Đề tài Thực trạng đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I: CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ 2

I. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 2

1. Khái niệm 2

2. Một số chỉ tiêu đánh giá 3

2.1 Một số thước đo của sự tăng trưởng 3

2.1.1 Tổng sản phẩm trong nước (hay tổng sản phẩm quốc nội – GDP) 3

2.1.2. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) 5

2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người 5

2.2. Một số chỉ số về cơ cấu kinh tế 6

2.2.1. Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội 6

2.2.2. Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M) 6

2.2.3. Chỉ số về mức tiết kiệm – đầu tư (I) 6

3. Các quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế 6

3.1. Quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng 6

3.2. Quan điểm nhấn mạnh vào công bằng và bình đẳng trong xã hội 7

3.3 Quan điểm phát triển toàn diện 7

II. XEM XÉT MÔ HÌNH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THEO QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ. 8

1. Các mô hình dựa vào sự phân tích quá trình đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế. 8

1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển 8

1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của Marx (1818-1883) 9

1.3. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái tân cổ điển 9

1.4. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái Keynes 10

1.5. Căn cứ vào các lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái kinh tế hiện đại 10

2. Đầu tư là nhân tố kích thích tổng cầu nền kinh tế 11

2.1. Vai trò của kích cầu trong tăng trưởng kinh tế 11

2.2. Quan điểm của Keynes về vai trò của đầu tư với tổng cầu 12

3. Mô hình đầu tư tạo điều kiện cho việc phát triển ngành kinh tế mũi nhọn, từ đó tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế 13

3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow 13

3.2. Mô hình nhị nguyên của Lewis và Oshima 13

4. Đầu tư được coi là cú huých từ bên ngoài giúp các nước đang phát triển thoát khoủi vòng luẩn quẩn của đói nghèo 14

4.1. Mô hình vòng luẩn quẩn của Samuelson 14

4.2. Lý thuyết đầu tư nước ngoài của Vernon về chu kỳ sống sản phẩm và mô hình của Akamateu 15

PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 16

I. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 16

1. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 16

2. Đầu tư trong nước 17

II. TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 19

III. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 21

1. Hạn chế của đầu tư 21

2. Hạn chế trong tăng trưởng phát triển kinh tế 23

IV. ĐÁNH GIÁ ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN TỪ CÁC MÔ HÌNH KINH TẾ 25

1. Đứng dưới mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W. Rostow 25

2. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển 29

3. Hiệu quả vốn đầu tư được biểu hiện tổng hợp ở hệ số ICOR 31

4. Dựa vào vai trò của đầu tư với tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, từ các lý thuyết tăng trưởng => đầu tư với tổng cung và tổng cầu ở Việt Nam 33

