MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
I.Đầu tư phát triển và đặc điểm của đầu tư phát triển 3
1.Khái niệm đầu tư,đầu tư phát triển 3
2.Đặc điểm của đầu tư phát triển 4
2.1Quy mô tiền vốn,vật tư,lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn 4
2.2. Thời kỳ đầu tư kéo dài 4
2.3.Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài 5
2.4.Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên,do đó,quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên,kinh tế,xã hội vùng 6
2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao 6
3.Ảnh hưởng của đầu tư phát triển đến công tác quản lý đầu tư 7
3.1Ảnh hưởng của đặc điểm thứ nhất đến công tác quản lý đầu tư 7
3.2Ảnh hưởng của đặc điểm thứ hai đến công tác quản lý đầu tư 8
3.3 Ảnh hưởng của đặc điểm thứ ba đến công tác quản lý đầu tư 8
3.4. Ảnh hưởng của đặc điểm thứ tư đến công tác quản lý đầu tư 11
3.5. Ảnh hưởng của đặc điểm thứ năm đến công tác quản lý đầu tư 11
II.Thực trạng của đầu tư phát triển và tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác đầu tư ở Việt Nam từ 1998 đến nay 12
1.Thực trạng đầu tư phát triển ở Việt Nam 12
1.1.Huy động vốn cho đầu tư phát triển 12
1.2.Huy động nguồn nhân lực cho đầu tư phát triển 16
2.Thực trạng về quản lý đầu tư ở Việt Nam 24
3.Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác đầu tư ở Việt Nam hiện nay 25
3.1.Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hiện nay 25
3.2. Đánh giá thực trạng sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển vào công tác quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam 29
KẾT LUẬN 46
Tài liệu tham khảo 47
47 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4217 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng của đầu tư phát triển và tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác đầu tư ở Việt Nam từ 1998 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên 55 tuổi
7,7
8,5
Tổng 15-45 tuổi
73,9
70,5
Bảng 2: Tỷ lệ LLLĐ chia theo nhóm tuổi
(Nguồn Bộ lao động thương binh xã hội)
Chất lượng lao động của nguồn nhân lực tuy đã có bước chuyển biến đáng kể do có sự cải cách và tăng cường đầu tư trong công tác giáo dục, đào tạo, dạy nghề, song nhìn chung còn thấp, chưa thể đáp ứng tốt và kịp thời những yêu cầu của công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập. Chất lượng nguồn nhân lực của VN hiện nay mới chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng, theo đánh giá mới của Ngân hàng Thế giới (WB). 1 nghiên cứu khác cho thấy lao động VN chỉ đạt 32/100 điểm. Trong khi đó, những nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Nguồn lao động của nước ta có năng suất lao động quá thấp, đứng thứ 77/125 nước và vùng lãnh thổ, sau cả Indonesia, Philippine và Thái Lan.
Trình độ văn hoá chung của nguồn nhân lực Việt Nam cao hơn so với mức bình quân của thế giới, tuy nhiên vẫn còn thấp hơn các nước trong khu vực châu Á: Hàn Quốc, Thái Lan, Philippin,… Ngay tại Thủ đô, có chưa tới 15% lực lượng lao động biết tiếng Anh và sử dụng thành thạo máy vi tính, tỉ lệ lao động không có chuyên môn ở Hà Nội hiện là 41,4%, Hải Phòng 64%, Đà Nẵng 54,4%, TP.HCM 55% và Bà Rịa Vũng Tàu là 62,9%.
Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực sự đem lại những chuyển biến về trình độ học vấn trong cộng đồng người dân, đây là một yếu tố thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cũng như giải quyết việc làm cho LLLĐ ở nước ta hiện nay. Xét về tổng thể thì trình độ học vấn của LLLĐ đã được nâng cao hơn, tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông đã tăng đáng kể.
