Chương1:sự cần thiết của lao động kỹ thuật trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
I. Khái quát về thị trường lao động việt nam.
II. Vai trò của lao động kĩ thuật hiện nay
1. Một số khái niệm cơ bản
2.đặc điểm của lao động kĩ thuật .
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng lao động kĩ thuật.
2.1. ảnh hưởng đến số lượng lao động kĩ thuật
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động kĩ thuật
3. Vai trò của lao động kĩ thuật trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chương2:thực trạng đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật của việt nam hiện nay.
1. Khái quát về tình hình phát triển chung của lực lượng lao động
2.đào tạo lao động kĩ thuật
2.1 số lượng
2.2 chất lượng
2.3 đào tạo không theo nhu cầu của nền kinh tế(đào tạo không theo tín hiệu của thị trường)
3.thực trạng sử dụng lao động kĩ thuật hiện nay
4.1 Thực trạng giải quyết việc làm lao động kĩ thuật
4.2 Những kết quả đạt được và những tồn tại cần giải quyết khắc phục
4.3 Khủng hoảng thiếu về lao động lành nghề có tay nghề cao
Chương3:định hướng.giải pháp đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật
1.định hướng đào tạo và sử dụng
1.giải pháp chính sách của nhà nước
2.phía doanh nghiệp
3.phía người lao động kĩ thuật
4.sự kết hợp giữa nhà nước doanh nghiệp và người lao động.
5.kết hợp đào tạo quốc tế.
Kết luận:
- danh mục tài liệu tham khảo
38 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật của VN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao. Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề đào tạo lực lượng lao động kĩ thuật trẻ ở Việt Nam hiện nay.Thực hiện chủ trương đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đến nay nước ta đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ. Trở thành thành viên chính thức của WTO, lực lượng lao động Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức to lớn.
Trước hết, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra một "dòng chảy" về vốn và công nghệ, dịch vụ từ các nước phát triển vào Việt Nam. Khi gia nhập WTO nhiều chuyên gia đánh giá Việt Nam đang có một "làn sóng đầu tư thứ hai" với diện rộng và cường độ lớn. Tiêu biểu là việc Nhật Bản đầu tư vào khu công nghệ cao Hoà Lạc( Hà Tây) với tổng số vốn lên đến 1 tỉ USD, Hoa Kỳ đã có 298 dự án đầu tư vào nước ta với tổng số vốn đăng kí trên 2 tỉ USD ( riêng tập đoàn Intel đầu tư 1 tỉ USD). Đã có 16/21 nền kinh tế thành viên của APEC đầu tư vào Việt Nam với 5681 dự án và tổng số vốn đăng kí 41,7 tỉ USD ( vốn thực hiện trên 20 tỉ USD). Dự báo từ năm 2007 trở đi sẽ có thêm nhiều công ty, các tập đoàn kinh tế đến đầu tư làm ăn tại nước ta với quy mô ngày càng lớn trên nhiều ngành nghề lĩnh vực khác nhau. Như vậy, để sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư chúng ta phải tập trung đào tạo nâng cao trình độ tay nghề của lực lượng lao động, đây cũng là yếu tố quyết định tới sự thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện rất thuận lợi cho Việt Nam phát huy lợi thế so sánh, tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các công ty trong và ngoài nước cạnh tranh mạnh mẽ với nhau để giành năng suất lao động cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn. Việc đầu tư vào công nghệ sản xuất tiên tiến và trình độ quản lí sản xuất hiện đại đang và sẽ là yêu cầu cấp thiết đặt ra. Muốn tồn tại và phát triển trong một " thế giới phẳng" nhưng cạnh tranh khốc liệt hiện nay, vư ợt lên trên lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lí chính là yếu tố chất lượng nguồn nhân lực và việc sử dụng nó một cách tốt nhất. Thực tế cho thấy, một số nước như Hàn Quốc, Singapor, Hồng Kông... nhờ có sự đầu tư phát triển nguồn nhân lực nói chung và lực lượng lao động trẻ nói riêng mà chỉ trong một thời gian ngắn họ đã nhanh chóng trở thành những "con rồng" châu Á. Ở các nước có trình độ tiên tiến, sự đóng góp của tri thức đang ngày càng chiếm tỉ trọng cao trong GDP (ở Mĩ: 50%, Anh: 48,5%, Pháp: 45,1%). Riêng ở Việt Nam, yếu tố này còn thấp, sự tăng trưởng kinh tế có tới 60% là do yếu tố vốn mang lại. Hiện nay, tỉ lệ lao động qua đào tạo ở nước ta mới đạt 27%, các nước đang phát triển trong khu vực là 50% đến 60%, còn đối với các nước phát triển thì hầu như 100% lực lượng lao động đã được qua đào tạo. Để cạnh tranh có hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế tri thức, chúng ta chỉ có thể tập trung đào tạo nâng cao trình độ kĩ thuật cho người lao động. Thứ ba, hội nhập kinh tế, Việt Nam sẽ tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hoá. Sau khi gia nhập WTO, thị trường sức lao động ở nước ta sẽ có những biến động lớn, vận động theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực và đứng trước sự cạnh tranh rất gay gắt. Với khoảng 83 triệu dân ( đứng 13 thế giới) trong đó có trên 42 triệu người ở độ tuổi lao động ( hơn 30 triệu trong độ tuổi thanh niên),Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn lao động dồi dào và rất trẻ. Song thực tế lao động nước ta có sức cạnh tranh thấp so với các nước trong khu vực, giá nhân công rẻ là yếu tố duy nhất được đánh giá cao (rẻ hơn Trung Quốc 20-30%). Tuy nhiên, hiện nay, tại các khu công nghiệp, 75% lao động mới có trình độ học vấn trung học cơ sở trở xuống. Ở khu kinh tế Dung Quất đang có tình trạng máy móc "nằm chờ" công nhân có tay nghề cao vận hành. Lao động Việt Nam không chỉ yếu về kĩ năng nghề nghiệp, thiếu hiểu biết về pháp luật mà phần đông hạn chế về trình độ ngoại ngữ. Một bộ phận vẫn còn thói quen và tập quán của người sản xuất nhỏ, chưa có ý thức và kỷ luật của lao động công nghiệp. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới dự tham gia của lao động Việt Nam trong việc phân công lao động quốc tế ngay tại thị trường trong nước ( khi có sự tham gia của các doanh nghiệp liên doanh, của các công ty đa quốc gia). Điều đó cho thấy, để cạnh tranh được trên thị trường sức lao động trong nước cũng như quốc tế, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là phải tăng cường đào tạo lực lượng lao động kĩ thuật nước ta đủ khả năng đáp ứng với yêu cầu của các ngành sản xuất. Một số giải pháp đào tạo lao động kĩ thuật trẻ:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ:" Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho việc xuất khẩu lao động". Theo định hướng lớn trên, để đào tạo lực lượng lao động kĩ thuật trẻ trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay chúng ta cần tập trung vào các giải pháp sau:Một là, đổi mới nhận thức xã hội về lao động kỹ thuật, nhất là nhận thức của thanh niên trong xác định xu hướng nghề nghiệp, khắc phục tâm lý xem nhẹ, hạ thấp vai trò của lao động kỹ thuật trong xã hội.Đặc điểm nổi bật của người dân Việt Nam là tâm lí trọng khoa cử, trọng bằng cấp. Thông thường, học sinh bậc trung học phổ thông dù có học lực thế nào cũng đăng kí dự thi vào một trường đại học nhất định, rất ít học sinh ngay từ đầu lựa chọn giải pháp học nghề. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, việc lập nghiệp của thanh niên không chỉ là vào học ở các trường đại học, mà học nghề, đào tạo nghề đang và sẽ là hướng đi đúng đắn. Khi nước ta đã gia nhập WTO sẽ có thêm nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư và có nhiều doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế được thành lập. Điều đó cho thấy nhu cầu tuyển dụng lao động sẽ rất cao, người lao động dù ở bất cứ ngành nghề lĩnh vực nào nếu có trình độ, kĩ năng nghề nghiệp đều có cơ hội rất lớn tìm được việc làm và có thu nhập thoả đáng. Thực tế hiện nay, học viên ở các trường dạy nghề sau khi tốt nghiệp về cơ bản có việc làm ổn định trong khi đó phần đông sinh viên các trường đại học khó tìm được việc hoặc làm trái với chuyên môn đào tạo. Thực tiễn sinh động trên đã và đang tác động mạnh mẽ đến nhận thức của các bậc phụ huynh và học sinh trong lựa chọn nghề nghiệp. Hai là, đổi mới một cách cơ bản và toàn diện hệ thống các trường đào tạo nghề (đặc biệt là lao động nông nghiệp, nông thôn khi Việt Nam gia nhập WTO). Đào tạo nghề phải xuất phát từ yêu cầu của sản xuất, phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng địa phương, gắn với tạo việc làm, giảm thất nghiệp. Cần quan tâm đào tạo nghề cho lực lượng thanh niên nông thôn và bộ đội xuất ngũ. Phát triển hệ thống đào tạo nghề theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Cần sớm hiện thực hoá đề án " Quy hoạch phát triển mạng lưới các trường cao đẳng nghề, trung tâm dạy nghề đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020" của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, phấn đấu đến năm 2010, có 90 trường cao đẳng nghề, 270 trường trung cấp nghề ( trong đó có 40 trường chất lượng cao, 3 trường tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới).Ba