Đề tài Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong quá trình hội nhập kinh tế

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Phần I: Lý luận cơ bản về dân số, thị trường lao động và hội nhập kinh tế 2

I. Các khái niệm về dân số có liên quan 2

1. Quy mô, cơ cấu, tốc độ tăng dân số 2

2. Mức sinh và mức chết. 3

3. Biến động cơ học dân số: 4

4. Chất lượng dân số: 5

II. Khái niệm về thị trường lao động 5

1. Khái niệm: 5

2. Khái niệm cung lao động và các yếu tố ảnh hưởng 7

3. Khái niệm về cầu lao động và các yếu tố ảnh hưởng 8

III. Hội nhập kinh tế và mối quan hệ giữa dân số với thị trường lao động và hội nhập kinh tế 9

1. Khái niệm hội nhập kinh tế: 9

2. Mối quan hệ giữa dân số với thị trường lao động và hội nhập kinh tế: 11

3. Mối liên hệ giữa dân số với thị trường lao động và hội nhập kinh tế được thể hiện qua các chỉ tiêu: 11

 

Phần II: Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong tiến trình hội nhập 13

I. Thực trạng dân số Việt Nam: 13

1. Quy mô dân số lớn và tốc độ tăng dân số có xu hướng giảm dần: 13

2. Cơ cấu dân số: 13

3. Phân bố dân số không đồng đều giữa các vùng trong cả nước 14

4. Mức sinh giảm mạnh nhưng vẫn còn ở mức cao và có sự khác biệt giữa các vùng 15

5. Mức chết đã giảm nhưng có sự chênh lệch giữa các vùng: 16

6. Phân bố dân cư không đồng đều: 17

II. Phân tích thực trạng thị trường lao động. 18

1. Quy mô nguồn lao động lớn vầ gia tăng với tốc độ nhanh. 18

2. Năng suất lao động nước ta còn thấp nhưng tốc độ tăng nhanh đặc biệt là trong thời kỳ đỗi mới 18

3. Việc làm còn thiếu cơ cấu việc làm chuyển dịch chậm do cầu lao động hạn chế so với cung lao động 18

4. Tiền công,thu nhập còn thấp đang có xu hướng tăng và có sự khác biệt rõ nét trong các khu vực,các thành phần kinh tế, các loại doanh nghiệp, ngành nghề và các nhóm dân cư: 20

5. Mở rộng thị trường lao động ra nước ngoài: 21

6. Chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường việclàm và quá trình hội nhập: 21

7. Thị trường lao động nước ta vẫn còn phân biệt giữa trong và ngoài nhà nước: 22

III. Tác động qua lại giữa dân số và hội nhập kinh tế 23

1. Tác động của dân số đến thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập 23

2. Tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đến nguồn lao động 25

 

Phần III: Định hướng và giải pháp của nhà nước về giải quyết vấn đề dân số và thị trườnglao động trong quá trình hội nhập kinh tế 29

I. Định hướng của nhà nước 29

1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách và môi trường pháp lý về lao động: 29

2. Đẩy mạnh chuyển dịch lao động theo nghành 29

3. Thực hiện các chủ trương,chính sách để khuyến khích các khu vực, thành phần kinh tế phát triển. 29

4. Có chính sách đủ mạnh đẻ khuyến khích toàn xã hội đẩy nhanh công tác dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 29

5. Có các chính sách bảo hiểm và an sinh xã hội 30

II- Giải pháp để giải quyết vấn đề dân số với thị trường lao động trong quá trình hội nhập kinh tế 30

1. Giải pháp tác động đến cung lao động 30

2. Giải pháp kích cầu lao động. 32

Kết luận 34

Danh mục tài liệu tham khảo 35

 

