Contents
I. Cơ sở lý thuyết. 2
1. Khái niệm bao thanh toán: 2
2. Lợi tích và hạn chế của Bao thanh toán: 2
2.1.Đối với doanh nghiệp bán hàng: 2
2.2. Đối với doanh nghiệp mua hàng: 2
2.3. Đối với đơn vị bao thanh toán: 2
2.4. Hạn chế: 2
3. Những loại hình bao thanh toán và mức phí: 3
3.1 Đơn vị bao thanh toán được thực hiện các hình thức bao thanh toán sau: 3
3.2. Đơn vị bao thanh toán được thực hiện bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất - nhập khẩu. 3
3.3 . Phí dịch vụ Bao Thanh Toán: 3
4. Phương thức bao thanh toán 3
5. Quy trình hoạt động bao thanh toán: 4
6. So sánh giữa bao thanh toán và chiết khấu giấy tờ có giá: 5
7. Rủi ro trong bao thanh toán: 6
II. Thực trạng của dịch vụ bao thanh toán của Việt Nam hiện nay. 7
1. Thực trang Dịch vụ bao thanh toán. 8
2. Một số hạn chế của dịch bao thanh toán tại Việt Nam 10
III. Các biện pháp đề xuất để phát triển dịch vụ bao thanh toán của các ngân hàng. 14
1. Giải pháp : hạn chế rủi ro từ người mua. 14
2. Giải pháp : phát triển thị trường. 15
3. Giải pháp : phát triển dòng sản phẩm. 16
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo 17
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5955 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng của dịch vụ bao thanh toán của Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
toán
HĐ mua bán hàng hóa: Bên bán và bên mua ký hợp đồng mua bán hàng hóa.
Yêu cầu bao thanh toán: Bên bán hàng đề nghị đơn vị bao thanh toán thực hiện bao thanh toán các khoản phải thu.
Thẩm định: Đơn vị bao thanh toán tiến hành thẩm định (phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và khả năng tài chính) và cấp hạn mức BTT cho bên mua (nếu bên mua hàng chưa nằm trong danh sách khách hàng đã được đơn vị BTT cấp hạn mức).
Thẩm định: Đơn vị tiến hành thẩm định, trả lời và cấp hạn mức BTT cho bên bán.
Ký hết HĐ Bao thanh toán: Đơn vị BTT và bên bán tiến hành ký kết hợp đồng BTT
Thông báo BTT: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan, trong đó nêu rõ việc bên bán hàng chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn bên mua hàng thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao thanh toán.
Giao hàng hóa: Bên bán chuyển giao hàng hóa cho bên mua.
Chuyển nhượng HĐ: Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán;
Ứng trước: Đơn vị bao thanh toán chuyển tiền ứng trước cho bên bán hàng theo thoả thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
Thu nợ khi đến hạn: Đơn vị bao thanh toán theo dõi, thu nợ từ bên mua hàng
Thanh toán: Đơn vị bao thanh toán tất toán tiền với bên bán hàng theo quy định trong hợp đồng bao thanh toán
TT ứng trước: Đơn vị bao thanh toán tất toán tiền với bên bán hàng theo quy định trong hợp đồng bao thanh toán.
Đối với hoạt động bao thanh toán xuất-nhập khẩu:
Qui trình nghiệp vụ bao thanh toán có thể được thực hiện theo các bước như trên hoặc được thực hiện thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu chịu trách nhiệm phân tích khoản phải thu, tình hình hoạt động, khả năng tài chính của bên mua hàng là bên nhập khẩu trong hợp đồng xuất-nhập khẩu; thực hiện việc thu nợ theo uỷ quyền của đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và cam kết sẽ thanh toán thay cho bên nhập khẩu trong trường hợp bên nhập khẩu không có khả năng thanh toán khoản phải thu.
Trường hợp hoạt động bao thanh toán thực hiện qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu, đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và đơn vị bao thanh toán nhập khẩu phải thoả thuận và ký kết một hợp đồng riêng phù hợp với quy định của pháp luật, trong đó quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên.