là, thực hiện tốt công tác phân luồng học sinh để đáp ứng yêu cầu về số lượng và nâng cao chất lượng đầu vào cho các trường đào tạo nghề.Kết quả của một số khảo sát mà Bộ Giáo dục-Đào tạo chuẩn bị cho hội nghị "Đào tạo theo nhu cầu xã hội" cho thấy, tỷ lệ nguồn nhân lực các trình độ cung cấp cho nhu cầu phát triển xã hội mất cân đối nghiêm trọng. Số lao động trình độ cao đẳng, kỹ thuật viên chỉ chiếm 4,5%, lao động giản đơn đang được sử dụng trong các khu chế xuất và khu công nghiệp ở một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 60%. Một số liệu khác từ điều tra của Dự án giáo dục Đại học cho thấy có sự mất cân đối giữa các ngành đào tạo. Cụ thể, sinh viên nhóm ngành kinh tế và quản lý chiếm tỷ trọng cao nhất với 29,86%; trong khi số sinh viên ngành kỹ thuật công nghệ chỉ chiếm 15,29%. Thực tế ấy cho thấy vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là phải nhanh chóng làm tốt công tác phân luồng học sinh để tạo nguồn đào tạo lao động kỹ thuật hợp lý. Theo dự kiến của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đến năm 2010 số lượng trường dạy nghề sẽ tăng nhanh chóng, do đó ngay từ bây giờ chúng ta cần phải làm tốt công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. Thực hiện phân luồng học sinh một mặt sẽ góp phần giải quyết vấn đề số lượng và chất lượng đầu vào cho các trường đào tạo nghề từ đó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường sức lao động hiện nay và các năm tiếp theo. Mặt khác, thực hiện thành công việc phân luồng học sinh sẽ giảm được áp lực thi cử, một vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm trong thời điểm hiện nay. Chủ động trong công tác này, các trường dạy nghề cần đổi mới mô hình tổ chức đào tạo, tăng cường đào tạo liên thông, đa cấp học, đa ngành học phù hợp với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực ở nước ta.Bốn là, tăng cường hợp tác đào tạo với các nước có trình độ tiên tiến để phát triển lực lượng lao động kĩ thuật cao đủ sức cạnh tranh khi hội nhập WTO. Thời gian qua, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong đào tạo nhân lực xuất khẩu lao động, tạo hướng mở quan trọng trong tăng cường hợp tác đào tạo với các nước có trình độ tiên tiến để phát triển lực lượng lao động kĩ thuật cao đủ sức cạnh tranh khi hội nhập WTO. Năm 2006, Việt Nam đã đưa được hơn 78.800 lao động sang nước ngoài làm việc và mục tiêu cho năm 2007 sẽ là 80.000 lao động. Tuy nhiên, mục tiêu cần đặt ra là phải chú trọng hợp tác đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả "nội địa" và xuất khẩu. Trước mắt, trong triển khai đưa lao động sang các thị trường truyền thống như: Nga, Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, hướng tới các thị trường mới như: Úc, Canada, Macao, Mỹ; nghiên cứu giải pháp mở lại thị trường Cộng hoà Síp, Cộng hoà Séc..., Việt Nam cần tăng cường mở rộng các hình thức đào tạo nghề liên kết với các trường danh tiếng của nước ngoài, trước mắt cần tập trung vào đào tạo đội ngũ giáo viên trẻ cho một số ngành nghề đòi hỏi kĩ thuật cao. Khuyến khích, và tạo điều kiện để các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài tham gia tích cực vào quá trình đào tạo lực lượng lao động kĩ thuật. Theo chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư cho hoạt động đào tạo nghề giai đoạn từ nay đến năm 2010, nhằm khắc phục tình trạng thừa thầy thiếu thợ trong thời gian vừa qua đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo, hệ thống các trường dạy nghề cũng sẽ được nâng cấp để đến năm 2010 sẽ có khoảng 40 trường chất lượng cao, 3 trường tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và cung cấp cho thị trường khoảng 7,5 triệu lao động có tay nghề. Hy vọng, đây sẽ là một bước đột phá quan trọng trong tăng cường hợp tác đào tạo với các nước có trình độ tiên tiến
2.2 số lượng lao động tăng nhanh nhưng chất lượng vẫn còn thấp: Số lượng lao động tăng nhanh
Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước đang phát triển gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa từng thấy của lực lượng lao động. ở hầu hết các nước, trung bình mỗi năm số người tìm việc làm tăng từ 2%trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với việc gia tăng dân số. Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một triệu lao động dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm.
b. Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước đang phát triển là đa số lao động làm nông nghiệp.ở Việt Nam lao động nông nghiệp chiếm hơn 70% tổng số lao động . Loại hình công việc này mang tính phổ biến ở những nước nghèo. Xu hướng chung là lao động trong nông nghiệp giảm dần trong khi lao động trong công nghiệp và dịch vụ lại tăng. Mức độ chuyển dịch này tuỳ theo mức độ phát triển của nền kinh tế.
c. Hầu hết người lao động được trả tiền công thấp
Lực lượng lao động ở các nước đang phát triển có số lượng ngày càng tăng làm cho nguồn cung ứng lao động dồi dào. Trong khi đó hầu hết các nguồn lực khác đều thiếu và yếu: trang thiết bị cơ bản, đất trồng trọt, ngoại tệ và những nguồn lực khác như khả năng buôn bán, trình độ quản lý. Tiền công thấp còn một nguyên nhân cơ bản nữa là trình độ chuyên môn của người lao động thấp.
ở Việt Nam số người không biết chữ hiện nay còn chiếm tỷ lệ đáng kể. Trong lực lượng lao động xã hội, số người lao động phổ thông cơ sở chiếm 25%, phổ thông trung học 13%. Hàng năm chỉ có 7% số thanh niên sau khi học hết phổ thông trung học được đào tiếp trong các trường học nghề, trung học và đại học chuyên nghiệp, chỉ có 9%trong tổng số lao động của xã hội là lao động kỹ thuật. Các chuyên viên kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và công nhân kỹ thuật giỏi còn ít. Bên cạnh đó, ở các nước đang phát triển tình trạng chung là những người lao động còn thiếu khả năng lao động chân tay ở mức cao vì sức khoẻ và tinh trạng dinh dưỡng của họ thấp.
d. Còn bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng.
việc đánh giá tình trạng chưa sử dụng hết lao động phải được xem xét qua các hình thức biểu hiện của thất nghiệp-thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Do sức ép về dân số và những khó khăn về kinh tế
ở các nước đang phát triến đã tác động lớn tới vấn đề công ăn việc làm ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn. Tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng gia tăng đặc biệt ở khu vực thành thị. Số lao động thiếu việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay trên 8%, thậm chí còn có nơi lên tới 50-60%. Còn ở nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm khoảng 27,65%. Tính chung cho cả nước, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng cho hoạt động kinh tế năm 2007 là 80%. Thực tế đó cho thấy, vấn đề giải quyết việc làmđang là áp lực nặng nề đối với các nươc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
Vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta được xem là vấn đề kinh tế-xã hội:đó là vấn đề rất tổng hợp và phức tạp. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 của Việt Nam đã khẳng định “Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là một tiêu chuẩn để đinh hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ’’. Trên phạm vi rộng, giải quyết việc làm bao gồm những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực; còn theo phạm vi hẹp, giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả việc làm và tăng thu nhập.
2.2 đào tạo không theo nhu cầu của nền kinh tế(đào tạo không theo tín hiệu của thị trường):
Mục tiêu có thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào chất lượng và số lượng đội ngũ lao động kỹ thuật có tay nghề. Tuy nhiên tính đến hết năm 2007, cả nước mới có hơn 2.000 cơ sở dạy nghề. Con số này chưa thể đáp ứng được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và thị trường lao động.