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1729 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong quá trình hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị bằng dân số hoạt động kinh tế trên tổng dân số trong một năm. Chỉ tiêu này có thể tính cho toàn bộ dân số hay cho từng giới vì có sự khác biệt về mức độ tham gia lực lượng lao động giữa nam và nữ. Ưu điểm: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thô thường dùng để ước tính quy mô của dự trữ lao động trong phạm vi nền kinh tế. Nhược điểm: Vì tính dưới mẫu số là tổng dân số nên bao gồm cả trẻ em và người già,những người trong độ tuổi lao động nhưng không tham gia vào thị trường lao động nên dùng công thức này để so sánh là không chính xác. 3.2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung (GLFPR) Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung phản ánh tỷ lệ dân số tham gia hoạt động kinh tế từ 15 tuổi trở lên trên tổng số dân từ 15 tuổi trở lên. Ưu điểm: Có thể sử dụng để so sánh đơn giản về dân số hoạt động kinh tế. Nhược điểm: Chỉ tiêu này không phản ánh được mức độ tham gia hoạt động kinh tế của mỗi giới nên không có được sự so sánh chính xác về tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khi cần so sánh các giới. 3.3. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đặc trưng theo giới và tuổi (ASSLFPR) Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đặc trưng theo giới và tuổi là chỉ tiêu phản ánh mức độ tham gia hoạt động kinh tế của mỗi giới ở các độ tuổi khác nhau. Nó được đo bằng số người tham gia hoạt động kinh tế ở mỗi tuổi hay độ tuổi của mỗi giới nào đó so với dân số tương ứng ở tuổi hay độ tuổi đó. Ưu điểm: Tỷ lệ này thường dùng để so sánh giữa các vùng khác nhau trong một nước hay giữa các nước trong khu vực bởi nó không bị ảnh hưởng bởi cơ cấu tuổi và giới tính. Nhược điểm: để so sánh chỉ tiêu này thường phải dùng nhiều chỉ tiêu để so sánh. Phần II: Thực trạng dân số Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến thị trường lao động trong tiến trình hội nhập I. Thực trạng dân số Việt Nam: 1. Quy mô dân số lớn và tốc độ tăng dân số có xu hướng giảm dần: Dân số Việt Nam đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam á sau Indonexia và đứng thứ 13 so với thế giới. Quy mô dân số Việt Nam là rất lớn năm 1979 là 52,7 triệu người sau 10 năm tăng lên là 64,4 triệu người tương ứng với thời kỳ này tốc độ tăng dân số là 2,06%. Mặc dù đã thực hiện chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, thực hiện các biện pháp giảm sinh và quy mô gia đình nhỏ nhưng đến năm 1999 dân số Việt Nam là76,43 triệu người tăng lên 11,9 triệu người. Năm 2001 là 78,68 triệu người và năm 2002 là 79,93 triệu. Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm là 1,86% giảm gần 0,5%. Quy mô dân số và kết quả giảm sinh đã đạt được sớm hơn mục tiêu đặt ra trong chiến lược dân số. Năm 2002 tốc độ tăng dân số bình quân nước ta là 1,59%. Như vậy là từ năm 1979 đến 2002 tốc độ tăng dân số bình quân đã giảm dần từ 2,08% năm còn 1,59%. 2. Cơ cấu dân số: Nhóm tuỏi 1979 1989 1999 2001 2002 0-14 41,7% 39,2% 33% 31,3% 30,29 15-59 51,3% 53,7% 59% 60,2% 61,06% 60 7% 7,1% 8% 8,5% 8,65% Nguồn tổng điều tra dân số năm 1979,1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình ngày 1/4/2001và 1/4/2002. Một nước được coi là có cơ cấu dân số trẻ khi mà tỷ lệ người già so với tổng dân số là dưới 10% và tỷ lệ trẻ em là trên 30%. ở nước ta qua các năm thì tỷ lệ tăng dân số đã giảm đi nên tỷ lệ trẻ em giảm dần đồng thời mức sống của người dân được nâng lên nên tuổi thọ bình quân của người già được kéo dài nên tỷ lệ người già so với tổng dân số đã tăng lên. Cơ cấu dân số nước ta cũng có sự