Đầu tư cho giáo dục đào tạo để đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật là nhiệm vụ hàng đầu của đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Có thể thấy rõ sự tiến bộ qua bảng sau:
1979
1989
1999
2005
Không có trình độ CMKT
95,03
92,7
91,7
75,21
Công nhân kỹ thuật
3,39
2,2
2,4
15,22
Trung học chuyên nghiệp
1,06
3,2
3,0
4,3
Cao đẳng trở lên
0,52
1,9
2,7
5,27
Tổng
100
100
100
100
Bảng 6: Trình độ chuyên môn kỹ thuật (%) qua các năm
(Nguồn: Tổng điều tra dân số Việt Nam các năm)
Tính đến 2005, lao động qua đào tạo rất thấp (25%), lao động chưa qua đào tạo còn chiếm một tỷ lệ rất cao (75%). Đối với công nhân kỹ thuật (CNKT), tỷ lệ tăng dần từ 1989 trở đi. Giai đoạn 1999 đến 2005 có sự tăng đột biến (một phần do số liệu năm 2005 có tính cả số người có chứng chỉ nghề và sơ cấp). Trong thời gian đó, tỷ lệ số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp cũng tăng, nhưng tăng chậm hơn (+1,3%/6 năm).
Đối với lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên, tỷ lệ này so với tổng số lao động (năm 2005: 44,4 triệu người) tăng nhanh nhất. Giai đoạn 1999 – 2005 tăng bình quân 0,43%. Như vậy, trong 5 năm gần đây có sự tăng nhanh về quy mô đào tạo cao đẳng, đại học trở lên đến 5,4 lần, so với tốc độ tăng trung bình thời kỳ 1989 – 1999 (0,08%). Tình hình đó đưa đến sự chuyển dịch theo xu hướng từ “hình thang thuận sang hình thang ngược”. Cấu trúc giữa công nhân kỹ thuật, trung cấp và cao đẳng, đại học trở lên trong thời gian 1979 đến nay được thể hiện qua bảng sau:
Năm
CNKT/1CĐ, ĐH
THCN/1CĐ, ĐH
Số lượng trên CNKT (nghìn người)
Tỷ lệ CNKT trở lên trong LLLĐ (%)
1979
3,06
2,17
830,4
3,13
1989
2,13
1,74
1.827,2
5,21
1999
1,36
1,14
2.807,7
6,44
2005
2,88
0,82
1.1033
25,0
Bảng 7: So sánh các loại lao động theo trình độ CMKT qua các thời kỳ.
(Nguồn: Tổng điều tra dân số Việt Nam các năm)
Số liệu trong bảng cho thấy: tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ công nhân kỹ thuật trở lên trong tổng lực lượng lao động (15 – 59 tuổi) đã tăng lên: 3,13% (1979); 5,21% (1989); 6,44% (1999) và 6 năm sau (2005) đạt 30,00%, lao động chân tay là 70,00%. Nếu duy trì mức gia tăng đó thì dự báo đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo là 40%, trong đó công nhân kỹ thuật chiếm 332%. Trong khi ở các nước phát triển, tỷ lệ đó tương ứng là 72% và 28%. Tỷ lệ này phản ánh sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ của nền sản xuất và trình độ thấp của lực lượng lao động. Xu hướng chuyển dịch đó ở nước ta là có tiến bộ nhưng mức tăng của nguồn nhân lực tri thức này vẫn còn xa mới đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH.
Về cấu trúc cao đẳng, đại học trở lên/ trung học chuyên nghiệp/ công nhân kỹ thuật qua 4 mốc thời gian trên: 1/2,17/3,06 (1979); 1/1,74/2,13 (1989); 1/1,14/1,36 (1999); 1/0,82/2,88 (2005) cho thấy, chỉ số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp giảm liên tục từ 2,17 (1979) xuống còn 0,82 (2005); chỉ số công nhân kỹ thuật có xu hướng giảm (1979 – 1999), sau đó 6 năm lại đây có tăng lên nhưng tăng với tốc độ chậm, năm 2005 chiếm chỉ số là 2,88. Có nghĩa là, cơ cấu các loại lao động này năm 2005, cứ một lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên thì chỉ có 0,82 lao động có trình độ trung cấp và 2,88 lao động có trình độ công nhân kỹ thuật (1:0,82:2,88). Sự dịch chuyển này, chỉ ra sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động trong nền kinh tế giai đoạn công nghiệp hóa hiện nay. Các chuyên gia quốc tế cho rằng, ứng với giai đoạn tiến bộ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam hiện nay, cơ cấu trình độ CMKT phải là 1:4:20 mới hợp lý.
