kế toán tại các doanh nghiệp may mặc Việt Nam và đề xuất giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u hoà tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh tụng khiếu tố, với tư cách là bằng chứng về hành vi thương mại.
Cơ sở đảm bảo vững chắc trong sự giao dịch buôn bán.
Là cơ sở cho người quản lý ra các quyết định phù hợp: Quản lý hạ giá thành, quản lý doanh nghiệp kịp thời.
Cung cấp một kết quả tài chính rõ rệt không thể chối cãi được.
4.2. Đối với Nhà nước:
Theo dõi được sự phát triển của các ngành sản xuất kinh doanh, tổng hợp được sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Cơ sở để giải quyết tranh chấp về quyền lợi giữa các doanh nghiệp.
Cung cấp thông tin để tìm ra cách tính thuế tốt nhất, hạn chế thất thu thuế, hạn chế sai lầm trong chính sách thuế….
5. Đối tượng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế toán trong doanh nghiệp
5.1. Đối tượng kế toán
Trong điều 9 của luật kế toán quy định
Đối tượng kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, hành chính, sự nghiệp; hoạt động của đơn vị, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước gồm:
Tiền, vật tư và tài sản cố định;
Nguồn kinh phí, quỹ;
Các khoản thanh toán trong và ngoài đơn vị kế toán;
Thu, chi và xử lý chênh lệch thu, chi hoạt động;
Thu, chi và kết dư ngân sách nhà nước;
Đầu tư tài chính, tín dụng nhà nước;
Nợ và xử lý nợ của Nhà nước;
Tài sản quốc gia;
Các tài sản khác có liên quan đến đơn vị kế toán.
Đối tượng kế toán thuộc hoạt động của đơn vị, tổ chức không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước gồm các tài sản, nguồn hình thành tài sản theo quy định tại các điểm a, b, c, d và i khoản 1 Điều này.
Đối tượng kế toán thuộc hoạt động kinh doanh gồm:
Tài sản cố định, tài sản lưu động;
Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu;
Các khoản doanh thu, chi phí kinh doanh, chi phí khác và thu nhập;
Thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước;
Kết quả và phân chia kết quả hoạt động kinh doanh;
Các tài sản khác có liên quan đến đơn vị kế toán.
Đối tượng kế toán thuộc hoạt động ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán, đầu tư tài chính, ngoài quy định tại khoản 3 Điều này còn có:
Các khoản đầu tư tài chính, tín dụng;
Các khoản thanh toán trong và ngoài đơn vị kế toán;
Các khoản cam kết, bảo lãnh, các giấy tờ có giá.
Có thể nhận thấy là tất cả các đối tượng kế toán đều có thể chia làm hai nhóm lớn:
Đối tượng tài sản thì việc tiếp nhận chúng được tính theo bên Nợ, còn ghi giảm được tính theo bên Có;
Đối tượng nguồn vốn thì việc tiếp nhận chúng được tính theo bên Có, còn ghi giảm – theo bên Nợ.
Nhưng trong mỗi tài khoản kế toán có nhiều đối tượng kế toán. Và có thể xảy ra trường hợp, trong một tài khoản nào đó vừa có đối tượng kế toán tài sản, vừa có đối tượng kế toán nguồn vốn. Ví dụ, trong tài khoản 33881 «Hạch toán phải trả khác» theo cùng một đối tác có thể là nợ phải thu, còn theo đối tác khác – nợ phải trả.
5.2. Nhiệm vụ kế toán
Ở điều 5 của luật kế toán nêu rõ
Thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội dung công việc kế toán, theo chuẩn mực và chế độ kế toán.
Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ thu, nộp, thanh toán nợ; kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản; phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán.
Phân tích thông tin, số liệu kế toán; tham mưu, đề xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán.
Cung cấp thông tin, số liệu kế toán theo quy định của pháp luật.
6. Tổ chức công tác kế toán:
Tổ chức công tác kế toán là một trong những nội dung thuộc về tổ chức quản lý trong doanh nghiệp. Tổ chức công tác kế toán một cách thích ứng với điều kiện về qui mô, về đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh cũng như gắn với những yêu cầu quản lý cụ thể tại doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng và to lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tại doanh nghiệp.
