Đề tài Thực trạng điều hành doanh nghiệp và chỉ số điều hành doanh nghiệp ở thế giới và Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu . 1

Chương 1: Cơ sở lý luận . 4

1.1 Định nghĩa về điều hành doanh nghiệp . 4

1.2 Vấn đề người đại diện trong các công ty cổ phần . 5

1.3 Những nguyên tắc và những chính sách trong điều hành doanh nghiệp . 8

1.3.1 Những nguyên tắc điều hành doanh nghiệp của tổ chức OECD . 8

1.3.1.1 Quyền lợi cổ đông . 8

1.3.1.2 Đối xử công bằng giữa các cổ đông . 9

1.3.1.3 Vai trò của những bên liên quan . 10

1.3.1.4 Công bố và minh bạch thông tin . 10

1.3.1.5 Trách nhiệm của ban quản trị . 11

1.3.2 Những nguyên tắc điều hành doanh nghiệp ở NYSE . 13

1.3.3 Những vấn đề về điều hành doanh nghiệp của IIF (Hiệp Hội Tài Chính Quốc

Tế) . 15

1.3.3.2 Cấu trúc và trách nhiệm của ban quản lý . 16

1.3.3.3 Kế toán và kiểm toán . 17

1.4 Những rủi ro có thể xảy ra khi điều hành doanh nghiệp yếu kém . 17

Chương 2: Thực trạng điều hành doanh nghiệp và chỉ số điều hành doanh nghiệp ở

Thế Giới và Việt Nam . 20

2.1 Những vụ sụp đổ của các công ty lớn trên thế giới liên quan đến vấn đề điều

hành doanh nghiệp . 20

2.2 Những kết quả nghiên cứu trên thế giới . 21

2.1.1 Những nghiên cứu về giá trị tăng thêm dưới tác động của điều hành doanh

nghiệp . 22

2.2.1.1 Nghiên cứu của McKinsey về giá trị tăng thêm . 23

2.2.1.2 Nghiên cứu của World Bank về giá trị tăng thêm . 24

2.2.1.3 Những bài nghiên cứu khác của CLSA( Cresit Lyonnais Security Asia) về

giá trị tăng thêm . 24

2.2.2 Nghiên cứu về ảnh hưởng của điều hành doanh nghiệp đến tỷ suất sinh lợi và

chi phí sử dụng vốn. . 25

2.2.2.2 Nghiên cứu CLSA về tỷ suất sinh lợi . 25

2.2.3 Một số bài nghiên cứu khác . 26

2.2.4 Kết quả nghiên cứu về tác động của các yếu tố trong điều hành doanh nghiệp

đến giá trị doanh nghiệp . 27

2.2.4.1 Mối liên kết giữa mức cân xứng giữa các thành viên HĐQT với các thành

viên khác . 27

2.2.4.2 Vấn đề giữa quyền sở hữu và quyền quản lý . 27

2.2.4.3 Mức độ tập trung của sở hữu . 28

2.3 Thực trạng về vấn đề điều hành doanh nghiệp tại Việt Nam . 28

2.3.1 Những tiến bộ liên quan đến vấn đề điều hành doanh nghiệp ở Việt Nam . 29

2.3.1.1 Những cải cách trong văn bản quy định liên quan đến điều hành doanh

nghiệp . 29

2.3.2.2 Những tiến bộ trong quá trình triển khai điều hành doanh nghiệp ở các

doanh nghiệp tại Việt Nam . 30

2.3.2 Những mặt còn hạn chế liên quan đến vấn đề điều hành doanh nghiệp ở

Việt Nam . 31

2.3.2.1 Những mặt còn hạn chế trong khung pháp lý . 31

2.3.2.2 Những yếu kém trong điều hành doanh nghiệp ở các doanh nghiệp tại

Việt Nam . 33

2.4 Lựa chọn những chỉ số cấu thành nên chỉ số điều hành doanh nghiệp . 40

2.5 Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu . 42

2.6 Phân tích kết quả thực nghiệm . 43

2.6.1 Dữ liệu . 43

2.6.2 Phân tích thực nghiệm . 43

2.6.3 Tổng kết kết quả và hướng nghiên cứu trong tương lai . 50

Chương 3: Những kiến nghị giải pháp của đề tài . 52

3.1. Những vấn đề liên quan đến cổ đông . 52

3.1.1. Những biện pháp giúp cổ đông tự bảo vệ mình . 52

3.1.2. Những đề xuất khác đối với công ty . 53

3.2. Những vấn đề liên quan đến ban quản trị và ban điều hành . 54

3.2.1. Những đề xuất về thành viên độc lập . 54

3.2.2. Những kiến nghị liên quan đến ban quản trị, ban điều hành và ban kiểm soát55

3.3. Những vấn đề về minh bạch thông tin . 56

3.3.1. Những vấn đề liên quan đến giao dịch và những người liên quan . 57

3.3.2. Những kiến nghị để hạn chế những rủi ro do giao dịch với bên liên quan gây

ra: . 58

3.3.3. Những kiến nghị về minh bạch và công bố thông tin ngoài những điều đã quy

định trong luật: . 58

Kết Luận . 59

Phụ lục

Bảng phụ lục A: Các nhân tố hình thành chỉ số cấu thành nên chỉ số điều hành doanh

nghiệp . i

Bảng phụ lục B: Danh sách doanh nghiệp . ii

Phụ lục C: Mục lục quy chế quản trị doanh nghiệp và tóm tắt nội dung quy chế quản

trị công . .iii

Phụ lục D: Bài viết đánh giá về thông tư số 09/2010/TT-BTC hướng dẫn về công bố

thông tin . viii

Tài liệu tham khảo

 