So sánh giữa bao thanh toán và chiết khấu giấy tờ có giá:
Giống nhau:
Là hình thức cấp tín dụng, bằng cách mua lại các chứng từ có giá.
Có ba bên tham gia. Bên mua lại chứng từ, bên bán chứng từ, bên có trách nhiệm thanh toán chứng từ.
Không cần phải có tài sản đảm bảo.
Số tiền mua lại thấp hơn mệnh giá của chứng từ.
Là một hình thức cấp tín dụng gián tiếp cho bên có trách nhiệm thanh toán chứng từ.
Khác nhau:
Bao thanh toán
Chiết khấu giấy tờ có giá
Đối tượng của bao thanh toán là các khoản phải thu trong thương mại.
Chỉ có thể mua lại các khoản phải thu dưới 180 ngày.
Ngoài cấp tín dụng, còn có các dịch vụ kèm theo, như là quản lý và thu hồi nợ.
Được ký kết trước khi tiến hành giao hàng.
Khi ký kết hợp đồng, bên bán đã có dự định sẳn là thực hiện bao thanh toán.
Đối tượng là các khoản phải thu trong thương mại, và các giấy tờ khác trong thị trường vốn ( tín phiếu, trái phiếu..).
Có thể tiến hành đối với nhiều kỳ hạn ( có thể chiết khấu chứng từ còn thời hạn trên một năm hoặc thấp hơn)
Hầu như không có dịch vụ kèm theo.
Được thực hiện sau khi giao hàng.
Thường không có dự đinh trước, hoặc có nhưng cũng chỉ đối với thương phiếu, còn lại thường nắm giữ các giấy tờ như một hình thức đầu tư,hoặc cất giữ.
Rủi ro trong bao thanh toán:
Cũng như các hình thức cấp tín dụng khác, bao thanh toán cũng gặp phải những rủi ro như: rủi ro tín dụng, rủi ro gian lận, rủi ro thu nợ, rủi ro thanh khoản và rủi ro ngoại hối.
Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng tronng bao thanh toán là rủi ro khách hàng, bao gồm cả người bán và người mua mất khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Khi người bán chuyển nhượng khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán, mọi quyền và lợi ích liên quan đến khoản phải thu đó sẽ được chuyển giao từ người bán sang đơn vụ bao thanh toán. Đơn vị bao thanh toán sẽ có quyền được hưởng lợi từ việc người mua thanh toán khoản phải thu Đi kèm với các quyền và lợi ích nêu trên, đơn vị bao thanh toán đồng thời được chuyển giao mọi rủi ro (chủ yếu là rủi ro tín dụng) liên quan đến khoản phải thu đó. Khi người mua phá sản hoặc mất khả năng thanh toán, đơn vị bao thanh toán sẽ phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm của mình: thanh toán cho người bán 100% giá trị của khoản phải thu được chuyển nhượng. Một điều đáng chú ý ở đây là ở Việt Nam hiện nay chưa luật điều chỉnh việc chuyển nhượng các khoản phải phu trong thương mại. Chính vì quyền đòi nợ không được quy định chặt chẽ là một rủi ro cho đơn vị bao thanh toán trong việc thu nợ từ người mua.
Mặt khác, đơn vị bao thanh toán còn ứng trước cho người bán trước khi được nhận thanh toán từ người mua và người bán sẽ phải trả lãi tính trên số tiền được ứng trước. Việc ứng trước này cũng có thể được so sánh với một khoản tín dụng ngắn hạn với tài sản đảm bảo là khoản phải thu từ người mua. Ngay cả trong trường hợp bao thanh toán miễn truy đòi, đơn vị bao thanh toán vẫn có quyền truy đòi người bán số tiền ứng trước này nếu xảy ra tranh chấp giữa người bán và người mua. Khi đó, người mua không phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho đến khi tranh chấp được giải quyết và người bán phải hoàn trả cho đơn vị bao thanh toán số tiền đã được ứng trước cho khoản phải thu có tranh chấp. Tuy nhiên, nếu người bán gặp khó khăn về tài chính hoặc mất khả năng thanh toán, đơn vị bao thanh toán sẽ tổn thất do không có bất kỳ một tài sản đảm bảo nào khác cho khoản ứng trước đó.