Với chức năng thông tin và kiểm tra tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp một cách thường xuyên, nhanh nhạy và có hệ thống nên tổ chức công tác kế toán là một trong các mặt quan trọng được các doanh nghiệp quan tâm. Tổ chức công tác kế toán không đơn thuần là tổ chức một bộ phận quản lý trong doanh nghiệp, mà nó còn bao hàm cả tính nghệ thuật trong việc xác lập các yếu tố, điều kiện cũng như các mối liên hệ qua lại các tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kế toán, bảo đảm cho kế toán phát huy tối đa các chức năng vốn có của mình.
Tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung của khoa học tổ chức, còn phải gắn với đặc thù của hạch toán kế toán vừa là môn khoa học, vừa là nghệ thuật ứng dụng để việc tổ chức đảm bảo được tính linh hoạt, hiệu quả và đồng bộ nhằm đạt tới mục tiêu chung là tăng cường được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tổ chức công tác kế toán bao gồm những nội dung sau đây:
• Tổ chức vận dụng các chính sách, chế độ thể lệ về kế toán được qui định, các qui tắc và chuẩn mực kế toán được thừa nhận.
• Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán, sổ kế toán, báo cáo kế toán.
• Tổ chức vận dụng các công việc kế toán để tập hợp phân loại, xử lí và tổng hợp các thông tin cần thiết.
• Tổ chức bộ máy kế toán.
• Tổ chức trang bị các phương tiện, thiết bị tính toán.
• Tổ chức kiểm tra kế toán( hoặc kiểm toán).
• Tổ chức vận dụng các chính sách, chế độ, thể lệ về kế toán.
6.1. Tổ chức vận dụng các chính sách, chế độ, thể lệ về kế toán được qui định, các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán được thừa nhận
Là vấn đề quan trọng nhằm xác định chính sách về kế toán trong doanh nghiệp. Chính sách về kế toán của doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định chung trên cơ sở vận dụng một cách phù hợp với điều kiện cụ thể của mình như vận dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, mặt khác nó đề ra những phương pháp cụ thể mà kế toán cần phải thực hiện một cách nhất quán trong quá trình cung cấp thông tin.
6.2. Tổ chức hệ thống chứng từ, sổ kế toán và báo cáo kế toán:
Công tác kế toán ở bất kỳ đơn vị nào bao giờ cũng bao gồm các giai đoạn cơ bản: Lập chứng từ, ghi sổ và lập các báo cáo tài chính và quản trị. Tổ chức hệ thống chứng từ (có tính chất bắt buộc và hướng dẫn) phù hợp với tính đa dạng của nghiệp vụ kinh tế phát sinh; đảm bảo đầy đủ các yếu tố cần thiết để kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp, tổ chức luân chuyển chứng từ hợp lý và nhanh chóng vừa đảm bảo nguồn thông tin ban đầu quan trọng, vừa là cơ sở kiểm tra và ghi sổ được nhanh chóng. Tổ chức hệ thống sổ kế toán theo hình thức kế toán phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của đơn vị có tác dụng quan trọng để phân loại, xử lý và tổng hợp thông tin được nhanh chóng chính xác. Dựa vào số liệu đã phản ánh trên các sổ kế toán để lập các báo cáo tài chính theo qui định chung cũng như lập các báo cáo nội bộ biểu hiện kết quả của công tác kế toán. Tổ chức hệ thống báo cáo phản ánh được toàn diện các mặt hoạt động của đơn vị và đáp ứng được nhu cầu thông tin cho nhiều đối tượng khác nhau là căn cứ để đánh giá chất lượng công tác kế toán của đơn vị.