pdf75 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1890 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng điều hành doanh nghiệp và chỉ số điều hành doanh nghiệp ở thế giới và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng những doanh nghiệp có giá trị tốt là những doanh nghiệp có chất lượng công bố thông tin cao, mức tập trung của sở hữu bên ngoài cao, và chú trọng vào một ngành chính hơn là đa dạng hóa ngành nghề. 2.2.2 Nghiên cứu về ảnh hưởng của điều hành doanh nghiệp đến tỷ suất sinh lợi và chi phí sử dụng vốn. 2.2.2.2 Nghiên cứu CLSA về tỷ suất sinh lợi Cuộc khảo sát của CLSA cho thấy trong thời kỳ 3 năm kết thúc vào tháng tư năm 2001, nhóm ¼ các doanh nghiệp hàng đầu về các tiêu chuẩn điều hành doanh nghiệp tạo ra một mức tỷ suất sinh lợi trung bình cho cổ đông là 267%. Trong khi đó một doanh nghiệp trung bình chỉ tạo ra một tỷ suất sinh lợi cho cổ đông là 127% trong cùng thời kỳ và các doanh nghiệp nằm trong ¼ các doanh nghiệp thấp nhất về các tiêu 26 chuẩn điều hành doanh nghiệp chỉ tạo ra một tỷ suất sinh lợi là 49% trong cùng thời kỳ. Ngoài ra, CLSA còn có một cuộc khảo sát tại 100 thị trường mới nổi lớn nhất, tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư (ROCE) trung bình là 23.5% trong năm 2000. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nằm trong nhóm ¼ các doanh nghiệp hàng đầu về tiêu chuẩn điều hành doanh nghiệp có mức ROCE là 33.8% trong khi đó các doanh nghiệp thuộc nhóm nửa dưới về tiêu chuẩn điều hành doanh nghiệp có mức ROCE là 16%. Điều này chứng tỏ rằng những doanh nghiệp có các tiêu chuẩn điều hành doanh nghiệp cao có nhiều khả năng hơn để đưa ra các quyết định và thực hiện các biện pháp kiểm soát nhằm đem lại tỷ suất sinh lợi cao nhất cho vốn đầu tư của cổ đông. Và những bài nghiên cứu này còn tìm ra được điều hành doanh nghiệp tốt không chỉ làm tăng giá trị của doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, tăng mức chi trả, tăng tỷ suất sinh lợi trên tài sản và tỷ suất sinh lợi cho nhà đầu tư, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài với chi phí sử dụng vốn thấp. 2.2.3 Một số bài nghiên cứu khác Trong bài nghiên cứu của Brown và Caylor (2004) đo lường chỉ số điều hành doanh nghiệp của các doanh nghiệp tại Mỹ, với 51 nhân tố chia thành 8 biến của 2327 doanh nghiệp( số liệu lấy từ tổ chức Institutional Shareholder Service (ISS)), đã chỉ ra rằng điều hành doanh nghiệp tốt có liên quan đến đến lợi nhuận cao hơn, tăng giá trị của doanh nghiệp và mức chi trả cho các cổ đông cũng cao hơn. Gompers, Ishii, và Metrick (2003) sử dụng số liệu từ Investor Responsibility Research Centre (IRRC) và kết luận rằng những doanh nghiệp mà quyền lợi của cổ đông được thực hiện tốt hơn thì sẽ có giá trị cao hơn,lợi nhuận cao hơn, tốc độ tăng trưởng doanh thu cao hơn, chi phí vay bên ngoài thấp hơn. Và kết quả cho mối quan hệ giữa chỉ số điều hành doanh nghiệp (KCGI)với tỉ số giá thị trường/ giá sổ sách hay là giá thị trường/doanh số: nếu chỉ số KCGI tăng 10 điểm thì tỉ số giá trị thị trường/giá trị sổ sách tăng 