. Rủi ro gian lận:
Rủi ro gian lận là rủi ro hóa đơn được bao thanh toán (có ứng trước) không tương ứng với một giao dịch thương mại thực tế nào. Vì vậy, hóa đơn đó không có giá trị pháp lý và đơn vị bao thanh toán không thể thu nợ từ người mua.
Như đã nói ở trên, đơn vị bao thanh toán ứng trước cho người bán trước khi được nhận thanh toán từ người mua. Người bán sau khi giao hàng sẽ ký phát hóa đơn đòi tiền người mua và gửi cho đơn vị bao thanh toán một bảo sao hóa đơn. Phần lớn các gian lận đều xuất phát từ đây. Người bán có thể ký phát hóa đơn trước khi giao hàng thực tế hoặc thậm chí ký phát những hóa đơn hoàn toàn không có thật để nhận được tiền ứng trước của đơn vị bao thanh toán.
Rủi ro thu nợ:
Rủi ro thu nợ là rủi ro đơn vị thanh toán không thể thu được nợ đúng hạn và hiệu quả.
Khác với các nghiệp vụ tín dụng truyề thống khác, rủi ro trong việc thu hồi nợ phụ thuộc rất nhiều vào uy tín và năng lực tài chính của người mua hàng chưng không phải người bán. Bên mua hàng là người chịu trách nhiệm trả nợ chính cho đơn vị bao thanh toán nhưng vì học không phải là người trực tiếp yêu cầu khoản tín dụng từ đơn vị bao thanh toán và do đó họ không có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin và tài liệu liên quan đến khả năng tài chính và tình hình hoạt động của mình cho đơn vị bao thanh toán. Chính vì vậy, khó khăn lớn nhất của các đơn vị bao thanh toán trong khi thực hiện nghiệp vụ này là không chắc chắn thu hồi được nợ.
Ngoài ra, đơn vị bao thanh toán có thể gặp rủi ro nếu học cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho hàng được bán theo phương thức ký gửi, hoặc hàng hóa cần được lắp đăt, hoặc hàng hóa có điều khoản bảo hành cho phép người mu không có quyền yêu cầu người bán muc lại hoặc giảm giá nếu hàng hóa không đáp ứng được những yêu cầu nhất định.
Rủi ro thanh khoản
ĐVBTT có thể gặp khó khăn về tính thanh khoản khi luồng tiền ra và luồng tiền vào của đơn vị không tương xứng, cả về lượng và thời gian. Khi đó ĐVBTT sẽ không thể ứng trước cho người bán cho đến khi thu được nợ.
Rủi ro ngoại hối
Đối với nghiệp vụ bao thanh toán xuất – nhập khẩu, khi ứng trước cho người bán hoặc khi thu nợ từ người mua bằng ngoại tệ, lợi nhuận của đơn vị bao thanh toán có thể bị ảnh hưởng khi tỷ giá hối đoái thay đổi.
Thực trạng của dịch vụ bao thanh toán của Việt Nam hiện nay.
Thực trang Dịch vụ bao thanh toán.
Dịch vụ bao thanh toán đã được sử dụng từ lâu tại nhiều nước phát triển trên thế giới. Hiện nay thế giới có một hiệp hội Bao thanh toán quốc tế (FCI ) có 204 thành viên ở các nước trên thế giới (chiếm hơn 50% doanh thu bao thanh toán quốc tế trên thế giới). Bao thanh toán là phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với phương thức thanh toán truyền thống (mở L/C, nhờ thu).
Nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam bắt đầu manh nha từ những năm 1990, nhưng chưa có điều kiện để phát triển. Nhận thấy sự cần thiết của hoạt động bao thanh toán đối với các doanh nghiệp Việt Nam, ngày 06/9/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng (sau này, gọi là Quy chế 1096). Sự ra đời của văn bản pháp lý này bước đầu đã tạo động lực thúc đẩy các tổ chức tín dụng triển khai và phát triển dịch vụ bao thanh toán. Và mãi đến đầu năm 2005, bao thanh toán mới chính thức được triển khai tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài là những tổ chức thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán đầu tiên. Deutsche Bank AG là đơn vị đầu tiên triển khai dịch vụ này vào 01/2005. Tiếp đó, là một số ngân hàng khác cũng đồng loạt triển khai dịch vụ này, như Far East National Bank (02/2005), UFJ Bank (03/2005), City Bank (10/2005), Mizuho Corporate Bank Ltd (09/2009), Ngân hàng Calyon - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh (10/2009), Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên ANZ tại Việt Nam (04/2011), Ngân hàng Shinhan Việt Nam (12/2010), Standard Chartered Việt Nam (07/2011)…
Hiện nay, số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam triển khai thực hiện dịch vụ bao thanh toán đã tăng lên: Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank), Á Châu (ACB), Ngoại thương (VCB), Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), Phương Đông (OCB), Xuất nhập khẩu (Eximbank), Quốc tế (VIB), Đông Nam Á (Seabank), Việt Á, Nam Á, Phát triển nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HDB), Phát triển nhà Hà Nội (Habubank), Hàng hải (MSB), Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex (PG Bank), Ngân hàng TMCP Liên Việt (LienVietBank), Ngân hàng Tiên Phong (TienPhongBank), … . Đặt biệt vào ngày 11/5/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có công văn chấp thuận cho Công ty tài chính cổ phần Điện Lực được thực hiện hoạt động bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất nhập khẩu. Ở Việt Nam hiện có 7 ngân hàng là thành viên của Factors Chain International.
Theo số liệu thống kê của FCI, doanh số bao thanh toán của Việt Nam năm 2009 là 95 triệu Euro. Tuy rằng con số này còn rất nhỏ so với nhiều nước trong khu vực, nhưng nó cũng thể hiện bước chuyển biến tích cực của thị trường bao thanh toán ở Việt Nam. Từ năm 2004 trở về trước, doanh số bao thanh toán của Việt Nam chỉ là con số 0, nhưng đến năm 2009 thì doanh thu này lên đến 95 triện Euro.
Biểu đồ 1: Doanh thu bao thanh toán tại Việt Nam (Đơn vị: Triệu Euro)
Nguồn FCI:( www.factors-chain.com)
Ta thấy doanh số bao thanh toán ở Việt Nam qua các năm có biến động rất mạnh. Doanh thu bao thanh toán xuất nhập khẩu tuy có tăng nhưng vẫn cón khá khiêm tốn so với bao thanh toán nội địa. Sở dĩ như vậy là do các ngân hàng Việt Nam còn dè dặt trong bước đầu triển khai nên chủ yếu thực hiện dịch vụ bao thanh toán trong nước có truy đòi. Tuy nhiên nghiệp vụ bao thanh toán trên lĩnh vực xuất nhập khẩu đang được các ngân hàng trong nước rất chú trọng. (Biểu đồ 2)
Biểu đồ 2: Doanh thu bao thanh toán nội địa và quốc tế
(Đơn vị: Triệu Euro)
(Nguồn FCI: www.factors-chain.com)
Năm 2008, doanh thu bao thanh toán nội địa (80 triệu Euro) gấp 16 lần doanh thu bao thanh toán quốc tế (5 triệu Euro).Đến năm 2009, doanh thu bao thanh toán quốc tế vẫn giữ con số khiêm tốn của năm 2008 là 5 triệu Euro, trong khi đó doanh thu bao thanh toán nội địa lại tăng thêm 10 triệu Euro, tăng 12,5% so với 2008. Điều này cho thấy, các ngân hàng Việt Nam đã bỏ ngõ lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trong khi ở các nước phát triển, chênh lệch giữ doanh thu bao thanh toán nội địa và quốc tế chỉ từ 500% đến 700% mà thôi.