Lệch cung - cầu:Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội, tính đến hết ngày 31/12/2007, cả nước có 2.165 cơ sở dạy nghề (tăng 241 cơ sở so với năm 2006). Trong đó, số trường cao đẳng dạy nghề là 62 trường, trường trung cấp nghề là 180 trường, dạy nghề có 67 trường, trung tâm dạy nghề có 656 cơ sở, còn lại là các cơ sở dạy nghề tự phát chiếm đa số với hơn 1.000 cơ sở. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực phát triển hệ thống dạy nghề nhưng tỷ lệ lao động kỹ thuật qua đào tạo nghề của nước ta còn khá khiêm tốn (chiếm khoảng hơn 20% tổng số lao động cả nước). Hình thức truyền dạy theo kiểu “cha truyền con nối” đang phổ biến nhằm giải quyết khâu thiếu lao động. “Cung chưa đáp ứng được cầu” . Cơ cấu ngành nghề chưa phù hợp, chưa kịp bổ sung mới theo nhu cầu của sản xuất. Chất lượng đào tạo còn thấp, nhiều bất cập và chưa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Phần lớn thanh niên Việt Nam không mặn mà với các trường dạy nghề, chỉ tới khi trượt đại học (cao đẳng ) mới nghĩ tới việc đăng ký học nghề. Thói quen này đã khiến các trường dạy nghề rất vất vả trong khâu tuyển sinh, thậm chí không thể tuyển đủ học viên để mở lớp dạy. Giai đoạn từ năm 2008 – 2012, nhu cầu về lao động kỹ thuật có tay nghề của các tập đoàn công nghiệp Việt Nam (Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Than - Khoáng sản, Vinashin) tăng mạnh, đặc biệt trong các ngành đóng tầu, hàn, tự động hoá, ô tô cần khoảng 58.000 lao động tay nghề, chiếm 70% nhu cầu cả nước. Riêng ngành công nghiệp đóng tầu cần khoảng 47.000 lao động kỹ thuật (trình độ cao đẳng: 29,8%; trung cấp: 58,5%; sơ cấp: 11,7%). Ngành hàn cần 10.600 lao động (cao đẳng: 31%; trung cấp: 56,6%; sơ cấp: 12,4%). Công nghiệp ô tô và tự động hoá cần từ 150 – 300.000 lao động có trình độ từ trung cấp trở lên. Tuy nhiên, khả năng cung ứng lao động tay nghề hiện chỉ đáp ứng được ½ nhu cầu thực tế của các tập đoàn công nghiệp lớn, chưa kể tới các doanh nghiệp dân doanh cũng đang cần một lượng lớn lao động kỹ thuật tay nghề cao. Những dự báo lạc quan:Bên cạnh những lo ngại về số lượng và chất lượng lao động tay nghề Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2010, nhiều dự báo lạc quan cho rằng lực lượng lao động qua đào tạo tay nghề của nước ta sẽ nhanh chóng được cải thiện từ nay tới năm 2015. Khi đó, trong tổng số 49,5 triệu lao động cả nước, tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề sẽ chiếm tới 45%, lao động Việt Nam có thể cạnh tranh bình đẳng với thị trường thế giới. Nhưng để đạt được tỷ lệ này, chất lượng và quy mô các trường dạy nghề phải được cải thiện mạnh mẽ. Trước mắt, quy mô dạy nghề sẽ phải tăng 10%/năm để đến năm 2010 có tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 30 -32%. Mạng lưới cơ sở dạy nghề sẽ được phủ rộng, số trường cao đẳng tăng gấp đôi lên 120 trường (trong đó có 01 trường đạt trình độ tiên tiến thế giới, 05 trường đạt tiên tiến khu vực) và 250 trường trung cấp nghề. Các khung chương trình cao đẳng nghề, trung cấp nghề và giáo viên, cán bộ quản lý đào tạo nghề được chuẩn hoá đáp ứng yêu cầu thực tế.
Mục tiêu đổi mới dạy nghề sẽ khó hoàn thành nếu thiếu sự tham gia của các DN. “Chỉ khi nào các doanh nghiệp vừa là nơi tiếp nhận nguồn lao động, vừa tham gia tích cực vào quá trình đào tạo mới có thể tạo nên sự đột phá về quy mô và chất lượng nguồn lao động” . Sự liên kết mật thiết giữa DN và các trường dạy nghề sẽ đồng thời giải quyết được cả bài toán đầu vào và đầu ra.