0.131 điểm ( t=4.70), và tỉ số giá trị thị trường/doanh số tăng 0.123 (t=4.73). (Trong bài nghiên cứu ở Hàn Quốc của Black, Jang và Kim (2005)) 27 2.2.4 Kết quả nghiên cứu về tác động của các yếu tố trong điều hành doanh nghiệp đến giá trị doanh nghiệp Không chỉ tìm ra mối quan hệ chung giữa điều hành doanh nghiệp và các giá trị doanh nghiệp mà các bài nghiên cứu trên thế giới còn khảo sát xem từng yếu tố cấu thành nên mô hình đi ều hành doanh nghiệp có mức tác động như thế nào đến giá trị của doanh nghiệp. 2.2.4.1 Mối liên kết giữa mức cân xứng giữa các thành viên HĐQT với các thành viên khác Trong các bài nghiên cứu của Baysinger và Butler (1985) và Rosenstein and Wyatt (1990), Brickley, Coles, Terry (1994) tìm đư ợc mối liên kết giữa tỷ lệ thành viên độc lập với thành quả của doanh nghiệp, ngoài ra trong bài nghiên cứu của Anderson, Mansi and Reeb (2004) còn tìm ra mối liên kết giữa thành viên độc lập với chi phí của nợ. Nghiên cứu của Hermalin và Weisbach (1991) và Bhagat và Black (2002). Brown và Caylor (2004) họ không tìm thấy mối quan hệ giữa tỉ số PBV với ban HĐQT độc lập, nhưng tìm ra đư ợc mối quan hệ giữa HĐQT với tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư, mức chi trả cổ tức, lợi nhuận biên, khối lượng giao dịch cổ phiếu. Black, Jang và Kim (2005) cũng tìm th ấy bằng chứng cho thấy những doanh nghiệp có hơn 50% thành viên HĐQT độc lập sẽ có giá trị Tobin’s q cao hơn 0.13 đơn vị( xấp xỉ với mức tăng 40% trong giá cổ phiếu). Điều này cho thấy vấn đề ban HĐQT độc lập ở thị trường mới nổi như Hàn Quốc lúc bấy giờ cũng được quan tâm nhiều, thậm chí còn có những văn bản và quy định yêu cầu cho một ban quản trị độc lập. 2.2.4.2 Vấn đề giữa quyền sở hữu và quyền quản lý Sự tách biệt giữa chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc điều hành tác động đến giá trị doanh nghiệp vì chi phí đ ại diện sẽ cao hơn nếu như một người nắm chức vụ ở cả hai vị trí. Yermack (1996) đã phân tích 452 doanh nghiệp của Mỹ trong thời gian từ 1984 đến 1991 và trong bài nghiên cứu của Brown and Caylor (2004) đều đã cho thấy giá trị của doanh nghiệp cao hơn ở những doanh nghiệp có sự tách biệt giữa chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc. ). Core, et al. (1999) cho thấy mức thù lao của tổng giám đốc thấp hơn ở những doanh nghiệp có sự tách biệt giữa chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc. 28 2.2.4.3 Mức độ tập trung của sở hữu Mức tập trung sở hữu của các cổ đông lớn và quyền lợi của cổ đông thiểu số cũng một trong những yếu tố tác động đến giá trị của doanh nghiệp. LLSV (1998, 2000a, 2002) đã đánh giá mức độ tập trung của mức sở hữu( quyền lợi của nhà đầu tư và các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu) tác động đến giá trị của doanh nghiệp như thế nào. Và họ đã kết luận rằng bảo vệ quyền lợi của cổ đông tốt có liên quan đến giá trị tài sản của doanh nghiệp cao, và sự tăng trưởng tốt trong giá trị thị trường. Khi mà quyền lợi của cổ đông được bảo vệ cao thì các nhà đ ầu tư bên ngoài sẵn sang đầu tư vào doanh nghiệp cao