Một số hạn chế của dịch bao thanh toán tại Việt Nam
Qua một thời gian triển khai hoạt động, mặc dù có những dấu hiệu tích cực nhưng tình hình bao thanh toán ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và chưa thể hiện hết những ưu điểm vốn có của nó. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ phía Nhà nước với những bất cập môi trường pháp lý, từ chính bản thân các đơn vị thực hiện bao thanh toán và thái độ của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:
Khung pháp lý:
Ngày 16 tháng 10 năm 2008, Ngân hàng Nhà nược ra Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế hoạt động bao thanh toán của các Tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/9/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, về cơ bản đã khắc phục được những bất cập trong hoạt động bao thanh toán trước đây. Nhưng bên cạnh đó, thì vẫn còn nhiều hạn chế:
Lợi ích của bao thanh toán là không cần dùng hối phiếu để tài trợ và giải quyết mọi tranh chấp thương mại mà chỉ cần có hợp đồng và các hóa đơn thương mại đã được đóng dấu chuyển quyền sở hữu. Hợp đồng bao thanh toán cũng như các hợp đồng thương mại khác sẽ được xem như là cơ sở pháp lý để trong trường hợp có tranh chấp, sẽ được đưa ra trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại để xét xử. Nhưng vấn đề ở đây là, ở Việt Nam, hiệu lực hợp đồng và thậm chí là hiệu lực kết quả xét xử của trọng tài kinh tế hay tòa án thương mại vẫn còn bị xem nhẹ. Rất nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng, không tuân thủ phán quyết của trọng tài và tòa án mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Nói tóm lại, một nguyên nhân khiến bao thanh toán chậm được triển khai ở Việt Nam là do luật pháp của ta chưa nghiêm.
Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết, khởi kiện tại tòa án được xem là cứu cánh cuối cùng và hiệu quả nhất của ngân hàng để thu hồi các khoản nợ khi con nợ cố tình lẫn tránh nghĩa vụ khi đến hạn. Nhưng thực tế cho thấy việc khởi kiện tại tòa án chưa thực sự là phương thức hiệu quả để bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ. Thủ tục tố tụng kinh tế và dân sự còn quá phức tạp, chi phí kiện tụng tốn kém, công tác thi hành án còn nhiều bất cập… Sau một chặng đường dài tốn kém thời gian và tiền bạc, kết quả là ngân hàng vẫn đứng trước nguy cơ không thu hồi được khoản nợ.
Khái niệm bao thanh toán còn khá mới
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng mới có hiệu lực từ ngày 01/10/2004, nên các doanh nghiệp Việt Nam hiểu biết về bao thanh toán còn hạn chế. Các doanh nghiệp lớn có một chút am hiểu về sản phẩm bao thanh toán do được các ngân hàng tiếp thị hoặc thông qua các diễn đàn doanh nghiệp, diễn đàn phát triển kinh tế còn đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn rất mơ hồ khi nghe nhắc đến nghiệp vụ bao thanh toán. Từ đó, họ không có khái niệm sử dụng dịch vụ cũng như lựa chọn dịch vụ phù hợp với việc kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Chi phí cao gây e ngại cho các doanh nghiệp
Bao thanh toán là một nghiệp vụ có nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro từ phía người mua. Vì vậy, dịch vụ bao thanh toán có chi phí tương đối cao, trung bình khoảng 3 – 5% doanh thu. Chi phí cao bởi vì ngoài chi phí để gánh chịu rủi ro, còn bao gồm chi phí quản lý sổ sách, chi phí chuyển phát nhanh và các chi phí phụ khác. Điều này gây tâm lý e ngại cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán.