Về trình độ khoa học công nghệ chất lượng cao, Tính tới tháng 12-2000, Việt Nam đã có trên 1,3 triệu người có trình độ đại học – cao đẳng; trên 10.000 thạc sỹ; 13.500 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học (trong đó 610 tiến sỹ khoa học). Bình quân 190 cán bộ khoa học công nghệ/10.000 dân (năm 1989 là 105). Theo đó, cơ cấu tỷ lệ cán bộ (theo trình độ chuyên môn): 98% đại học, cao đẳng; 0,75% thạc sỹ; 0,97% tiến sỹ và tiến sỹ khoa học (tiến sỹ khoa học: 0,05%). Tỷ lệ đó thể hiện mối tương quan giữa các loại trình độ là: 1 tiến sỹ: 0,8 thạc sỹ: 105 đại học, cao đẳng.
Đến 2006, Việt Nam đã đào tạo ra được trên 1,8 triệu cán bộ đại học, cao đẳng trở lên, trong đó có trên 14 nghìn tiến sỹ và 16 nghìn thạc sỹ. Số lượng cán bộ khoa học công nghệ trên đại học đã tăng từ 23,500 nghìn (2000) lên trên 20 nghìn (2006). Theo thống kê của Bộ Nội vụ, tính đến 11-2004, cả nước có khoảng 5.479 giáo sư, phó giáo sư được công nhận, trong đó số lượng giáo sư, phó giáo sư đang làm việc là 3.075, chiếm 56,1%. Mối tương quan giữa các loại trình độ ở thời điểm năm 2006 là: 1 tiến sỹ : 1,14 thạc sỹ : 128 đại học, cao đẳng trên cho thấy số lượng tiến sỹ và tiến sỹ khoa học có tăng lên nhưng tăng chậm hơn so với sự tăng lên của cả đội ngũ; những con số đó còn quá nhỏ bé so với yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tỷ lệ số người có trình độ trên đại học trên tổng số cán bộ giảng dạy hiện mới đạt 12,7% (cần đạt 30%).
Đến cuối năm 2007, tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, bao gồm những người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai, các viện, trung tâm nghiên cứu và triển khai ứng dụng KH-CN của cả nước là gần 40.000 người. Ngoài ra, còn một số lực lượng nhất định trong tổng số gần 48.541 giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng và các chuyên gia, kỹ sư làm việc trong các doanh nghiệp cũng được thu hút vào các hoạt động KH-CN. Hiện nay, lực lượng này phân bố rất không đều giữa các vùng trong cả nước. Có tới 92,2% cán bộ có trình độ tiến sĩ và tiến sĩ khoa học tập trung ở các cơ quan trung ương và hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh (Hà Nội có 63,8% TS và 75,9% TSKH), (thành phố HCM có19,33% TS và 17,11% TSKH). Số tiến sĩ ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ chưa tới 1% . Trong số các giáo sư, phó giáo sư, có 86,2% ở Hà Nội và 9,5% ở thành phố HCM, các nơi khác còn lại là 4,3%.
Nghiên cứu khoa học công nghệ và tham gia đào tạo là chức năng, nhiệm vụ chính của đội ngũ cán bộ KH-CN chất lượng cao, nhưng tỷ lệ nhân lực tham gia trực tiếp vào quá trình nghiên cứu khoa học và triển khai còn thấp. Cụ thể, ở đề tài cấp nhà nước chỉ có 30% cán bộ được tham gia, tương ứng đề tài cấp bộ có 48,1% và đề tài cấp cơ sở là 65,1%. Xét tổng thể thì số lượng cán bộ KH-CN được tham gia nghiên cứu khoa học mới đạt 65,1%, còn lại 34,9% không tham gia, đó là sự lãng phí lớn.