khác biệt theo khu vực. Cụ thể cơ cấu dân số rất trẻ ở Tây Nguyên và Lai Châu chỉ có 4% là người già nhưng ở Hà Nội,thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn khác thì tỷ lệ trẻ em lại rất thấp. Ta có bảng số liệu về cơ cấu dân số theo giới tính và nhóm tuổi Việt Nam năm 2002 như sau: Nhóm tuổi Nam% Nữ% Tổng số Tỷ lệ giới tính% 0-4 8,39 7,58 7,98 106,8 5-9 11,89 9,94 10,4 105,7 10-14 12,49 11,36 11,91 106,1 15-19 11,71 10,9 11,3 103,6 20-24 8,46 8,39 8,43 97,3 25-29 8,15 8,05 8,1 97,6 30-34 8,03 7,79 7,91 99,4 35-39 7,72 7,62 7,67 97,8 40-44 6,62 6,93 6,78 92,1 45-49 4,92 5,07 4,99 93,7 50-54 3,29 3,85 3,57 92,3 55-59 2,11 2,5 2,31 81,4 60-64 2,09 2,6 2,35 77,6 >65 5,12 7,4 6,3 96,4 Nguồn điều tra biến động dân số kế hoạch hoá gia đình 1/4/2002. Sự phân bố cơ cấu dân số cũng là một nhân tố giải thích cho sự khác biệt trong phát triển kinh tế giữa các vùng. 3. Phân bố dân số không đồng đều giữa các vùng trong cả nước Ta có bảng số liệu về phân bố dân số như sau : Năm 1989 1999 2002 Thành thị(%) 20,7 23,5 24,92 Nông thôn(%) 79,3 76,5 75,08 Nguồn: tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và biến động dân số kế hoạch hoá gia đình 1/4/ 2002. Phân bố dân số là yếu tố quan trọng cho sự phát triển. Qua bảng số liệu trên cho thấy sự phân bố không đều và có sự khác biệt rất lớn giữa dân số nông thôn và thành thị theo khu vực địa lý kinh tế. Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ có 8,4% dân số cả nước nhưng lại chiếm một tỷ lệ diện tích đất đai lớn là 27%. Nguyên nhân của việc phân bố dân số không đồng đều chủ yếu là do điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam chưa thực sự phát triển và chỉ hơn 10 năm nay khi điều kiện kinh tế đã phát triển nhưng tỷ lệ dân cư thành thị chỉ tăng có 2.8% trong 10 năm từ 1989 đến 1999. Sau ba năm từ 1999 đến 2002 mà tỷ lệ dân cư thành thị chỉ tăng có 1,42%. Mặc dù tỷ lệ dân cư thành thị có tăng lên so với giai đoạn 89-99 nhưng tỷ lệ này vẫn còn thấp so với quá trình phát triển đô thị của các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc phân bố dân cư không đồng đều cũng là nhân tố để giải thích cho quá trình đô thị hoá ở Việt Nam. 4. Mức sinh giảm mạnh nhưng vẫn còn ở mức cao và có sự khác biệt giữa các vùng Qua việc thực hiện chiến lược dân số kế hoạch hoá gia đình mức sinh đã và đang giảm khá nhanh trong hai thập kỷ quavà hiện đang có xu hướng dừng lại. Kết quả thực hiện mực tiêu giảm sinh được thể hiện qua bảng số liệu sau: Năm 1989 1999 2001 2002 CBR(‰) 36,1 29,9 18,6 19 TFR(‰) 3,8 2,33 2,25 2,28 Nguồn tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2002 và 1/4/ 2002. Tỷ suất sinh thô đã giảm khá nhanh từ 36,8(‰) năm 1989 xuống còn 18,6(‰) vào năm 2001 và tăng lên 19 (‰) vào năm 2002 như vậy là tỷ suất sinh thô đã có sự nhích lên đáng. Tốc độ giảm sinh đã đạt gần 1% năm qua thời kỳ 1989 và 1999 đồng thời trong thời kỳ này TFR từ 3,8 xuống 2,33 như vậy bình quân một bà mẹ trong suốt thời kỳ sinh đẻ trong năm 1989 sinh được 3,8 con nhưng đến năm 1999 chỉ còn 2,33 con đến năm 2001 là 2,25 con và năm 2003 là 2,28 con. Có sự khác biệt rất lớn về tổng tỷ suất sinh giữa khu vực thành thị và nông thôn năm 2002 bình quân số con mà một người phụ nữ có thể sinh của khu vực thành thị là 1,93 con, còn của khu vực nông thôn là 2,4 con. Ta có bảng số liệu về sự khác biệt mức sinhữa ku vực thành thị và nông thôn như sau: Vùng địa lý 1999 2001 2002 CBR(‰) TFR(CON) CBR(‰) TFR(CON) CBR(‰) TFR(CON) Cả Nước Thành thị Nông thôn ĐBSH ĐBắc TBắc BTBộ DHNTB TNguyên ĐNBộ ĐBSCL 19,9 15,9 21,2 16,2 19,3 28,9 21,4 21 29,8 18,2 16,8 2,3 1,7 2,6 2,6 2,3 3,6 2,8 2,5 3,9 1,9 2,1 19,6 15,4 19,7 16,4 18,1 25,4 18,5 18,7 27 18,3 18,6 2,25 1,9 