6.3. Tổ chức vận dụng các công việc kế toán:
Để thực hiện được công tác kế toán cần thiết phải sử dụng đồng thời các công việc: Chứng từ kế toán, đối ứng tài khoản, tính giá và cân đối, tổng hợp cân đối. Vận dụng các công việc này vào điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp để hạch toán các nội dung cụ thể phù hợp với chính sách về kế toán doanh nghiệp nhằm cung cấp các thông tin cần thiết, được biểu hiện không chỉ trình độ khoa học mà còn là trình độ ứng dụng. ”Kế toán là ngôn ngữ của kinh doanh” - cần hiểu kế toán ở 2 giác độ: Thông tin của kế toán phải được cung cấp từ những công việc khoa học và những công việc này đã được vận dụng một cách thích ứng với môi trường, điều kiện mà hoạt động kinh doanh đã diễn ra. Nói cách khác một câu nói nào đó có thể hiểu được thì trước hết thì nó cần phải có đầy đủ các yếu tố cấu thành một câu, và nội dung câu nói phải phù hợp với trình độ nhận thức mà người tiếp nhận nó. Tổ chức vận dụng các công việc kế toán hoàn toàn có ý nghĩa tương tự như vậy.
6.4. Một số nhân tố ảnh hưởng tới công tác kế toán trong các DN
Bất kỳ một doanh nghiệp nào tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều chịu sự tác động của nhân tố bên ngoài và bên trong doanh nghiệp. Những nhân tố này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất kinh doanh và tác động đến tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp.
Các yếu tố thuộc về môi trường bên ngoài bao gồm các văn bản pháp luật về kế toán, tác động của khủng hoảng kinh tế hiện nay và điều kiện tự nhiên
Các văn bản pháp luật về kế toán.
Mặc dù, rất nhiều chính sách chế độ được ban hành đổi mới hệ thống kế toán nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý kinh tế, phục vụ việc hội nhập sâu, rộng kinh tế quốc tế. Tuy nhiên hiện nay ở nước ta vẫn chưa có những văn bản, thông tư hướng dẫn cụ thể quy định cụ thể về tổ chức công tác kế toán cho các doanh nghiệp trong chăn nuôi, dẫn đến các doanh nghiệp vận dụng không thống nhất, gây khó khăn trong công tác quản lý của bản thân doanh nghiệp, cho cơ quan quan quản lý nhà nước và cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin ngoài công ty. Rất nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thực thi các chính sách của nhà nước như: nhiều doanh nghiệp đang vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa, xử lý nguồn vốn và công nợ tồn đọng, công tác quản lý chứng từ, sổ sách, và lập báo cáo tài chính còn nhiều thiếu sót.
Tác động của khủng hoảng kinh tế
Sự suy giảm kinh tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ở nước ta. Trong hai năm liên tiếp, sự sụt giảm mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ đã kéo theo hàng loạt các quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề. Nền kinh tế tăng trưởng thấp, kim ngạch xuất nhập khẩu giảm, nhiều doanh nghiệp phải phá sản, đã ảnh hưởng tới đời sống người dân, hàng triệu người lao động bị mất việc làm... Thực trạng đó cũng đang gây ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế nước. Một số doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn này, nhiều đơn hàng bị hủy bỏ, quy mô sản xuất phải thu hẹp. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp đã và đang triển khai nhiều biện pháp cấp bách nhằm bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển sản xuất trước sự khủng hoảng của nền kinh tế toàn cầu. Nhiều dự án, kế hoạch nhằm hỗ trợ, kích cầu được triển khai đồng bộ trong toàn tổng công ty thông qua việc triển khai dự án “hỗ trợ lãi suất vay vốn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh”. Để giúp doanh nghiệp thực hiện được các dự án và kế hoạch đặt ra thì việc cung cấp các thông tin về kế toán (doanh thu chí phí, lợi nhuận, nguồn vốn và công nợ) là rất quan trọng nhằm giúp cho doanh nghiệp xác định đúng mục tiêu và chiến lược để từ đó từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng, phục hồi và phát triển bền vững
Môi trường bên trong
Môi trường bên trong ảnh hưởng rất lớn tới tổ chức công tác kế toán. Việc phân tích rõ môi trường bên trong giúp cho việc phân tích và đánh giá thực trạng tổ chức công tác kế toán được rõ nét hơn.
Đặc điểm sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến tổ chức thông tin kế toán của doanh nghiệp
Sản phẩm của ngành
Đối tượng sản xuất trong ngành
Tổ chức quản lý sản xuất của các doanh.