Các đề tài nghiên cứu KH-CN của nước ta còn nhiều điểm chưa tiếp cận được trình độ khoa học công nghệ thế giới, khả năng hội nhập còn hạn chế. Cụ thể, việc tham gia hội thảo và các kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí khoa học có danh tiếng trên thế giới còn ít. Số bằng phát minh, sáng chế trong lĩnh vực KH-CN Việt Nam rất hạn chế. Theo tài liệu của Ban Khoa giáo Trung ương, thời kỳ 2001- 2005, Việt Nam chỉ có 11 đơn đăng ký sáng chế ở nước ngoài, trong khi đó Indonesia có 36, Thái Lan 39, Philipin có 85, Hàn Quốc có 15.000, Nhật Bản 87.620 Mỹ 206.710. Nếu căn cứ vào số lượng các công trình nghiên cứu khoa học được đăng trên tạp chí quốc tế và bằng sáng chế được quốc tế công nhận thuộc 27 môn khoa học, thì Việt Nam chưa lọt vào danh sách của 50 nước được tính đến. Trong khi đó, Singapo, Malaisia và Thái Lan đã có tên trong danh sách này. Điều đó có nghĩa là, trình độ nguồn nhân lực KHCN nước ta còn rất thấp
Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 của LHQ cho thấy, Việt Nam hiện có chỉ số phát triển con người HDI ở hạng trung bình, với chỉ số là 0,733. So với năm trước, Việt Nam đã tăng 4 bậc từ vị trí 109 lên vị trí 105 trong tổng số 177 nước. Việt Nam được xếp vào các nước có chỉ số phát triển con người trung bình, và liên tục được cải thiện gần 20 năm qua.
Chỉ số HDI không đơn thuần chỉ phản ánh GDP/đầu người, mà mô tả một bức tranh khá hoàn chỉnh về sự phát triển của một đất nước. Cùng một mức HDI nhưng thu nhập giữa các nước có sự khác biệt lớn, điển hình là trường hợp Nam Phi và Việt Nam. Chỉ số HDI hai nước tương đương nhưng Nam Phi có thu nhập bình quân đầu người gấp hơn 3 lần Việt Nam. Việt Nam chỉ xếp thứ 122 trong số 177 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người. Tuy nhiên, so với nhiều nước có thu nhập thấp khác, Việt Nam đi đầu về các chỉ số tuổi thọ, tỉ lệ biết chữ ở người lớn. Xếp hạng tương ứng của Việt Nam ở hai chỉ số này là 56 và 57. Trong khi đó, nhìn vào tổng tỉ lệ đi học tiểu học, trung học và đại học, Việt Nam xếp thứ 121, với 63,9% người trẻ được tiếp cận với giáo dục.
Năm
Giá trị HDI
Thứ hạng
2003 (Báo cáo năm 2005)
0,704
108/177
2004 (Báo cáo năm 2006)
0,709
109/177
2005 (Báo cáo năm 2007)
0,717
109/177
2006 (Báo cáo năm 2007)
0,723
109/177
2007 (Báo cáo năm 2008)
0,733
105/177
Bảng 12: Chỉ số phát triển con người Việt Nam
(Nguồn: Ngân hàng Thế giới)
Các chuyên gia của LHQ chỉ rõ, trong các thành tố của HDI, thu nhập bình quân đầu người và tổng tỉ lệ đi học có thể biến đổi theo những thay đổi chính sách ngắn hạn. Phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người dân và đầu tư cho giáo dục là hai giải pháp có thể làm thay đổi đáng kể chỉ số HDI. Chỉ riêng việc cải thiện tỉ lệ nhập học của trẻ em và nâng cao dân trí cho người dân sẽ giúp Việt Nam tăng nhanh HDI
2.Thực trạng về quản lý đầu tư ở Việt Nam
Một con đường vừa xây xong đã bị đào lên để làm hệ thống nước, những viên gạch trên vỉa hè vẫn còn giá trị sử dụng nhưng lại được thay bằng một lớp gạch khác, mới hơn nhưng chưa chắc đã bền. Hay một cây cầu đang xây dang dở nhưng tạm dừng vì hết kinh phí dẫn đến hiệu quả sử dụng gần như bằng không. Đấy là những câu chuyện gắn liền với đời sống hàng ngày của mọi người dân hiện nay. Một đồng vốn của Nhà nước bỏ ra, hiệu quả thu được bao nhiêu đều có thể được “cân đong” hợp lý nếu cơ chế quản lý, cách nghĩ và hành động dựa trên những nguyên tắc và nguyên lý khoa học và vì lợi ích toàn dân. Dàn trải, lãng phí, không hiệu quả là những tính từ quen thuộc gắn liền với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong nhiều năm nay. Nguyên nhân đầu tiên kể đến chính là năng lực quản lý yếu kém. Mặc dù cải cách công tác quản lý đầu tư từ ngân sách Nhà nước đã diễn ra trên mọi góc độ trong hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế từ phân cấp quản lý, đến phân bổ, quản lý giá và vấn
đề cấp phát, thanh toán vốn đầu tư...