hơn cả về phần nợ và vốn cổ phần. Gompers et al. (2003) còn tìm thấy bảo vệ quyền lợi của cổ đông cao sẽ dẫn đến lợi nhuận và tốc độ tăng trưởng cao và chi phí sử dụng vốn thấp. Jensen and Meckling (1976) tìm thấy rằng tỉ số PBV sẽ thấp hơn ở những doanh nghiệp mà khả năng bị các cổ đông lớn thâu tóm, đặc biệt là khi họ nắm giữ cổ phần của các doanh nghiệp có vốn cổ phần của nhà nước lớn hay những doanh nghiệp theo cấu trúc gia đình. Mức độ tập trung của mức sở hữu đem lại lợi ích cho doanh nghiệp vì những cổ đông lớn trong ban quản trị sẽ hoạt động tốt hơn. Morck, Shleifer, và Vishny đã cho thấy nếu không có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý thì chi phí đại diện sẽ giảm và làm tăng giá cổ phiếu. 2.3 Thực trạng về vấn đề điều hành doanh nghiệp tại Việt Nam Mặc dù cũng đã có nh ững văn bản quy định về điều hành doanh nghiệp những đóng góp ý kiến và đề xuất biện pháp để điều hành doanh nghiệp hiệu quả hơn nhưng nhìn chung điều hành doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế và bị đánh giá là thấp so với các nước trên thế giới và khu vực. Những hạn chế này là do những nguyên nhân chính sau: Thứ nhất là chúng ta vẫn chưa bắt nhịp kịp với những thông lệ tốt nhất trong điều hành doanh nghiệp. Mặc dù Luật Doanh nghiệp đã có hiệu lực từ 1/7/2006, trong đó, quy định khá rõ về điều hành doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, nhưng đến nay, do chưa có Nghị định hướng dẫn, nên các doanh nghiệp chưa có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện; môi trường kinh tế và môi trường pháp lý chưa đư ợc đồng bộ, thông thoáng để có thể “điều hành doanh nghiệp” tốt 29 Thứ hai là nguồn nhân lực của chúng ta chưa đáp ứng yêu cầu “điều hành doanh nghiệp”. Sự hiểu biết về “điều hành doanh nghiệp” trong kinh doanh, trong xã hội Việt Nam còn rất mới mẻ, rất hạn chế. Nhiều giám đốc và thành viên HĐQT của doanh nghiệp, cán bộ trong các cơ quan quản lý Nhà nư ớc, đều chưa được đào tạo có hệ thống những kiến thức và kỹ năng về “điều hành doanh nghiệp”. Ngoài ra có nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được điều hành doanh nghiệp làm cho doanh nghiệp phát triển một cách lành mạnh, phản ánh đúng tình hình tài chính c ủa một doanh nghiệp để cổ đông và các nhà đầu tư yên tâm về khoản tiền đầu tư của họ. Điều hành doanh nghiệp ở Việt Nam đi cùng khuynh hướng chung với thông lệ quốc tế, nhưng những quy chế về quản trị này chỉ là những quy chế theo những quy tắc dịch ra từ những OECD mà không có triển khai những nội dung về mặt quản trị được hiểu theo nghĩa là “mangagement” như những nước phát triển. Đây là vấn đề mà những doanh nghiệp ở Việt Nam đang còn r ất yếu, chính điều này đã làm cho môi trường điều hành doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn ở mức thấp so với các nước trên thế giới. Bằng chứng là theo báo cáo xếp hạng kinh doanh của Ngân hàng thế giới năm 2008 được công bố, Việt Nam xếp thứ 170/181 quốc gia, vùng lãnh thổ về bảo vệ nhà đầu tư, bảo vệ cổ đông, chủ yếu xuất phát từ mức độ công khai hoá các giao dịch tư lợi thấp (2/10 điểm); trách nhiệm của người quản lý trước những sai phạm họ gây ra đối với doanh nghiệp (0/10 điểm), mức độ dễ dàng đối với cổ đông trong khởi kiện người quản lý thấp (2/10 điểm)... 