Ảnh hưởng của điều kiện tài chính, quy mô đến công tác kế toán
Điều kiện tài chính sẽ ảnh hưởng đến quy mô của doanh nghiệp. Tài chính lớn mạnh thường sẽ đi với quy mô doanh nghiệp lớn và khi đó tổ chức thông tin kế toán và bộ máy nhân sự kế toán cũng được được nâng tầm tương xứng. Hiện nay, các doanh nghiệp chăn nuôi ở nước ta đều là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Vì vậy, các nguồn lực kinh tế, tài chính, chất lượng thông tin và nhân sự kế toán trong các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế. Sự giới hạn về quy mô sản xuất kinh doanh, vốn ít của các doanh nghiệp gây ra những khó khăn, trở ngại đối tới việc áp dụng công tác kế toán quản trị làm cho tính hữu ích của tổ chức công kế toán không được nhận thấy rõ ràng.
Tác động của mô hình tổ chức bộ máy kế toán đến tổ chức công tác kế toán của doanh nghiệp.
Có thể nói đây là nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất đến tổ chức công tác kế toán của doanh nghiệp. Bộ máy kế toán mà bao gồm những người có kiến thức, kỹ năng và thái độ tốt thì điều này sẽ làm cho tổ chức công tác kế toán phát huy được hiệu quả cao. Về kiến thức thì hầu hết những người làm công tác kế toán tại tổng công ty phải qua đào tạo chuyên môn. Song kiến thức ở đây đòi hỏi là luôn hiểu sâu, và hiểu đúng bản chất về các chính sách chế độ kế toán, và luôn phải thường xuyên cập nhật các thông tin đang diễn ra trong đời sống xã hội. Về kỹ năng đòi hỏi người làm công tác kế toán phải biến các kiến thức mà mình có được để vận dụng thành thạo các thao tác trong công việc của mình và các thao tác đó phải được tiến hành một cách khoa học, phải rèn luyện và khả năng tư duy cao. Về thái độ đòi hỏi phẩm chất của người kế toán là phải luôn trung thực, cẩn thận, tỷ mỷ, thận trọng và luôn phải tuân thủ theo đúng chế độ chính sách đã quy định.
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức công tác kế toán của các doanh nghiệp chăn nuôi. Nếu doanh nghiệp vận dụng tốt các nhân tố này sẽ giúp cho ngành chăn nuôi đứng vững trong cạnh tranh, hội nhập được với nền kinh tế thế giới và trở thành những doanh nghiệp doanh nghiệp lớn và góp phần quan trọng trong việc giải quyết các mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước.
II. thực trạng công tác kế toán tại các doanh nghiệp may mặc Việt Nam
1. Thực trạng tổ chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam
Trên thực tế ,công tác kế toán doanh nghiệp đã và đang bị coi thường :
Tình trạng coi thường công tác kế toán trong nhiều DNVN trước hết và chủ yếu là trong các doanh nghiệp Nhà nước đã gây ra những hậu quả âm thầm nhưng nghiêm trọng. Không ít Doanh nghiệp sau hai ba năm có khi thanh tra thuế mới vôi vàng “chạy “để lập các sổ kế toán và báo cáo tài chính .Nghiệm trọng hơn có những DN mời đơn vị kiểm toán báo cáo tài chính nhằm thực hiện “giấc mơ lên sàn” nhưng đơn vị kiểm toán đã từ chối vì công tác kế toán chưa đat yêu cầu
Các DN nhỏ và vừa ,công tác kế toán chỉ là “công cụ để đối phó “với việc kiểm tra ,quyết toán thuế .Tình trạng “hai trong một “-hai hệ thống sổ kế toán xảy ra khá phổ biến nếu không muốn cho rằng ở tất các các DN vừa và nhỏ