Một vấn đề khác trong cơ chế quản lý là những năm qua, rất nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung. Nhiều điểm sửa đổi giúp cho việc hoàn thiện và chặt chẽ quy chế hơn nhưng lại gây khó cho cơ sở. Ví dụ, một chủ dự án vừa thực hiện xong một bộ hồ sơ lại phải tiếp tục thay bộ hồ sơ khác vì có một văn bản khác ra đời. Điều này đã làm chậm quá trình thực hiện, chậm quá trình giải ngân. Nếu là cơ chế phải có tính dài hơi, vì vậy, cần có sự chuẩn bị thấu đáo trong quá trình xây dựng cơ chế.
Một vấn đề gây ra tình trạng quản lý đầu tư kém hiệu quả là chất lượng quy hoạch và thiếu công khai minh bạch thông tin. Việc quản lý đầu tư theo quy hoạch hiện nay là rất khó. Quy hoạch của Chính phủ cho phép các bộ ngành, địa phương tự phê duyệt. Như vậy, người có đủ thẩm quyền phê duyệt cũng có đủ thẩm quyền quy hoạch, gây ra những vấn đề bất ổn...
3.Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác đầu tư ở Việt Nam hiện nay
3.1.Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hiện nay
3.1.1.Công tác quản lý đầu tư phát triển ở cấp độ vĩ mô
Dựa trên việc nắm bắt các đặc điểm của đầu tư phát triển, ở mức độ vĩ mô chính phủ đã có những cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển có nhiều đổi mới, góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế đầu tư. Do nguồn vốn đầu tư phát triển rất lớn, đầu tư phát triển có độ rủi ro cao đòi hỏi ở cấp độ vĩ mô phải xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch dầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn đầu tư, thực hiện đầu tư có trọng tâm trọng điểm.Cùng với đó phải đưa ra các phương pháp dự báo nhận diện rủi ro cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Chính phủ đã ban hành các chính sách phù hợp huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư phát triển ngày càng được đa dạng hoá, cơ chế bao cấp trong dầu tư dần được xoá bỏ. Cùng với đó đã nâng cao hiệu quả sử dụng và nỗ lực cải thiện môi trường kinh tế chính trị cho đầu tư, củng cố lòng tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát triển luôn được cập nhật, đổi mới, phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý đầu tư và xây dựng, đồng thời tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều nghị định mới, văn bản luật mới được ban hành thay thế cho những nghị định không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và xu hướng toàn cầu hoá như (luật đất đai, luật tài nguyên, luật đầu tư, luật đấu thầu…).
Cùng với đó, Nhà nước cũng thực hiện đổi mới trong công tác quy hoạch, thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư và là công cụ quản lý của nhà nước. Chất lưọng của công tác quy hoạch đã được chú ý, gắn kết với thực tế, bám sát với nhu cầu thị trường, khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương.
Kiện toàn và tăng cường năng lực các bộ quản lý dự án đầu tư phát triển. Đa dạng hoá các hình thức và mở rộng các lĩnh vực cho đầu tư nước ngoài là một hướng đi mới mà Bộ kế hoạch và đầu tư đang nghiên cứu để kiến nghị Chính phủ nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Nhiều giải pháp cải thiện môi trường đầu tư đang được triển khai mạnh mẽ. Đối với vốn ODA, những khó khăn sẽ được tập trung tháo gỡ là giải phóng mặt băng, bảo đảm đối ứng trong các dự án, đấu thầu và sử dụng tư vấn, kiện toàn và tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý dự án, cải thiện thủ tục hành chính và haì hoà hoá các thủ tuch đối với các nhà tài trợ. Các giải pháp thu hút vốn FDI được chú trọng đẩy mạnh là khâu quy hoạch, nhất là gắn quy hoạch ngành, sản phẩm với quy hoạch vùng, nâng cao chất lượng và tính khả thi của danh mục ưu tiên gọi vốn FDI. Liên quan đến giải pháp về cơ chế chính sách vĩ mô, Chính phủ yêu cầu các ngành chức năng khi soạn thảo, bổ sung, sữa đổi chính sách, luật phấp phải tính đến tác động của chúng tới FDI, bảo đảm tính nhất quán, thông thoáng hơn và áp sát hơn với cac quy định của tổ chức WTO. Các cơ chế chính sách ưu đãi về thuế, đất sẽ đặc biệt quan tâm đến các nhà đầu tư đã có dự án đang hoạt động tại Việt Nam, đồng thời cũng có nhưng quy chế riêng đói với các công ty xuyên quóc .