Ví dụ: Phí bao thanh toán của Ngân hàng Á Châu (chưa kể các khoản phí khác)
Đối với bao thanh toán trong nước:
Lãi được tính trên số tiền mà ngân hàng Á Châu ứng trước cho bên bán hàng. Lãi mà bên bán hàng phải trả được tính theo công thức:
Lãi = [số tiền ứng trước x lãi suất (tháng) x số ngày bao thanh toán]/30
Số ngày bao thanh toán: được tính từ ngày ngân hàng Á Châu ứng trước tiền đến ngày bên mua hàng và/hoặc bên bán hàng thanh toán khoản phải thu cho ngân hàng Á Châu.
Trường hợp bên mua hàng không thanh toán khoản phải thu đúng hạn theo hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thì ngân hàng Á Châu sẽ tính lãi quá hạn cho khách hàng. Lãi quá hạn được tính theo công thức:
Tiền lãi quá hạn = [số tiền ứng trước x lãi suất (tháng) x 150% x số ngày bao thanh toán]/30
Phí được tính trên trị giá khoản phải thu hoặc tính trên hạn mức bao thanh toán được cấp. Với mức phí tối thiểu 200 000 đồng hoặc 0,2% giá trị các khoản phải thu.
Đối với bao thanh toán xuất khẩu:
Lãi được tính trên số tiền ứng trước từ ngày nhà xuất khẩu được giải ngân đến ngày nhà nhập khẩu thanh toán. Lãi được tính tương tự như trong trường hợp bao thanh toán trong nước.
Phí bao thanh toán xuất khẩu gồm: phí bao thanh toán xuất khẩu của ngân hàng Á Châu và phí bao thanh toán nhập khẩu của IF (Import Factor), với:
Phí ACB: 0.1% – 0.15%
Phí IF: 0.5% - 0.7%
Thu lãi và phí:
Phí bao thanh toán được thu một lần ngay khi ngân hàng Á Châu ứng tiền trước cho bên bán hàng.
Lãi bao thanh toán được thu khi bên mua hàng và/hoặc bên bán hàng thanh toán khoản phải thu.
Ngân hàng Á Châu không hoàn lại lãi và phí cho bên bán hàng vì bất kỳ lý do gì.
Ngoài ra, còn phát sinh nhiều chi phí khác như:
Kiểm đếm tiền: đồng Việt Nam: 0,3% (tối thiểu 10 000 đồng, tối đa 1 000 000 đồng) và ngoại tệ (xác định thật giả) 0,2USD/tờ.
Thanh toán trước/ ứng trước hợp đồng nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ 0,20% - 20%; tối thiểu 5USD , thanh toán khác 0,20% - 20%; tối thiểu 5USD
Sản phẩm bao thanh toán chưa có sức hấp dẫn đối với khách hàng
Xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên tài sản thế chấp của tín dụng ngân hàng. Nhưng thực tế ở Việt Nam, tài sản đảm bảo vẫn là vấn đề tiên quyết để nhận được nguồn tài trợ từ các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, tài sản đảm bảo không những được các ngân hàng Việt Nam mà còn được các ngân hàng nước ngoài xem trọng. Điều này cũng là tất yếu, bởi vì, đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro, không cho phép ngân hàng mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài chính không thể tin tưởng được.Chính việc ngân hàng đòi hỏi bên bán phải có tài sản đảm bảo đã làm giảm đi ưu thế của dịch vụ bao thanh toán, đồng thời cũng đã làm mất đi bản chất của dịch vụ này.