Hai hệ thống cùng tồn tại. Hệ thống thứ nhất được gọi là “kế toán nội bộ “chỉ có chủ DN được biết .Đó là hệ thổng “sổ chợ “ không theo bất kì quy luật nào của pháp luật .Hệ thống thứ hai được gọi là “kế toán thuế “. Hệ thống này về hình thức theo đúng quy định của pháp luật nhưng thông tin và số liệu trong đó hoàn toàn không phản ánh đúng thực tiễn của hoạt động kinh doanh.Trong các DN ngoài quốc doanh ,số liệu kế toán phản ánh tình trạng “lãi thật lỗ giả “không ít DN sau một số năm hoạt động số lỗ cộng dồn lớn hơn nhiều lần vốn điều lệ nhưng chủ doanh nghiệp vẫn nhiều tiền để mua bán bất động sản và các tài sản đắt tiền .Ở các doanh nghiệp nhà nước (bao gồm cả các công ty cổ phần do nhà nước nắm cổ phần chi phối )thì tình hình ngược lại ,hoạt động kinh doanh thua lỗ nghiệm trọng nhưng trên báo cáo tài chính vẫn có lãi vẫn chia tiền thưởng thậm chí có công ty vẫn lên sàn giao dịch của thi trường chứng khoán
Nhân lực không được trọng dụng. Trong những năm qua ,đội ngũ cán bộ kế toán được đào tạo khá nhiều Song ,sự gia tăng về lượng không tương xứng với sự nâng cao về chất .Thêm vào đó cùng với phương thức “gia đình trị “ trong quản lý DNVN ,các cán bộ kế toán chưa được chủ doanh nghiệp trọng dụng ,không có điều kiện để học tập bồi dường kiến thức và nâng cao năng lực chuyên môn Có nhiều DN thue kế toán theo mùa vụ .Vì vậy đội ngũ kế toán trong các DN không ổn định gây khó khăn lớn cho việc bảo đảm yêu cầu liên tục trong công tác kế toán
Doanh nghiệp thờ ơ với luật. Về việc quản lý nhà nước đối với công tác kế toán DN luật kế toán và các văn bản hướng dẫn thi hanh đã được ban hanh và có hiệu lực Song việc triển khai luật vào thực tiễn của các doanh nghiệp chưa được quan tâm .Công tác trine khai kế toán theo các đìeu 35 đến 38 Luật Doanh nghiệp .Song việc kiểm tra công tác kế toán DN của cơ quan thuế chỉ nhằm mục đích thuê ,do đó không thế toàn diện ,Hơn nữa theo quy định hiện hành cơ quan thuế không có thẩm quỳên trong viẹc này ,những sai sót của DN về công tác kế toán rất dễ dàng được “cho qua “ nhờ các thủ thuật luồn lách
2. Đối với ngành maymặc
Các doanh nghiệp may mặc Việt Nam đã và đang hoàn thiện bộ máy kế toán của mình, không chỉ sử dụng các phương pháp, mô hình kế toán đơn giản như trước đây mà hiện nay họ còn sử dụng nhiều phương pháp mới có ứng dụng công nghệ thông tin, như kế toán máy, phần mềm GarmentSD7.0 giải quyết hiệu quả nghiệp vụ ‘Hạch toán bàn cắt’, hay giải pháp ERP, giải pháp tổng thể, tích hợp quản trị doanh nghiệp bao gồm quản lý tài chính kế toán, quản lý phân phối, quản lý sản xuất, quản lý nhà kho, quản lý tài sản cố định. Tuy nhiên bộ máy kế toán của các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế:
Trên thực tế, các doanh nghiệp may mặc mới chỉ phân loại chi phí theo nội dung kinh tế và theo mục đích, công dụng của chi phí. Sự phân loại chi phí như vậy phục vụ chủ yếu cho việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo các khoản mục chi phí của kế toán tài chính. Các chi phí phát sinh là các thông tin quá khứ, được xem xét độc lập, không thấy được mối quan hệ giữa chi phí và kết quả mà chi phí đó mang lại.