PHẦN III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 37

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2002 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
% và cả năm tăng gần 7,7%. Đó là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong vòng bẩy năm qua (năm 1998 tăng 5,76%; năm 1999 tăng 4,77%; năm 2000 tăng 6,79%; năm 2001 tăng 6,89%; năm 2002 tăng 7,08% và năm 2003 tăng 7,26%). Bối cảnh thế giới thời gian qua có nhiều điểm đặc biệt. Kinh tế thế giới sau một thời gian suy thoái đã tăng trưởng trở lại, khiến nhu cầu tăng, chi phí đầu tư lẫn tiêu dùng tăng, trong khi đó nguồn cung tăng không kịp nên giá đầu vào của hầu hết các mặt hàng cũng tăng theo. Năm 2004 thời tiết toàn cầu cũng có những diễn biến bất thường, các loại dịch bệnh phát sinh, đặc biệt là dịch cúm gà xảy ra đầu năm, thảm hoạ sóng thần... Tình hình chính trị an ninh ở nhiều khu vực và quốc gia không ổn định, giá năng lượng biến động mạnh, giá dầu lửa dao động ở mức cao. Hơn nữa sự lan rộng của chủ nghĩa khủng bố, xung đột vũ trang... Những yếu tố này đã ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế, giá cả diễn biến phức tạp. Trong điều kiện đó, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng ở mức tương đối cao là thành tựu đáng ghi nhận. Do nền kinh tế tăng trưởng khá, cho nên thu ngân sách cả năm đạt 166,9 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán 11,8%, bằng 23,5% GDP và tăng 17% so với năm 2003. Có 33 trong 64 địa phương đạt số thu thuế hơn 500 tỷ đồng. Chi ngân sách Nhà nước cả năm 2004 ước đạt 206,05 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán 9,8% và tăng 16,7% so với năm 2003. Bội chi ngân sách bằng 4,9% GDP, thấp hơn mức Quốc hội cho phép. Vốn đầu tư toàn xã hội đạt 35,4% GDP. Giá hàng tiêu dùng tăng khoảng 9,5%. Vượt qua khó khăn về thiên tai và bệnh cúm gia cầm, nông nghiệp vẫn được mùa, thuỷ sản tăng trưởng khá. Sản lượng lương thực có hạt đạt 39,1 triệu tấn, mức cao nhất từ trước đến nay tăng 4,2% so với năm 2003. Sản xuất lúa chuyển mạnh theo hướng: giảm dần diện tích, tăng năng suất và chất lượng lúa gạo để phù hợp yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu gạo. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 đạt 354 nghìn tỷ đồng (giá 1994), tăng 16% so với năm 2003, trong đó khu vực Nhà nước tăng 11,4%; khu vực ngoài quốc doanh tăng 22,8% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 15,7%. Điểm nổi bật là chất lượng nhiều sản phẩm công nghiệp đã dần được nâng cao và hiệu quả hơn theo hướng có lợi cho tiến trình phát triển. Nguyên nhân chính là do nhu cầu sản phẩm công nghiệp của thị trường trong nước và xuất khẩu tăng; sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm công nghiệp như thuỷ sản chế biến, sản phẩm gỗ chế biến, dệt may, giày dép,... có nhiều tiến bộ. Hoạt động xuất nhập khẩu có nhiều tiếm bộ, từng bước thích nghi với quá trình hội nhập. Năm 2004, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thị trường và giá cả nhưng hoạt động xuất khẩu tiếp tục được duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 26 tỷ USD, tăng 30% so với năm 2003, vượt mức kế hoạch đề ra và là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu đạt được bình quân 2,16 tỷ USD/tháng, có tháng đạt trên 2,3% tỷ USD bằng kim ngạch xuất khẩu của cả năm 1991. Nguyên nhân xuất khẩu tăng khá là: Về khách quan: giá các mặt hàng dầu thô, gạo, cao su, hạt điều tăng cao. Về chủ quan: sản xuất trong nước tăng trưởng khá, chất lượng sản phẩm xuất khẩu có tiến bộ, chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước phát huy tác dụng. Kim ngạch nhập khẩu năm 2004 ước đạt 30 tỷ USD, tăng 23,2% so với năm 2003. Nhập siêu ước đạt 4,7 tỷ USD, bằng 18,8% kim ngạch xuất khẩu. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế (cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần, cơ cấu vùng) đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước gắn với thị trường trong nước và quốc tế. Tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm từ 21,8% năm 2003 xuống còn 20,4% năm 2004, trong nội bộ ngành cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tích cực: tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm từ 76,6% năm 2003 xuống còn 75,5% năm 2004; tỷ trọng của ngành thuỷ sản tăng lên từ 16,4% năm 2003 lên 19,5% năm 2004. Trong khi đó, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng, dự kiến đạt 41,1%, tăng 1,1% so với năm 2003. Đặc biệt tỷ trọng ngành dịch vụ sau 3 năm liên tục giảm thì năm 2004 đã có xu hướng phục hồi, đạt trên 38,5% (năm 2003 là 38,2%). Cơ cấu các ngành dịch vụ bắt đầu có sự thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... Trong qua trình hội nhập và phát triển hiện nay, các thành phần kinh tế tích cực đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân đã có mức tăng trưởng rất cao. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào tăng trưởng GDP tăng từ 36,6% năm 2000 lên khoảng 42% năm 2004. Theo đánh giá của tờ "Tiếng Vang" của Pháp thì lĩnh vực kinh tế tư nhân của Việt Nam đang có bước phát triển ngoạn mục thể hiện qua nhịp sống sôi động của các thành phố lớn. Theo tờ báo, hiện nay Việt Nam có khoảng hơn 120.000 doanh nghiệp tư nhân, trong đó có 2.500 doanh nghiệp nước ngoài, chủ yếu phát triển trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ đã giúp tạo việc làm, phân phối thu nhập và khuyến khích tiêu thụ. III. Những vấn đề còn tồn tại trong đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế ở Việt Nam 1. Hạn chế của đầu tư Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam trong những năm qua vẫn còn những mặt hạn chế cần khắc phục. - Tuy gia tăng về số lượng, nhưng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp. Hiệu quả đầu tư (được tính bằng cách lấy tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP) giảm, khi hệ số ICOR tăng, năm 1995 mới có 3,3; năm 2000 lên 4,0; năm 2003 đã là 5 (tức là để tăng 1% GDP thì năm 2003 phải huy động lượng vốn đầu tư tương đương 5% GDP). Nguyên nhân chính là do đầu tư vào các dự án cần nhiều vốn nhưng sử dụng ít lao động, đầu tư vào "vỏ" nhiều hơn vào "ruột", đầu tư phân tán, dàn trải do bị co kéo, điều chỉnh nhiều (đây thực chất là hậu quả của tệ nạn "xin- cho"). Ngoài ra, việc giải phóng mặt bằng thường bị kéo dài, tốn kém, nay lại do giá đất tăng làm cho lượng vốn đầu tư tăng lên, tiến độ thi công chậm, công trình dở dang nhiều. Vốn đã ít lại bị "chôn chân", trong khi lãi suất tiếp tục chồng lên vốn vay. Thêm nữa là tình trạng lãng phí, thất thoát vốn trong đầu tư khá lớn nhất là nguồn ngân sách nhà nước và ngay cả nguồn vốn ODA dù được ưu đãi cũng phải trả cả vốn và lãi. Không phải chờ đến đời con cháu, mà từ năm 2003, đã phải trả những món nợ hết thời kỳ ân hạn, một phần vay mới phải dành để trả nợ cũ. Riêng năm nay, lượng vốn phải dùng để trả nợ khối lượng thi công từ các năm trước là 11 nghìn tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương phải chi 6 nghìn tỷ đồng, còn lại ngân sách nhà nước cũng phải trả. Thêm vào đó là giá vật liệu xây dựng cao, trong khi khối lượng thi công không tăng tương ứng. Bên cạnh đó, tình trạng nợ đọng vốn đầu tư lớn và kéo dài nhiều năm, triển khai kế hoạch vốn đầu tư của các Bộ, ngành, địa phương thường chậm, cùng với xu hướng ngày càng tăng các dự án chưa đủ thủ tục đầu tư vẫn được bố trí kế hoạch cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đât tư. - Về huy động nguồn vốn trong nước, theo tính toán sơ bộ, mặc dù nguồn vốn tích luỹ trong dân hàng năm lên đến 70- 80 nghìn tỷ đồng, nhưng mới chỉ huy động được 36% đầu tư phát triển kinh tế, chủ yều là đầu tư gián tiếp (qua gửi tiết kiêm), khoản đầu tư trực tiếp rất nhỏ, chủ yếu là các dự án ngắn hạn. - Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài còn có một số bất hợp lý. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định, nhưng ĐTNN còn quá thấp và tỷ trọng vốn ĐTNN đăng ký liên tục giảm. ĐTNN tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi, trong khi đó có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. - Ngoài ra, cơ chế chính sách trong quản lý đầu tư chưa đồng bộ, năng lực của các cá nhân tham gia các khâu trong quá trình đầu tư chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra- trong đó có một số bộ phận cán bộ cố ý làm trái gây thất thoát, tiêu cực- việc thực hiện giám sát, quản lý chất lượng công trình cũng như xử lý các sai phạm còn hạn chế, nương nhẹ... cũng làm "đậm" thêm sự lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong lĩnh vực đầu tư. - Tỷ lệ dự án đổ bể, phải giải thể trước thời hạn khá cao, một số dự án quy mô lớn thì chậm triển khai. Nhiều công trình muốn khấu hao nhanh để thu hồi vốn và trả lãi, nhưng lại phải đứng trước áp lực lớn của cạnh tranh nên phải giảm khấu hao để khỏi đội giá thành, giá bán... Nguồn trái phiếu chính phủ cũng phải trả lãi tính từ ngày vay nhưng giải ngân chậm.... 2. Hạn chế trong tăng trưởng phát triển kinh tế Bên cạnh những thành tựu to lớn và cơ bản đã đạt được, tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội nước ta năm 2004 vẫn còn tồn tại nhiều bất cập đòi hỏi phải có những giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, tích cực hơn. - Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung còn ở mức thấp so với kế hoạch. Chất lượng tăng trưởng, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao. Điều này được thể hiện trong các ngành sản xuất và dịch vụ. Trong công nghiệp, giá trị sản xuất tăng 16% nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 0,7%. Tốc độ tăng trưởng của một số sản phẩm công nghiệp khai thác còn phụ thuộc vào thị trường thế giới. Giá hàng hoá, dịch vụ trong nước tăng cao. Mục tiêu giảm tỷ lệ sinh 0,04% không đạt kế hoạch đề ra. Tỷ lệ sinh con thứ ba tăng so với các năm trước đang tiềm ẩn khả năng bùng nổ dân số. - Tăng trưởng kinh tế hiện nay do yếu tố vốn đầu tư đóng góp chiếm 57,5%; do yếu tố lao động đóng góp chiếm 20%; do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chiếm 22,5%. Điều đó chứng tỏ tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu về số lượng, phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển biến về chất lượng và phát triển theo chiều sâu. Nếu những năm trước 1993, để GDP tăng 1 đồng chỉ cần đầu tư dưới 3,3 đồng, thì đến nay đã phải đầu tư trên dưới 5 đồng- có nghĩa là hiệu quả đầu tư giảm tới 34%. Ngay cả việc phát triển theo chiều rộng thì cũng nghiêng về yếu tố vốn đầu tư, là yếu tố mà nước ta còn thiếu, phải đi vay, vừa phải hoàn vốn, vừa phải trả lãi. Trong khi đó yếu tố lao động được coi là nguồn lực nội sinh, hiện đang có nhiều lợi thế so sánh, như giá rẻ,dồi dào thì lại chỉ đóng vai trò rất nhỏ. Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm để tận dụng lợi thế so sánh động trong phát triển kinh tế và chủ động hội nhập. - Cơ cấu kinh tế hiện nay chẵng những dẫn đến nhập siêu gia tăng và kinh tế tăng trưởng chậm như đã nói trên, mà còn là một nguyên nhân hết sức quan trọng dẫn đến tình trạng "giậm chân tại chỗ" của thị trường trong nước. - Mặt khác, với xu thế phát triển công nghiệp, cũng như dịch vụ ngày càng tập trung nhanh hơn vào một số trung tâm như hiện nay, dân cư khu vực nông thôn hầu như vẫn phải "đứng ngoài rìa làn sóng công nghiệp hoá". Có nghĩa là, sự phát triển của hai khu vực xương sống của nền kinh tế là công nghiệp và dịch vụ đang ngày cang mang lại lợi ích cho dân cư khu vực đô thị, còn thu nhập chủ yếu của dân cư khu vực nông thôn chiếm xấp xỉ 3/4 dân số của cả nước vẫn là từ khu vực nông nghiệp. Thực tế này chẳng những dẫn đến khoảng cách giàu nghèo giữa hai khu vực đô thị và nông thôn ngày càng tăng nhang, mà hệ quả tất yếu trước mắt là sức mua của thị trường trong nước không thể tăng nhanh như mong muốn. - Tốc độ tăng trưởng khá của nhiều loại sản phẩm, nhiều ngành kinh tế trong cả nước thời gian qua có một phần quan trọng là do đang được bảo hộ. Từ nay, hàng sản xuất trong nước đang đứng trước sự cạnh tranh ngày một gay gắt hơn với hàng ngoại nhập. - Chất lượng tăng trưởng còn thấp thể hiện cả trong bản thân quá trình tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng của giá trị tăng thêm thấp hơn tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất do tốc độ tăng chi phí trung gian cao, làm tỷ lệ của chi phí trung gian tăng lên. Điều này diễn ra trong một thời gian khá dài ở cả ba khu vực. - Cơ cấu lao động chậm chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông- lâm- ngư nghiệp vẫn là lớn nhất trên 64%, trong đó khu vực công nghiệp- xây dựng mới