Mặt khác, dịch vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thường chỉ chú trọng tới các doanh nghiệp lớn. Dịch vụ bao thanh toán của ngân hàng chưa thật tiện lợi, hệ thống thông tin tín dụng còn thiếu thốn nên để tránh rủi ro, ngân hàng đưa ra những điều kiện rất khó đáp ứng, có đòi hỏi cao đối với khách hàng như phải chứng minh uy tín của bên mua hàng, các khoản phải thu phải thật sự an toàn hay phải có sự bảo lãnh của định chế tài chính khác. Đây thật sự là điều kiện khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với quốc tế, bao thanh toán thường là miễn truy đòi. Sau khi kí hợp đồng bao thanh toán và nhận tiền đầy đủ từ phía tổ chức bao thanh toán, người bán (nhà xuất khẩu) sẽ hết nghĩa vụ đối với hợp đồng đã kí với nhà nhập khẩu. Đây là một trong những ưu điểm nổi bật làm bao thanh toán trở nên hấp dẫn vì nhà xuất khẩu không còn lo lắng, bận tâm với hợp đồng mua bán nữa. Tuy nhiên, vì dịch vụ bao thanh toán còn khá mới mẻ và để đảm bảo an toàn, ngân hàng chỉ thực hiện bao thanh toán có quyền truy đòi. Điều này cũng được xem là một cản trở lớn đối với sự phát triển dịch vụ này tại Việt Nam. Nó làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không muốn sử dụng dịch vụ.
Ngoài ra, bên bán hàng muốn được ngân hàng thực hiện bao thanh toán, khách hàng của bên bán (bên mua hàng) phải được đơn vị bao thanh toán cấp hạn mức tín dụng. Điều này thật sự vô lý, và đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán.
Trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ước và tập quán quốc tế
Sự không thống nhất các qui định về bao thanh toán cũng tạo một rào cản lớn cho sự phát triển của bao thanh toán quốc tế. Bởi vì bao thanh toán quốc tế không những chỉ chịu sự điều tiết của GRIF (General rules for international factoring), mà còn chịu sự điều tiết của luật pháp tại quốc gia của các bên liên quan trong hợp đồng. Ví dụ như: theo GRIF thì không cần phải có xác nhận của người mua đồng ý thanh toán cho đơn vị bao thanh toán. Tuy nhiên, theo Quy chế bao thanh toán tại Việt Nam thì phải có xác nhận này thì hợp đồng bao thanh toán giữa bên bán và tổ chức bao thanh toán mới có hiệu lực. Sự không thống nhất này gây khó khăn cho bên bán và đơn vị thực hiện bao thanh toán.
Mặt khác, mỗi một quốc gia có những qui định cũng như tập quán riêng. Vì vậy, để nắm bắt, am hiểu tất cả các luật lệ quốc tế, điều này thật không đơn giản. Và chính việc không am hiểu luật pháp quốc tế sẽ dễ dẫn đến việc tranh chấp, thua kiện khi ra tòa.
Quan hệ với thị trường nước ngoài còn hạn chế
Trong bao thanh toán quốc tế, người mua và tổ chức bao thanh toán xuất khẩu ở hai quốc gia khác nhau, vì thế việc thẩm định người mua rất khó khăn. Nhất thiết cần phải có sự tham gia hỗ trợ của một tổ chức bao thanh toán tại quốc gia người mua (đơn vị bao thanh toán nhập khẩu). Do đó, một ngân hàng muốn thực hiện bao thanh toán quốc tế tốt, cần phải có mối quan hệ rộng rãi với các tổ chức bao thanh toán khác trên thế giới. Nhưng đa số các ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa đủ điều kiện để mở các chi nhánh tại nước ngoài. Hơn nữa, mối quan hệ với các ngân hàng, đơn vị bao thanh toán nước ngoài còn nhiều hạn chế. Đây thực sự là một khó khăn rất lớn của các ngân hàng Việt Nam.
Những lý do trên là nguyên nhân làm cho nghiệp vụ bao thanh toán không phát triển ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng còn một lý do nữa, đó là chủ yếu nghiệp vụ bao thanh toán chỉ được thực hiện ở hội sở của các ngân hàng. Phần lớn các chi nhánh chưa quen thuộc và cũng chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện cũng như đẩy mạnh tiếp thị dịch vụ này đến khách hàng. Điều này cũng là một rào cản gây khó khăn cho việc mở rộng, phát triển sản phẩm ở thị trường đầy tiềm năng như nước ta.