Tuy nhiên trong quản lý công tác đầu tư ở cấp vĩ mô cũng còn một số hạn chế. Với một quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên thực tế hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của Việt Nam thì chưa cao. Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: “ Việt Nam, tồn tại một nghịch lý là nước nghèo nhưng không biết tiêu tiền hợp lý, gây lãng phí”. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA. Đầu tư trong nước là một nguồn lực tốt, thậm chí năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các DN tư nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đẩy hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn còn hạn chế do tác động chung của cac nguôn lực khác: Cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho DN nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên không phủ nhận sự yếu kém của DN tư nhân trong nước, nhưng yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo ra. Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thânViệt Nam lai chưa tạo điều kiện đầy đủ.Hình thức BOT đã được luật hoá nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán để tham gia xây dựng hạ tầng, để đạt được kí kết. Họ phải mất them 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Cuối cùng nước này đã rút dự án ra khỏi Vệt Nam. Chúng ta càn rút ra kinh nghiệm để tránh những sai lầm trong công tác quản lý đầu tư.
3.1.2.Công tác quản lý đầu tư phát triển ở cấp độ vi mô
Cùng với cải thiện đáng kể của công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô thì ở các cấp độ doanh nghiệp công tác quản lý đầu tư ngày càng được chú trọng. Năm 2007 số lượng các công ty tư vấn giám tăng khoảng 10% so với năm 2006. Điều này chứng tỏ các nhà quản lý đã chú trọng rất nhiều đến chất lượng công trình và tiến độ công trình.Công tác lập dự án cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác đầu.Trong nhiều dự án có quy mô lớn và trình độ kỹ thuật phức tạp các công ty còn thuê chuyên gia nước ngoài để tư vấn lâp và thẩm định khả thi của dự án đầu tư.Các công ty cũng sẵn sang bỏ một số chi phí không nhỏ để thuê các tổ tư vân để lập ra các dự án có tính khả thi cao.
Bên cạnh đó có một bộ phận doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa làm tốt quá trình đầu tư.Trong đó công tác đấu thầu là bất cập nhất.Nghiên cứu cho thấy: trong tổng số 400 hợp đồng thuộc 6 khoản tín dụng đã được phân tích, có sự tham gia của 1000 công ty,1500 người, 50 ngân hang và hơn 250 giao dịch.Dựa trên kết quả phân tích ban đầu này, 110 hợp đồng đã được chọn lựa để phân tích sâu không phát hiện thấy dấu hiệu bất thường trong công tác quản lý tài chính và giải ngân.Ngoài ra chất lượng của các công trình xây dựng chấp nhận được ở phần lớn trong số 40 công trình đã được kiểm tra.Tuy nhiên phân tích sâu hơn cho thấy có dấu hiệu liên kết giữa các nhà thầu trong hầu hết các cuộc đấu thầu đã thẩm tra. Đặc biệt nghiên cứu còn cho thâý hầu hết giá bỏ thầu đều nằm trong khoảng rất hệp . Điều đó có thể ký giải được trên cơ sở việc nhiêu nhà thầu thường căn cứ vào các định mức về giá đựơc quy định chính thức vì phần lớn là các DNNN.