chiếm 12,9%. Tuy nhiên, năng suất lao động (tính bằng giá trị tăng thêm chia cho số lao động đang làm việc) ở khu vực nông- lâm- ngư nghiệp chưa được 4,5 triệu đồng/năm, trong khi đó của hai khu vực công nghiệp- xây dựng và dịch vụ đã đạt được 28,7 triệu đồng/năm, gấp 6,5 lần khu vực nông- lâm- ngư nghiệp. Chất lượng lao động cũng chậm được cải tiến, tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ" trong cơ cấu đào tạo hiện nay đang là gánh nặng của nền kinh tế. Chính trình độ thiết bị, kỹ thuật- công nghệ, trình độ tay nghề còn thấp, nên năng suất các nhân tố tổng hợp còn đóng góp quá thấp cho tăng trưởng kinh tế. - Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng hàng nguyên liệu, hàng thô, hàng sơ chế hoặc hàng gia công còn chiếm tỷ trọng khá cao, do đó khả năng thu hút ngoại tệ chưa được khai thác hết. Trong tổng số 19,1 tỷ USD hàng xuất khẩu trong chín tháng đầu năm 2004, kim ngạch của những mặt hàng này chiếm 3/4 tổng kim ngạch xuất khẩu... IV. Đánh giá Đầu tư và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dưới góc nhìn từ các mô hình kinh tế 1. Đứng dưới mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W. Rostow: Đặc trưng của giai đoạn này là: đây được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống và sự cất cánh. Trong giai đoạn này nhiều điều kiện cần thiết để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện, đó là những hiểu biết về khoa học – kĩ thuật đã bắt đầu được áp dụng vào sản xuất cả nông nghiệp và công nghiệp. Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến để phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vỗn. Tiếp đó giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước tăng đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc. Ngành khoa học trong nước đã làm chủ được công nghệ sản xuất giống nhân tạo và công nghệ sản xuất một số loại thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Một số địa phương đã triển khai trên diện rộng những kết quả khoa học này mới này. Ngoài ra, ngành sản xuất lương thực cũng có những thay đổi rất đáng quan tâm: Tính đến tháng 9 năm 2004 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đã đạt trên 33,3 triệu tấn, trị giá 779 triệu USD giảm trên 5% về lượng nhưng tăng 28,3% về kim ngạch so với cùng kì năm trước; cho đến thời điểm này, các doanh nghiệp trong nước đã kí được hợp đỗng xuất khẩu 3,7 triệu tấn gạo và nhu cầu nhập khẩu gạo Việt Nam của các nước đang có xu hướng tăng, đặc biệt là các nước Châu Phi. Để phát triển được một mức độ khoa học áp dụng vào thực tế thì nước ta đã có sự đầu tư rất thoả đáng vào giáo dục đặc biệt là từ 1985 đến nay. Số lượng trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, đại học, viện, trung tâm nghiên cứu khoa học... tiếp tục tăng lên. Hầu hết đều do nhu cầu khách quan đòi hỏi của thực tế Đất nước, nguyện vọng nhân dân và sự khuyến khích của Nhà nước. Năm 1985 cả nước đã có 95 trường ĐH và CĐ, với 18000 cán bộ giảng dạy, trong đó có 1600 tiến sĩ, chiếm 8,6% với 200 khoa và 1700 bộ môn. Có tới 175 cơ quan chuyên tiến hành công tác nghiên cứu và triển khai trong đó có tới 120 viện nghiên cứu, 30 viện quy hoạch, trên 20 liên hiệp khoa học sản xuất, công ty phát triển công nghệ. Hiện nay nước ta có trên 700000 cán bộ có trình độ từ ĐH trở nên trong đó có 421 tiến sĩ khoa học và 7500 tiến sĩ chuyên ngành. Sự đầu tư của Nhà nước cho KHCN, GD-ĐT đã chứng tỏ sự quan tâm chú trọng của Nhà nước trong bước đầu phát triển kinh tế. Mục tiêu đến 2005 tỉ lệ học sinh THCS trong độ tuổi đạt 80%, tỉ lệ học sinh PTTH đạt 45% trong độ tuổi. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của GD-ĐT và tích cực đầu tư vào đó. Tiếp tục năng cao chất lượng giáo dục toàn dân toàn diên, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý GD: “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa„ phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên đề cao năng lực tự học tự hoàn thiện học vấn và tay nghề... Chăm lo phát triển giáo dục mầm non, củng cố thành tựu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy nhanh tiến độ phổ cập THCS, tăng ngân sách Nhà nước cho giáo dục, đào tạo theo độ tăng trưởng kinh tế. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỉ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập. Tăng ngân sách Nhà nước trong việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học tiên tiến, khuyến khích du học tự túc. Về KHCN: khoa hoc xã hội và nhân văn hướng vào việc giải quyết những vấn đề lí luận và thực tiễn và dự báo những xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế xã hội, xây dựng con người. Khoa học tự nhiên hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, xây dựng cơ sở khoa học của sự phát triển các lĩnh vực công nghệ và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo, phòng chống thiên tai. KHCN hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia... Tăng đầu tư ngân sách, huy động các nguồn lực khác cho KHCN. Sắp xếp lại và đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt chẽ việc nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật với khoa học xã hội và nhân văn. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học công nghệ. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ với các nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc. Để tiến lên giai đoạn cất cánh, Việt Nam đã đầu tư vào một số ngành công nghiệp mũi nhọn, tạo điều kiện phát triển các ngành có lợi thế so sánh, đầu tư cho ngành nghề đó để xuất khẩu ra nước ngoài. Năm 2001, xuất khẩu sản phẩm công nghiệp khoảng 10,8 tỷ USD, tăng 12,5% và chiếm 66,5% kim ngạch cả nước bao gồm 2,5 tỷ USD dầu thô; 2,3 triệu USD hàng thủ công mĩ nghệ... Bên cạnh các mặt hàng chủ yếu sẽ đẩy mạnh xuất khẩu thêm nhiều mặt hàng như sữa, dầu thực vật, khoáng sản, sản phẩm hoá chất thép cơ khí, thiết bị điện... nhờ đó đã góp phần đáng kể vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong tổng sản phẩm quốc dân là 28,8% tăng lên 34,5% trong năm 2000. Một số ngành công nghiệp phát triển với quy mô lớn như khai thác dầu khí (16 triệu tấn dầu thô và 1,3 tỷ m3 khí một năm, thép xây dựng 2,5 triệu tấn/ năm xi măng 18 triệu tấn/năm... Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm tăng dần từ 53,73% năm 1995 lên 67,3% năm 1999 và 68,57% năm 2000 với tốc độ tăng bình quân 26,8%/năm. Mặc dù tổng nguồn đầu tư cho công nghiệp tuy có tăng nhưng chưa nhiều, chiếm khoảng 44% tổng đầu tư toàn bộ xã hội nên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Một số nghành sản xuất kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do năng lực công nghệ hạn chế, sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ chưa lớn, đã dẫn đến tình trạng huy động công suất thấp như sản xuất thép xây dựng 65%, lắp ráp tivi 40%, quần áo may sẵn 59,7%, bia63,5%... Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kinh tế kĩ thuật còn yếu kém. Những chi phí xây dựng cải tạo hạ tầng đều tập trung chủ yếu vào các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... Trong khi đó ở các tỉnh thành khác thì hạn chế lớn hơn. Trong văn kiện đại hội IX: phát triển năng lượng đi trước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an toàn năng lượng quốc gia. Sử dụng tốt các nguồn thuỷ năng, khí than để cân đối nguồn điện. Xúc tiến nghiên cứu và hoàn thành thuỷ điện Sơn La. Nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng nguyên tử. Đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới phân phối nguồn điện quốc gia. Đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh doanh điện, có chính sách thích hợp để thực hiện sử dụng điện ở nông thôn, miền núi. Tăng sức cạnh tranh về giá điện so với khu vực. Phát triển mạng lưới thông tin hiện đại và đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là trong hệ thống lãnh đạo, quản lý, các dịch vụ, tài chính, thương mại, giáo dục, y tế, tư vấn... Về đường bộ: hoàn thành nâng cấp quốc lộ 1 và xây dựng đường HCM. Nâng cấp xây dựng các tuyến quốc lộ khác, chú trọng các tuyến đường biên giới, các tuyến đường vành đai và tuyến đường nối các vùng tới trung tâm phát triển lớn, các cầu vực sông lớn... phát triển nâng cấp hệ thống giao thông trên từng vùng kể cả giao thông nông thôn, bảo đảm thông suốt quanh năm. 2. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển Trong 5 năm 1996 – 2000 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện (không kể phần góp vốn trong nước ) đạt khoảng 10 tỷ USD, tăng so với thời kì trước là 34%. Cơ cấu thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% năm 2000. Đầu tư trực tiếp từ các nước thuộc liên minh Châu Âu, ASEAN có triều hướng tăng hơn 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăng kí các dự án từ EU bình quân chiếm 23,2% thời kì 1991 – 1995 tăng lên 25,8% thời kì 1996 – 2000, tỷ lệ đăng kí các dự án từ ASEAN tương ứng là 17,3% lên 29,8%. Riêng các nước EU, Mĩ, Nhật Bản chiếm 44% tổng vốn đăng kí tại Việt Nam. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu chưa kể dầu khí và đóng góp 12% GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây dựng thương mại dịch vụ liên quan, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lí và mở rộng thị trường. Môi trường chưa đủ hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài Với vai trò của đầu tư nói chung và vai trò của đầu tư nước ngoài nói riêng đã thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế phát triển, đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Trong chiến lược phát triển kinh tế đều tìm các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng cách tạo môi trường, hệ thống pháp luật phù hợp. Hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn chưa thật yên tâm khi đầu tư, theo cách đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài: Việt Nam thay đổi nhanh so với bản thân mình nhưng chưa đủ nhanh để bắt kịp các nước xung quanh. Vì thế trong cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam vẫn yếu thế, đặc biệt là so với Trung Quốc. Những điểm yếu được xác định là: - Giá cước vận chuyển, cước viễn thông còn quá cao - Tổng giám đốc công ty Metro Cash và Carry cho rằng đồng nội tệ chưa mạnh và sức tiêu thụ trong nước chưa cao. Một điểm yếu khác theo ông là cán bộ quản lí Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm. Ông nói, nguồn nhân lực Việt Nam rất dồi dào, có học nhưng vẫn phải tiếp tục đào tạo. - Môi trường đầu tư nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt, đã làm hạn chế thu hút đầu tư mới. - Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, hay thay đổi, khó tiên đoán trước. Một số bộ, ngành còn chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ (như Nghị định số 06 về lĩnh vực giáo dục và đào tạo) đã gây khó khăn đối với việc thẩm định cấp phép đầu tư và thu hút các dự án mới vào lĩnh vực này. Một số ưu đãi của chính phủ đã được quy định trong nghị định của Chính phủ như miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu 5 năm cho sản xuất đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn nhưng thiếu hướng dẫn nên chưa được áp dụng. Nghị định 164 về thuế TNDN là bước tiến mới trong lộ trình xây dựng một mặt bằng pháp lí chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, nhưng quy định mới về thuế TNDN cũng đã làm giảm ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài nhất là vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. - Công tác quy hoạch còn bất hợp lí, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. Theo quy định của pháp luật, ngoài các dự án không cấp giấy phép đầu tư, nhà đầu tư có quyền lập các dự ãnin cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình chỉ đạo, điều hành, ta đã ban hành thêm một số quy định tạm dừng hoặc không cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án thuộc các lĩnh vực như: sản xuất thép, xi măng, cấp nước theo hình thức BOT, xây dựng nhà máy đường, lắp ráp xe gắn máy hai bánh, nước giải khát có gas... Ngoài ra, các văn bản về một số ngành ban hành gần đây cũng đã hạn chế đầu tư nước ngoài như điều kiện về kinh doanh dịch vụ hàng hải, về đại lí vận tải hàng không, về quản lí hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ. Thực tế trên đã bó hẹp lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng chính sách của Việt Nam không nhất quán, minh bạch, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. - Thủ tục thẩm định, cấp giấy phép đầu tư tuy đã được cải tiến nhưng vẫn còn phức tạp,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50812.doc
Tài liệu liên quan