Một số lý do khác:
Nhiều DN cho rằng, hiện ở Việt Nam dịch vụ bao thanh toán của các ngân hàng vẫn chưa thật tiện lợi. Bởi ngân hàng thường đòi hỏi cao đối với khách hàng, ngoài phí dịch vụ, nhà xuất khẩu phải chứng minh với ngân hàng về uy tín của bên mua hàng hóa. Đây là khó khăn lớn cho nhà sản xuất, bởi sự hiểu biết về thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
Các ngân hàng cũng chưa mặn mà với việc cung cấp dịch vụ này vì chúng ta có quá ít thông tin về tình hình tài chính của người mua, nhất là khách hàng nhập khẩu. Các thông tin nếu công bố công khai cũng không thật sự rõ ràng, minh bạch. Do đó mà khả năng rủi ro cao, các ngân hàng sẽ ngần ngại khi thực hiện dịch vụ này hoặc nếu có thì mức phí cũng không hấp dẫn khách hàng.
Các ngân hàng khi thực hiện bao thanh toán đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro ở mức độ nào đó. Nhưng ở nước ta, rủi ro mất vốn đồng nghĩa với trách nhiệm pháp lý của ngân hàng và cá nhân người quyết định, do đó, các ngân hàng, đặc bịêt là các ngân hàng thương mại nhà nước không thích sử dụng dịch vụ này.
Do bản thân người cung cấp chưa mặn mà với dịch vụ này nên họ không chú trọng công tác marketing, tuyên truyền quảng bá tới khách hàng. Các khách hàng vì vậy cũng ít biết đến loại hình dịch vụ này.
Các biện pháp đề xuất để phát triển dịch vụ bao thanh toán của các ngân hàng.
Giải pháp : hạn chế rủi ro từ người mua.
Vấn đề mà khi các tổ chức tín dụng tham gia vào nghiệp vụ bao thanh toán đó là lợi nhuận từ nghiệp vụ này sẽ mang lại cho ngân hàng là bao nhiêu và rủi ro đối với hình thức này như thế nào, xét cho đúng bản chất, bao thanh toán cũng là một hình thức cấp tín dụng. Vì vậy nó sẽ có những rủi ro như các hình thức cấp tín dụng. Rủi ro ở đây là xuất phát từ phía người mua hàng và cả với người bán hàng. Đối với người bán là người trực tiếp đến giao dịch với ngân hàng, thì doanh nghiệp rất dễ thẩm định, nhưng còn đối với người mua, thì ngân hàng rất khó có thể nắm bắt thông tin và kiểm tra đối với người mua. Do đó rủi ro tín dụng thường cao, dẫn đến hiện nay hình thức bao thanh toán ở Việt Nam mình vẫn là bao thanh toán có truy đòi là chủ yếu và thường có ký quỹ.
Để hạn chế rủi ro cho mình, các ngân hàng hiện nay đã tập hợp thông tin tín dụng của khách hàng và đưa ra một danh sách mà theo đó, nếu bên mua là các bên có tên trong danh sách thì ngân hàng sẽ đồng ý thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Cách giải quyết này có thể hạn chế rủi ro trong việc cấp tín dụng xuất phát từ người mua hàng, nhưng nó cũng làm giảm đi quy mô của việc thực hiện thanh toán của các ngân hàng, vì danh sách của các ngân hàng đưa sẽ không bao trùm hết các người mua có uy tín.
Giải pháp đề ra là : ở đây nếu chỉ có một ngân hàng thực hiện thì số lượng danh sách trong nhóm sẽ rất ít, việc thực hiện đánh giá và lên danh sách này phải do một cơ quan chức năng của nhà nước thực hiện, có khả năng tiếp cận được các thông tin tín dụng trên CIC của hệ thống ngân hàng, sau đó sẽ đánh giá và đưa ra các xếp loại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng của dịch vụ bao thanh toán của Việt Nam hiện nay.docx