2,4 2,1 3,1 2,7 2,5 3,6 2,2 2,2 19 16,9 19,6 17,2 18,9 24,1 18,3 20,5 24,7 17,5 17,7 2.28 1,9 2,4 2,1 2,3 2,3 2,6 2,4 3,2 2,0 2,0 Nguồn: Tổng điều tra dân số năm 1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/ 2001 và 1/4/ 2002. Có sự khác biệt rất lớn về tổng tỷ suất sinh trên nên ở nông thôn vẫn tồn tại tâm lý thích có con trai và còn nhiều nguyên nhân khác nữa như điều kiện sống khó khăn còn nặng về các phong tục tập quán… 5. Mức chết đã giảm nhưng có sự chênh lệch giữa các vùng: Cùng với quá trình đổi mới và có sự thay đổi về đường lối phát triển kinh tế thì đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được tăng cường. Mạng lưới y tế và chăm sóc sức khoẻ cho nhân được đầu tư tăng cường nên mức chết của trẻ sơ sinh đã giảm đồng thời tuổi thọ của người dân được nâng lên. Ta có bảng số liệu về mức chết thô và tỷ suất chết của trẻ em dưới một tuổi như sau: Năm 1989 1999 2001 2002 CDR(‰) 7,3 5,7 5,1 5,8 IMR(‰) 42,3 36,7 29,5 26 Nguồn tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2001 và 1/4/2002. Tỷ suất chết của người dân đã có sự giảm đi đáng kế từ 7,3 người chết trên tổng số 1000 dân năm 1989 đã giảm đi xuống còn 5,8 người chết trên 1000 người dân năm 2002 đây là kết quả của việc quan tâm đến đời sống vật chất cho người dân. Mức chết của trẻ em Việt Nam đã có sự giảm đi nhanh chóng từ 42,3 trẻ em sinh ra bị chết trong năm đầu năm 1989 đã giảm xuống còn 26 trẻ em sinh ra và bị chết đi trong năm đầu tiên. Mức chết của trẻ em Việt Nam mặc dù đã có sự giảm đi nhanh chóng song so với các nước trên thế giới thì mức chết này vẫn còn cao. IMR của trẻ em thế giới là 12 trẻ em sinh ra bị chết trên 1000 trẻ em sinh ra trong năm đó nhưng so với các nước đang phát triển thì mức chết của trẻ em nước ta là thấp vì IMR của các nước đang phát triển là 64 trẻ em bị chết trên 1000 trẻ em sinh ra trong năm đó. Mức chết thô ở nước ta là thấp nhưng lại có sự chênh lệch lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn. Ta có bảng số liệu về mức chết của người dân như sau: Năm 2001 2002 CDR(‰) IMR(‰) CDR(‰) IMR(‰) CDR(‰) IMR(‰) Cả nước 5,7 36,7 5,1 29,5 5,8 26 Thành thị 4,2 18,3 3,8 20,4 4,5 17 Nông thôn 6 41 5,4 32,5 6,3 28,8 Nguồn tổng điều tra dân số năm 1989,1999 và điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2001và 1/4/ 2002. Tỷ suất chết thô ở nước ta đã giảm dần từ 5,7(‰) năm 1999 còn 5,1(‰) năm 2001 nhưng lại tăng lên 5,7 (‰) vào năm 2002. Nguyên nhân là do cơ cấu dân số nước ta ngày càng bị lão hoá mặc dù mức chết đã giảm xuống đáng kể nhưng lại có sự chênh lệch rất lớn giữa thành thị và nông thôn. Tỷ suất chết sơ sinh của khu vực nông thôn cao hơn 1,6 lần khu vực thành thị. Trong đó khu vực Tây bắc và tỉnh Tây Nguyên có mức chết sơ sinh lại khá cao do điều kiện của khu vực không đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. 6. Phân bố dân cư không đồng đều: Dân số nước ta chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn là chủ yếu. Năm 1989 dân cư ở khu vực nông thôn là 79,5% dân số và chỉ có 20,3% dân số thành thị nhưng đến năm 1999 dân cư ở khu vực nông thôn đã giảm đi 3% và dân cư ở khu vực thành thị tăng lên là 20,3%. Dân cư nước ta chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân lịch sử để lại như di chuyển dân cư về nông thôn và làn sóng di dân vào từ các tỉnh phía bắc vào Tây Nguyên nên dân cư khu vực thành thị ít. II. Phân tích thực trạng thị trường lao động. 1. Quy mô nguồn lao động lớn vầ gia tăng với tốc độ nhanh. Số người trong độ tuổi lao động trong độ tuổi từ 15 -60 tuổi năm 1979 là 26,572 triệu người đến năm 1989 tăng lên 8,5 triệu người và đến năm 1999 là 44.566 triệu người. Sau 20 năm nguồn lao động đã tăng lên gần 18 triệu