Nhiêu chủ đầu tư ở Việt Nam do chưa có các giải pháp, nhận dạng và phòng ngừa rủi ro thích hợp, nên khi đứng trước những biến động của thị trường lạm phát cao, giá nguyên vật liệu, lãi suất tăng cao ( kể từ cuối năm 2007) gần như đứng trước nguy cơ phá sản, nhiều công trình thi công bị bỏ dở dang do chủ đầu tư không huy động được nguồn vốn.Qua đó cồn thể hiện sự non kém trong năng lực quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
3.2. Đánh giá thực trạng sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển vào công tác quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam
3.2.1.Những mặt tích cực của công tác quản lý hoạt động đầu tư
- Huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển trong những năm qua tăng khá. Hàng năm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khoảng 18%, nhờ đó, tỷ lệ vốn đầu tư so với GPD không ngừng gia tăng… Nguồn thu từ ngân sách nhà nước đã có tác động thu hút các nguồn vốn khác. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp, chính phủ dẫn thực thi nhiều cơ chế để tăng cường thu hút đầu tư từ khu vực khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài, huy động nguồn vốn công trái, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình… Góp phần tăng nhanh tổng nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Cơ cấu đầu tư đã có sự chuyển dịch, tập trung vào các mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế -xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do các nguồn lực được huy động tốt hơn và tập trung đầu tư vào các công trình chủ yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế của từng vùnh, từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh tế nông thôn; đầu tư theo chiều sâu, bổ sung các thiết bị công tiên tiến trong các ngành công nghiệp, xây dựng và chuẩn bị xây dựng một số cơ sở công nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận tải, viễn thông, thuỷ lợi, công nghịêp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường,giảm nhẹ thiên tai. Vốn đầu tư tập trung cho phátt triển nguồn nhân lực, giáo dục khoa học công nghệ, môi trường, y tế xã hội, các công trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát triển kinh tế xã hội các tỉnh Tây Nguyên, Miền núi phía Băc, Đồng bằng sông cửu long, các tỉnh còn khó khăn, các vùng thường bị thiên tai bão lụt.
- Có nhiều đổi mới trong cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng ,trong chỉ đạo điều hành của chính phủ. Cơ chế quản lý đầu tư đựơc cải tiến một bước quan trọng theo hướng giảm đáng kể sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đôí với hoạt động đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ đầu tư trong công việc quyết địmh tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả của các công trình đầu tư, đồng thời thực hiện phân cấp triệt để cho các bộ, ngành và các địa phương về thẩm định, quyết định, tổ chức quản lý thực hiện dự án đầu tư theo Nghị định số 07/CP của Chính Phủ.
Trong hoạt động đầu tư, Nhà nước quản lý chặt chẽ đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và tao khung pháp lý cùng các hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu tư mà không trực tiếp quyết định đầu tư. Đồng thời Nhà nước thực hiện cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá, để thực hiện hiệu quả dự án đầu tư,giảm bớt sai sót, vi phạm thất thoát. Trong quản lý đầu tư, đã được tăng cường vai trò của hội đồng nhân dân, coi trọng sự tham gia giám sát của cộng đòng và các tổ chức xã hội.
- Chúng ta đã khai thac tốt các nguồn đầu tư nứơc ngoài. Trong giai đoạn 2000-2007 huy động vốn nước ngoài gia tăng đáng kể, góp phần khắc phục tình trạng khan hiếm nguồn vốn trong nước, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong nước, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh còn tạo điều kiện tốt cho việc mở rộng thị trường trong nước, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường thế giới.
Chính phủ tiêp tục nỗ lực để tạo môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn hơn, cởi mở minh bạch và thông thoáng hơn. Các bộ, ngành, địa phương đang thực hiện các biện pháp chỉ đạo hữu hiệu của thủ tướng Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững bằng nhiều biện pháp như bộ Kê hoạch và đầu tư đã triển khai công tác địa phương thực hiện việc điều hành đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách nhà nước nhằm phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát và các đoàn công tác thúc đẩy việc giải ngân nguồn vốn FDI.
3.2.2.Những mặt hạn chế của công tác quản lý hoạt động đầu tư
Một là, chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế. Nhiều bộ, ngành địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn khác tham gia vào đầu tư, đặc biệt là khu vực thư nhân còn hạn chế rất lớn về quy mô, nhất là đầu tư những công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn.
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế ,chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây .Hầu hết các dự án dược cấp giấy phép gần đây đều có quy mô nhỏ; môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện nhiều,nhưng mức độ cạnh tranh so với các nước trong khu vực chưa cao và vẫn còn nhièu bất cập như: một số chính sách hay thay đổi và khó dự
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26147.doc