4. Thực trạng sử dụng lao động kĩ thuật hiện nay:ở nước ta hiện nay lao động kỹ thuật vẫn chưa được sử dụng một cách hiệu quả rất nhiều tình trạng lao động dù đã được đào tạo nhưng khả năng tìm kiếm việc làm vẫn còn thấp.
4.1 Thực trạng giải quyết việc làm lao động kĩ thuật : Giải quyết vấn đề việc làm và sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu chiến lược của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nước ta cũng vậy, lao động và việc làm luôn được coi là một trong những vấn đề kinh tế xã hội vừa bức xúc, nhạy cảm. Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới, vấn đề giải quyết việc làm đã đem lại những kết quả to lớn, là bước ngoặt quan trọng để sử dụng tiềm năng khái quát những kết quả đã đạt được trên các lĩnh vực của thời kỳ này như sau:
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, thời kỳ 90-97 nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, bình quân 8.3%/năm. Bước sang năm 1998, trong bối cảnh hầu hết các nước Đông Á dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ,có mức tăng trưởng không và âm thì Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng kinh tế khá (5.83%). Nhờ đó, thời kỳ 1991-1998, bình quân mỗi năm số việc làm mới được tăng thêm khoảng 2.95%, tương đương với số lao động mới tăng. Như vậy, trong vòng 8 năm, trên 7.9 triệu việc làm đã được tạo ra, riêng năm 1998 tạo được 1.3 triệu việc làm.
Tuy vậy, sức ép của tình trạng thiếu việc làm của Viêt Nam vẫn rất lớn. Chúng ta có thể xem bảng sau:
4.2 Những kết quả đạt được và những tồn tại cần giải quyết khắc phục:Giải quyết vấn đề việc làm và sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu chiến lược của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nước ta cũng vậy, lao động và việc làm luôn được coi là một trong những vấn đề kinh tế xã hội vừa bức xúc, vừa nhạy cảm. Nhìn lại 15 năm đổi mới, vấn đề giải quyết việc làm đã đem lại những kết quả to lớn, là bước ngoặt quan trọng để sử dụng tiềm n ớc. Có thể nêu khái quát những kết quả đã đạt được trên các lĩnh vực của thời kỳ này như sau:
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, thời kỳ 90-97 nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, bình quân 8.3%/năm. Bước sang năm 1998, trong bối cảnh hầu hết các nước Đông A dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ,có mức tăng trưởng không và âm thì Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng kinh tế khá (5.83%). Nhờ đó, thời kỳ 1991-1998, bình quân mỗi năm số việc làm mới được tăng thêm khoảng 2.95%, tương đương với số lao động mới tăng. Như vậy, trong vòng 8 năm, trên 7.9 triệu việc làm đã được tạo ra, riêng năm 1998 tạo được 1.3 triệu việc làm.Tuy vậy, sức ép của tình trạng thiếu việc làm của Viêt Nam vẫn rất lớn. Chúng ta có thể xem bảng sau:
Bảng 9: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị (%)
1996
1997
1998
1999
Toàn quốc
5,88
6,01
6,85
7,40
1.Đồng bằng sông Hồng
7,57
7,06
8,25
9,34
Hà Nội
7,71
8,56
9,09
10,31
2.Vùng Đông Bắc
6,42
6,34
6,60
8,72
Quảng Ninh
9,63
7,06
6,80
9,29
3.Vùng Tây Bắc
4,51
4,73
5,92
6,58
4.Vùng Bắc Trung Bộ
6,96
6,68
7,26
8,62
5.Duyên hải Nam Trung Bộ
5,57
5,42
6,67
7,07
Đà Nẵng
5,53
5,42
6,35
6,64
6.Tây Nguyên
4,24
4,99
5,88
5,95
7.Vùng Đông Nam Bộ
5,43
5,89
6,64
6,52
TP Hồ Chí Minh
5,68
6,13
6,76
7,04
Đồng Nai
6,61
4,03
5,52
5,87
8.Đồng bằng sông Cửu Long
4,73
4,72
6,35
6,53
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra Lao động-Việc làm hàng năm ở khu vực thành thị (1/7): 1996,1997,1998,1999
Sau khi đạt mức thất nghiệp thấp nhất là 5,88% năm 1996, tỷ lệ thất nghiệp chính thức ở khu vực thành thị có xu hướng tăng trở lại ở năm 1997 là 6,01%, năm 1998 là 6,08 % và năm 1999 là 7,4%số lao động thành thị bị thất nghiệp. Tại một số thành phố lớn, trung tâm công nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp năm 1998 tăng nhanh đặc biệt ở Hà Nội (9,09%), Hải Phòng (8,43%), Đà Nẵng (6,35%), TP Hồ Chí Minh (6,76%) và tỷlệ tương ứng năm 1999 là:10,31%, 8,04%, 6,64%, 7,04%. Lao động thành thị làm việc chủ yếu trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt tại các thành phố lớn, nơi thu hút phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài. Sự đi xuống về kinh tế từ năm 1998, một phần chịu tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực là nguyên nhân chính dẫn đến tăng tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này. Năm 1998 một số ngành có tỷ lệ thất nghiệp tăng lên rõ rệt như: hoá chất (11,27%), khai thác mỏ(3,57%), dệt (2,06%), giày (2,15%), may mặc (2,66%) trong khi tỷ lệ tương ứng của năm 1997 tương đối thấp (0,08%, 0,26%, 0,26%, 0,05%, 1,91%).