người. Như vậy cung nguồn nguồn nhân lực mỗi năm tăng gần 1 triệu người. Mặc dù tốc độ tăng dân số giảm dần nhưng nguồn lao động lại có xu hướng giảm do nguồn lao động chịu sự tác động của quy mô dân số từ 15 năm trước. Qua 10 năm 1989-1999 tốc độ tăng nguồn nhân lực đã có sự giảm dần từ 3,03% còn 2,7% và đến năm 2002 là 2,66%. Trong thập kỷ vừa qua dân số nước ta đang chuyển dần từ cấu trúc cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số vàng dư lợi về dân số. Ước tính trong thời gian tới mức tăng dân số trong độ tuổi lao động là 2,4%/năm. Đây là mức tăng nguồn lao động tương đối cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Dự báo trong hai thập kỷ tới dân số nước ta sẽ duy trì cơ cấu dân số vàng với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng và sẽ đạt gần 70% vào năm 2009 với con số tuyệt đối là 56 triệu người. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi khi một quốc gia chuyển từ quá độ dân số sang mức chết thấp ổn định và giảm liên tục. Do đó nước ta cần cần phát huy tối đa nguồn lực sẵn có và huy động các nguồn lực từ bên ngoài để sử dụng hết các điều kiện thuận lợi của nguồn nhân lực. 2. Năng suất lao động nước ta còn thấp nhưng tốc độ tăng nhanh đặc biệt là trong thời kỳ đỗi mới Thu nhập quốc quốc nội trên đầu người nước ta hiện nay khoảng 400$ Mỹ tính theo sức mua tương đương thì chỉ đạt xấp xỉ 2000$ Mỹ thuộc nhóm các nước có thu nhập thấp. Năm 2001 so với năm 1989 giá trị sản xuất nông nghiệp tính theo giá so sánh tăng gấp 5,5 lần. Giá trị sản xuất nông nghiệp tính theo giá so sánh năm 2002 gấp 82,9 lần năm 1989. Tuy nhiên do tốc độ tăng dân số tăng nhanh năm 2001 so với 1989 là 4 lần và năm 1989 so với năm 1975 là 1,6 lần nên năng suất lao động xã hội nhìn chung tăng chậm hơn tốc độ tăng dân số. 3. Việc làm còn thiếu cơ cấu việc làm chuyển dịch chậm do cầu lao động hạn chế so với cung lao động Theo số liệu thống kê về lao động và việc làm số người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên đã tăng từ 33,978 triệu người năm 1999 lên 37,677 triệu người năm 2001và 39,289 triệu người năm 2002. Như vậy là tính trung bình trong thời kỳ từ 1996 đến 2001 có tốc độ tăng việc làm thường xuyên là 2,1%/năm. Năm 2002 là năm có số việc làm tạo ra cho người lao động là tương đối cao tương ứng với số tuyệt đối là 740 nghìn lao động. Mặc dù cầu lao động đã có sự tăng lên đáng kể nhiều việc làm mới được tạo ra, nhiều ngành công nghiệp mới được đầu tư phát triển song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của người lao động. Chính vì vậy mà tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị tuy đã giảm so với trước song vẫn còn ở mức cao và là 5,85%. Ta có bảng số liệu về tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động theo độ tuổi lao động của khu vực thành thị 1/7/2001và 1/7/2002 như sau: Vùng lãnh thổ 2001 2002 Tổng Nữ Tổng Nữ Toàn quốc 6,28% 6,985 6,01% 6,85% Đồng Bằng Sông hồng 7,07% 7,01% 6,64% 6,65% Đông Bắc 6,73% 7,3% 6,1% 6,27% Tây Bắc 5,62% 4,79% 5,11% 3,46% Bắc Trung Bộ 6,72% 6,64% 5,82% 5,67% Duyên Hải Nam Trung Bộ 6,16% 7,63% 5,49% 6,55% Tây Nguyên 5,55% 6,698% 4,92% 5,91% Đông Nam Bộ 5,92% 6,72% 6,31% 7,84% Đồng Bằng Sông Cửu Long 6,08% 7,69% 5,52% 6,8% Nguồn điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình 1/4/2001và 1/4/2002. Như vậy là đồng bằng sông hồng là khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất cả nước chiếm 7,07% vào năm 2001 và 6,64% vào năm 2002. Đồng bằng sông hồng là nơi có mật độ dân số cao nhất trong cả nước và là nới phải chịu sức ép lớn của vấn đề gia tăng dân số. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông hồng và đông nam bộ nhưng tỷ lệ thất nghiệp chủ yếu tập trung vào lực lượng lao động trẻ có tiềm năng và sức lao động dồi dào có khoảng 49,5% số lao động thất nghiệp ở khoảng tuổi từ 15-24 và 25,4% là ở khoảng tuổi từ 25-34 còn lại là ở các độ tuổi khác. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn mặc dù đã tăng từ 72,11%năm 1996 lên 75,41% năm 2002. Song vẫn còn một phần tư thời gian lao động không được sử dụng. Dân số nước ta ở nông thôn chiếm khoảng 75,6% số hộ thuần nông lại chiếm đa số còn lại là số hộ làm nông nghiệp kiêm ngành nghề phi nông nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Số lao động làm trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp là 23.84 triệu chiếm 60,27% lao động đang làm việc trong ngành kinh tế quốc dân 5,52 triệu đang làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 15,13% còn lại là lao động trong ngành dịch vụ với 9,51 triệu người chiếm 24,2%. Như vậy là số lao động trong ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ đã tăng lên còn lao động trong ngành nông nghiệp lại giảm dần. Trong số lao động được tạo ra cho người lao động thì khu vực nhà nước tạo ra khoảng 10% còn lại khoảng 90% là của khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Trong thời kỳ 1996-2001 trung bình mỗi năm khu vực kinh tế nhà nước tăng thêm 159 nghìn chỗ làm việc ngoài nhà nước tăng 510 nghìn và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 56 nghìn chỗ làm việc. Như vậy khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra chỗ làm việc nhanh nhât chiếm 43% tổng số việc làm tạo ra. 4. Tiền công,thu nhập còn thấp đang có xu hướng tăng và có sự khác biệt rõ nét trong các khu vực, các thành phần kinh tế, ngành nghề và các nhóm dân cư: Theo thống kê năm 2001 thu nhập bình quân tháng của một lao động ở khu vực nhà nước đạt gần 900000 đồng. Sự khác biệt rõ nét trong thu nhập của doanh nghiệp nhà nước trung ương là 1156000 đồng và doanh nghiệp địa phương là 698000đồng. Giữa các ngành nghề cũng có sự khác biệt chẳng hạn giữa giao thông vận tải là 1150000 và ngành thuỷ sản là 643000 đồng. Các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra mức thu nhập cao nhất cho người lao động trong khi đó khu vực kinh tế tập thể laị ở mức thấp nhất. Tiền lương của lao động khu vực thành thị cao hơn của khu vực nông thôn khoảng 44%, của lao động nam cao hơn lao động nữ 21%. Vùng Đông Nam Bộ có mức tiền công và các khoản tiền thưởng,phụ cấp trung bình hàng tháng cao nhất cho người lao động. Qua hai cuộc điều tra mức sống dâ cư 92-93 và 97-98 ta thấy mức- thu chi bình quân một nhân khẩu đã tăng lên nhưng còn thấp so với các nước trong khu vực,cơ cấu nguồn thu chuyển biến còn chậm,thu chi đã tăng lên nhưng chênh lệch mức sống cũng tăng lên. Thu nhập của khu vực thành thị so với nông thôn năm 1996 gấp 2,7 lần thì nănm 1999 đã tăng lên 3,7 lần và chi cho đời sống tương ứng với 2,3 và 3,2 lần. 5. Mở rộng thị trường lao động ra nước ngoài: Thị trường lao động nước ngoài chính là việc đưa lao động chuyên gia, người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Như vậy xuất khẩu lao động đóng một vai trò quan trọng trong làm tăng cầu lao động giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động và giảm bớt khó khăn cho vấn đề giải quyết việc làm ở trong nước. Trong năm 2002 thì xuất khẩu lao động và chuyên gia đã đã trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ của chương trình quốc gia giải quyết việc làm. Xuất khẩu lao động đã đóng một vai trò rất quan trọng góp phần giải quyết việc làm, nâng cao trình độ lành nghề của người lao động làm cho người lao động làm quen với tác phong công nghiệp đồng thời làm tăng thu nhập xã hội. Chính xuất khẩu lao động đã góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa các nước và các khu vực trên thế giới. Ngoài ra nó còn làm tăng lượng ngoại tệ vào trong nước do người lao động tích luỹ từ nước ngoài gửi về nước. Cho đến nay lao động nước ta đã làm việc cho gần 40 nước và vùng lãnh thổ. Với nhiều biến động về kinh tế và chính trị của khu vực và trên thế giới các thị trường tiếp nhận lớn lao động nước ta vẫn được tăng cường và không ngừng mở rộng. ở khu vực Đông Bắc á các thị trường Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản được tập trung điều chỉnh về chính sách tiếp nhận lao động. Thị trường Malaysia chỉ sau gần 8 tháng đã có gần 20000 lao động sang làm việc và trở thành một thị trường có nhu cầu tiếp nhận lớn lao động Việt Nam tại khu vực Đông Nam á. Như vậy là năm1990 mới chỉ có 1000 người đi xuất khẩu lao động thì đến năm 2001 đã tăng lên 37000 và 2002 là 46000. Sau 11 năm số lượng người đi xuất khẩu lao động đã tăng lên 46 lần. Để có được sự phát triển mạnh mẽ này cùng với việc đầu tư ổn định thị trường thì vai trò của nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu lao động đuợc đầu tư tăng cườngvà tập trung vào những khâu cơ bản khắc phục những bất cập trong vấn đề xuất khẩu lao động. Nhiều hệ thống văn bản được ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động xuất khẩu lao động phù hợp với sự vận động của từng thị trường và chất lượng của nguồn lao động, đơn giản hoá các thủ tục và giảm các chi phí. 6. Chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường việclàm và quá trình hội nhập: Đặc điểm nổi bật của thị trường lao động nước ta là quy mô nguồn lao động lớn nhưng chất lượng nguồn lao động lại chưa cao. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có sự chênh lệch lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn. ở khu vực thành thị tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn là 46,6%còn ở khu vực nông thôn là 11,89%. Trong tám vùng lãnh thổ kinh tế thì khu vực ĐôngNam Bộ có tỷ lệ lao động qua đào tạo lớn nhất cả nước tương ứng với 31,8% thấp nhất là khu vực Tây Bắc với 90,18% lao động chưa qua đào tạo. Để đạt được mục tiêu phấn đấu của đại hội đảng đưa ra về nâng cao chất luợng nguồn nhân lực thì chúng ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Lao động nước ta đông về số lượng nhưng lại yếu về thể lực, tay nghề, tỷ lệ lao động được đào tạo phục vụ cho các ngành kinh tế quốc dân cũng bất hợp lý. Theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực thì một cơ cấu lao động được đào tạo họp lý khi mà một cử nhân, ky sư tốt nghiệp đại học, cao đẳng cần 4 cán bộ tốt nghiệp trung học và 10 công nhân kỹ thuật. Trong khi đó tỷ lệ này tương ứng ở nước ta năm 1979 là 1 - 2,2 - 7,1 năm 1979 số lượng công nhân kỹ thuật chiếm 70% nhưng đến năm 1999 con số này là 30% trên tổng số lao động được đào tạo. Mặc dù trình độ phổ cập giáo dục ở nước ta là tương đối cao nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động lại là một nghịch lý cho quá trình phát triển công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Tuy nhiên tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật lại phân bố không đồng đều tập chung chủ yếu ở các tỉnh và thành phố lớn. Lực lượng lao động tiếp tục tăng nhưng lại thiếu nhiều tố chất cần thiết cho quá trình cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới. Lực lượng lao động nước ta khéo léo, thông minhvà có năng lực tiếp thu khoa học và công nghệ được chuyển giao từ bên ngoài nhưng còn nhiều hạn chế khi tham gia hoạt động sản xuất mang tính chất chuyên nghiệp. Mặc dù tỷ lệ lao động có trình độ cao tăng nhưng thực tế thì thị trường lại thiếu các loại lao động cao,các chuyên gia và kỹ thuật viên lập trình các nhà quản lý trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thu thị truờng. Trong các doanh nghiệp phần lớn các nhà quản lý chưa được đào tạo sâu sắc về kinh tế kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Họ có khả năng tiếp thu nhanh nhưng còn thiếu kiến thức đồng bộ. Các doanh nghiệp nước ta thường lúng túng khi tham gia ký kết đàm phán với các doanh nghiệp nước ngoài. Khả năng làm việc độc lập của lao động nước ta là rất cao nhưng khả năng làm việc theo nhóm còn rất nhiều hạn chế. 7. Thị trường lao động nước ta vẫn còn phân biệt giữa trong và ngoài nhà nước: Tình trạng chia cắt rõ nét nhất là giữa lao động trong và ngoài khu vực nhà nước tạo nên một tâm lý biên chế nhà nước còn khá nặng nề kể cả trong số lao động trẻ có trình độ. Khu vực nhà nước tạo cho người lao động một tâm lý ổn định và lâu dài về nơi làm việc, tiền lương cũng như các chế độ lao động khác. Tuy nhiên do nhiều nhân tố chủ quan cũng như khách quan biên chế cùng với thời gian đã trỏ nên cứng nhắc kém hiệu quả làm chậm quá trình đổi mới. III. Tác động qua lại giữa dân số và hội nhập kinh tế 1. Tác động của dân số đến thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập Dân số và nguồn nhân lực là hai phạm trù không tách rời nhau mà luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Quy mô dân số lớn làm cho quy mô nguồn nhân lực lớn tuy nhiên khẳ năng của cầu lao động có hạn làm cho nhiều vấn đề về thị trường lao động trở nên cấp bách. Ta có thể khái quát các dòng di chuyển lao động như sau: Thứ nhất:Dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố,thị xã để làm thuê hoặc hành nghề tự do, buôn bán,…Mặc dù ở thành thị vẫn tồn tại một tỷ lệ thanh niên chưa có việc làm hay thất nghiệp cao nhưng có những việc mà thanh niên thành thị cho là thu nhập thấp,nặng nhọc…nên họ không muốn làm và những công việc này lại trở nên lý tưởng đối với thah niên nông thôn. Dòng di chuyển lao động này ngày càng tăng khi mà diện tích đất đai nông nghiệp bình quân trên đầu người giảm,việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn chưa phát triển cùng với cơ chế khoán trong nông nghiệp làm cho người lao động di chuyển tự do nơi làm việc. Thứ hai là dòng di chuyển lao động từ vùng đồng bằng đông dân di hành nghề tự do hay làm thuê ở các vùng trung du miềm núi. Hình thức di chuyển này chủ yếu là lao động có kỹ thuật có tay nghề. Thứ ba: Dòng di chuyển lao động từ miền bắc vào miền nam diễn ra khá mạnh mẽ. Thời kỳ đầu dòng di chuyển lao động này chủ yếu do yếu tố lịch sử nhưng sau này việc di chuyển này là do chính sách mở cửa và điều kiện việc làm thuận lợi tại nơi đến. Dòng di chuyển này chủ yếu là lao động của các tỉnh và miềm núi phí bắc vào Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Thứ tư: Dòng di chuyển lao động ra khỏi khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực inh tế ngoài quốc doanh và dòng di chyển lao động ra khỏi khu vực lãnh thổ nước ta chủ yếu nhất là xuất khẩu lao động và chuyên gia. Do chính sách mở cơ chế và điều kiện làm việc có lợi hơn cho người lao động. Các dòng di chuyển lao động chủ yếu trên đã góp phần điều chỉnh và giảm sức ép về vấn đề việc làm do thị trường lao động hoạt động sôi động,đa dạng và phong phú. Cùng với quá trình hình thành và phát triển của thị trường lao động đã tạo cơ sở kinh tế cho sự hình thành và phát triển của các quan hệ lao động thúc đẩy các hình thức tuyển dụng lao động một cách mạnh mẽ hơn. Trên thị trường lao động nước ta có cá hình thức tuyển dụng lao động chủ yếu sau: Một là tuyển và thi tuyển : Hình thức nay chủ yếu áp dụng cho khu vực hành chinh sự nghiệp. Việc thi tuyển được thực hi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35513.doc
Tài liệu liên quan