Sản phẩm may mặc trải qua nhiều công đoạn như giác mẫu, cắt, may, hoàn thiện. Sản phẩm hỏng chủ yếu xuất hiện ở giai đoạn may và giai đoạn hoàn thiện. Thực tế tại các doanh nghiệp may mặc, sản phẩm hỏng chưa được hạch toán phù hợp
Kỳ tính giá thành của các doanh nghiệp may mặc trùng với thời gian sản xuất mã hàng cho đơn đặt hàng. Quá trình gia công sản phẩm may mặc trải qua nhiều công đoạn, diễn ra liên tục với nhiều loại chi phí phát sinh. Việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ phục vụ tính giá thành, trong điều kiện như vậy, là rất phức tạp
Từ thực tế và đặc điểm của sản xuất hàng gia công, các mặt hàng, mã hàng luôn thay đổi về mẫu mã, quy cách, nguyên liệu, quy trình gia công... Do đó, các doanh nghiệp may mặc chưa xây dựng được hoàn chỉnh các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật nói chung và định mức chi phí nói riêng
Với các doanh nghiệp may mặc, kế toán quản trị thực sự là vấn đề mới mẻ. Thông tin cung cấp cho các nhà quản trị về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm chủ yếu dựa trên nền tảng thông tin đã thu thập được của kế toán tài chính. Bản thân thông tin ấy mang tính quá khứ, kém linh hoạt, không kịp thời cho công việc lập kế hoạch ngắn hạn và công tác điều hành thường xuyên các hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp may mặc Hải Dương không coi kế toán quản trị là một bộ phận kế toán riêng với chức năng và phương pháp nghiệp vụ đặc thù. Kế toán quản trị chỉ được hiểu là chức năng cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp của kế toán tài chính.
III. Đề xuất giải pháp
Hệ thống kế toán của doanh nghiệp phải được hoàn thiện, tổ chức một cách khoa học và đồng bộ, tập trung chủ yếu vào các nội dung cơ bản như: hoàn thiện việc phân loại chi phí; hoàn thiện hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng; lựa chọn kỳ tính giá thành phù hợp, phục vụ kịp thời thông tin cho quản trị doanh nghiệp; xây dựng hệ thống định mức chi phí sản xuất; xây dựng và vận hành hệ thống kế toán quản trị chi phí sản xuất - giá thành sản phẩm.
1. Hoàn thiện việc phân loại chi phí
Để tăng cường giá trị của thông tin chi phí; vận dụng được tốt vào công tác lập kế hoạch, dự tính các xu thế trong các tình huống kinh doanh, các doanh nghiệp nên áp dụng tiêu thức phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí hay mối quan hệ của chi phí với mức độ hoạt động.
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất bao gồm chi phí biến đổi (biến phí), chi phí cố định (định phí) và chi phí hỗn hợp. Trong đó, biến phí sản xuất sản phẩm dệt may thường bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp; chi phí nhân công trực tiếp và một số loại chi phí trong khoản mục chi phí sản xuất chung như giá trị công cụ - dụng cụ, nhiên liệu, động lực phục vụ sản xuất tại phân xưởng; lương sản phẩm tính cho nhân viên KCS... Định phí sản xuất chủ yếu tồn tại trong các khoản mục chi phí sản xuất chung như khấu hao máy móc, thiết bị, nhà xưởng; chi phí trang phục lao động... Chi phí hỗn hợp là loại chi phí mà bản thân nó bao gồm cả các yếu tố của định phí và biến phí. Chi phí hỗn hợp trong sản xuất sản phẩm may mặc chủ yếu thuộc chi phí sản xuất chung như chi phí điện, nước, điện thoại, sửa chữa... Để có thể giám sát, quản lý chặt chẽ, hiệu quả chi phí hỗn hợp, doanh nghiệp cần phân tích chi phí hỗn hợp thành các yếu tố biến phí và định phí. Hai phương pháp có thể sử dụng để thực hiện việc phân tích chi phí hỗn hợp là phương pháp cực đại, cực tiểu và phương pháp bình quân nhỏ nhất
2. Hoàn thiện hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng
Sản phẩm may mặc trải qua nhiều công đoạn như giác mẫu, cắt, may, hoàn thiện. Sản phẩm hỏng chủ yếu xuất hiện ở giai đoạn may và giai đoạn hoàn thiện. Sản phẩm hỏng là những sản phẩm không đủ tiêu chuẩn về kỹ thuật, mỹ thuật theo yêu cầu của khách hàng. Vì vậy, nó được loại ra và coi như phế liệu thu hồi. Phế liệu thu hồi có giá trị sử dụng thấp, không mang lại hiệu quả kinh tế.