Trong số lao động thất nghiệp ở thành thị, tỷ lệ cao nhất rơi vào nhóm người trẻ tuổi từ 15-24 và nhóm tuổi 25-34. Số người này chủ yếu là học sinyh phổ thông chưa tốt nghiệp, sinh viên trung học và đại học ra trường muốn có việc nhưng không tìm được việc làm. Có thể thấy tình hình đó qua bảng sau đây:
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị chia theo nhóm tuổi, vùng và giới tính
Tổng số
Nam
Nữ
Tổng số
4,4
4,8
3,9
Nhóm tuổi
15-19
17,4
19,6
14,7
20-24
11,0
11,7
10,3
25-29
4,6
5,0
4,2
30-34
2,7
2,7
2,7
35-39
2,1
2,3
1,8
40-44
2,0
2,5
1,3
45-49
2,3
3,0
1,5
50-54
2,4
3,2
1,4
55-59
1,9
2,4
1,1
60-64
1,2
1,4
1,0
65+
1,5
1,4
1,5
Vùng
Đồng bằng sông Hồng
5,6
6,0
5,2
Đông Bắc
3,8
4,6
2,9
Tây Bắc
3,0
4,1
1,8
Bắc Trung bộ
5,2
6,4
4,0
Duyên hải Nam Trung bộ
4,5
4,6
4,5
Tây Nguyên
1,8
2,0
1,5
Đông Nam bộ
4,6
5,1
3,8
Đồng bằng sông Cửu Long
3,5
3,4
3,5
Nguồn tổng cục thống kê
Một vài dự báo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đưa ra cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam có thể diễn ra theo các kịch bản sau: 1)Mức tăng GDP là 5%/năm và lao động tăng theo xu hướng đầu tư là 1,4%; 2) Mức tăng trưởng GDP là 4,8% nhưng cơ cáu đầu tư được cải thiện nên có thể thu hút lao động tăng 2,5 %/năm; 3)Mức tăng GDP là 7%/năm, nhưng lao động chỉ tăng 2%/năm theo xu hướng đầu tư năm 1998.
Như vậy số lao động thất nghiệp (kể cả hữu hình và trá hình) vào năm 2000 theo phương án một là 4.640.000 người; theo phương án hai là 3.449.900 người và theo phương án ba là 3.994.100 người.Tỷ lệ thất nghiệp tương ứngvới ba phương án trên là 11,3%, 8,45% và 9,79% và tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị xấp xỉ 20%, 16% và 18%. Cả ba trường hợp trên đều cùng giả định thời gian sử dụng lao động ở nông thôn hiện nay là 75%, trong khi thực tế chỉ đạt xấp xỉ 70%. Mặt khác các phương án trên chỉ tính đến ảnh hưởng tích cực của các chương trình thị trường lao động.Năm 2000 sẽ có 1 triệu người được đào tạo nghề, 150 nghìn người trong các doanh nghiệp nhà nước được hỗ trợ để duy trì lao động , các doanh nghiệp vừa và nhỏ được lập dự án vay vốn để tạo ra 300.000 việc làm và cuối cùng là xuất khẩu 180.000 lao động. Như vậy, tổng số lao động được giải quyết đến năm 2000 là 1.630.000 người. số người thất nghiệp ở Việt Nam theo thứ tự ba phương án sẽ là 3.010.000,1.819.900 và 2.464.100; tỷ lệ thất nghiệp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6005.doc