Để cải thiện thực trạng đó, các doanh nghiệp may mặc cần tiền hành các công việc cụ thể như:
Quy định rõ tỷ lệ sản phẩm hỏng trong định mức và ngoài định mức căn cứ vào điều kiện máy móc thiết bị sản xuất và trình độ, kỹ năng của người công nhân. Nếu sản phẩm hỏng vượt định mức, cần phải quy trách nhiệm vật chất, buộc bồi thường. Những thiệt hại về sản phẩm hỏng do nguyên nhân khách quan thì chi phí về sản phẩm hỏng được loại trừ khỏi giá thành của sản phẩm hoàn thành;
Chọn phương pháp xác định khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng. Để đơn giản và thuận tiện, các doanh nghiệp có thể sử dụng giá thành kế hoạch hay chi phí định mức (do phòng kỹ thuật lập sẵn) ở từng giai đoạn gia công cụ thể;
Tập hợp toàn bộ thiệt hại về sản phẩm hỏng và tiến hành hạch toán cuối kỳ như sau: Sản phẩm hỏng trong định mức sẽ không tổ chức hạch toán theo dõi riêng, chi phí về sản phẩm hỏng coi như nằm trong giá thành sản phẩm hoàn thành; sản phẩm hỏng ngoài định mức thì căn cứ vào các biên bản xác nhận và chứng từ kế toán liên quan, kế toán tiến hành hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng theo theo các định khoản cụ thể.
3. Lựa chọn kỳ tính giá thành phù hợp, phục vụ kịp thời thông tin cho quản trị doanh nghiệp
Phần lớn kỳ tính giá thành của các doanh nghiệp may mặc trùng với thời gian sản xuất mã hàng cho đơn đặt hàng. Quá trình gia công sản phẩm may mặc trải qua nhiều công đoạn, diễn ra liên tục với nhiều loại chi phí phát sinh. Việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ phục vụ tính giá thành, trong điều kiện như vậy, là rất phức tạp.
Việc lựa chọn kỳ tính giá thành theo khoảng thời gian gia công đơn đặt hàng sẽ tiết kiệm được công sức và thời gian đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ; làm cho chỉ tiêu giá thành của mã hàng có tính chính xác cao. Nhưng ngược lại, thông tin chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm lại không được cung cấp kịp thời trong suốt quá trình gia công mã hàng; đặc biệt là những mã hàng có số lượng lớn, cần nhiều thời gian hoàn thành toàn bộ sản lượng yêu cầu. Trong điều kiện xây dựng hệ thống kế toán quản trị kết hợp với hệ thống kế toán tài chính, do kế toán tài chính không đòi hỏi phải lập các báo cáo về giá thành sản phẩm định kỳ. Các doanh nghiệp chỉ cần đánh giá sản phẩm dở dang cuối quý, cuối năm để xác định các chỉ tiêu về hàng tồn kho, giá vốn hàng bán phục vụ cho việc lập Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, vì thế các doanh nghiệp cần lựa chọn kỳ tính giá thành là hàng tháng vừa đảm bảo cho các báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm phục vụ cho quản trị doanh nghiệp vẫn được lập thường xuyên đồng thời vừa gắn kết, hỗ trợ nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính. Hơn nữa, kỳ tính giá thành hàng tháng giúp cho số liệu ở kế toán quản trị và kế toán tài chính có được sự tương đồng và thống nhất, có cơ sở để so sánh và điều chỉnh phương pháp tập hợp, phân bổ chi phí sản xuất, phương pháp xác định giá thành sản phẩm để đảm bảo sự chính xác, trung thực và phù hợp với tiêu chuẩn chung của các doanh nghiệp cùng ngành.
4. Xây dựng hệ thống định mức chi phí sản xuất
Từ thực tế và đặc điểm của sản xuất hàng gia công, các mặt hàng, mã hàng luôn thay đổi về mẫu mã, quy cách, nguyên liệu, quy trình gia công... Do đó, các doanh nghiệp may mặc chưa xây dựng được hoàn chỉnh các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật nói chung và định mức chi phí nói riêng. Khi nhận được mẫu của khách hàng chuyển đến, phòng kỹ thuật tiến hành giác mẫu và gia công thử, qua đó, xác định các định mức hao phí về nguyên phụ liệu cho gia công sản phẩm. Nguyên vật liệu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32508.doc