2.3.1 Những tiến bộ liên quan đến vấn đề điều hành doanh nghiệp ở Việt Nam 2.3.1.1 Những cải cách trong văn bản quy định liên quan đến điều hành doanh nghiệp Trong bối cảnh thị trường chứng khoán ngày càng phát triển các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường ngày càng tăng và nhà đầu tư tham gia góp vốn vào các doanh nghiệp niêm yết cũng tăng r ất nhanh. Chính điều này đã làm cho nh ững vấn đề về minh bạch thông tin, chất lượng của ban quản trị và ban điều hành của doanh nghiệp hay là lợi ích xung đột giữa những cổ đông thiểu số và cổ đông lớn rất được nhà đầu tư quan tâm. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp niêm yết đều chịu sự điều chỉnh của các quy định về điều hành doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006 và Quyết định 12 /2007/QĐ-BTC ngày 13 tháng 3 năm 2007 về việc 30 ban hành “Quy chế quản trị doanh nghiệp” áp dụng cho các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán/ Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (“Quyết định 12”) và Quyết định 15/2007/QĐ-BTC ngày 19 tháng 3 năm 2007 về việc ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán/ Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (“Quyết định 15”). Mới đây Thông tư 09/2010/TT-BTC hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán (TTCK) thay thế Thông tư 38/2010/TT-BTC ngày 18/4/2007. Những quy định này rất cần thiết cho môi trường quản trị còn nhiều hạn chế ở Việt Nam.( Nội dung của quyết định 12/2007/QĐ- BTC và Thông tư 09/2010/TT-BTC được tóm lược nội dung trong phụ lục D và E) Đáng lưu ý hơn cả là những quy định trong quy chế điều hành doanh nghiệp, quy định những yêu cầu để có được một mô hình quản trị hiệu quả, bảo đảm quyền lợi cổ đông và đối xử xử công bằng cổ đông, những quy định để ban quản trị và ban điều hành hoạt động hiệu quả hơn. Trong thông tư 09/2010/TT-BTC về công bố thông tin đã quy đ ịnh rõ về cả hình thức, nội dung và thời hạn cho công bố thông tin và bên cạnh đó còn đưa ra những hình thức xử lí khi có vi phạm công bố thông tin. 2.3.2.2 Những tiến bộ trong quá trình triển khai điều hành doanh nghiệp ở các doanh nghiệp tại Việt Nam Khá nhiều doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. HCM đã áp dụng việc điều hành doanh nghiệp theo những quy định tại Điều lệ mẫu do Bộ Tài chính ban hành. Một trong những điểm quan trọng liên quan đến vấn đề cơ cấu trong Điều lệ mẫu là quy định về việc HĐQT các doanh nghiệp niêm yết phải có thành viên độc lập không điều hành ít nhất bằng 1/3 tổng số thành viên hội đồng quản trị. Thực tế cho thấy, tại những doanh nghiệp áp dụng nghiêm túc quy định này, không chỉ việc minh bạch hoá thông tin được thực thi tốt hơn, mà hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng được định hướng một cách cân bằng và hiệu quả hơn. Điển hình như trong khối doanh nghiệp ngành ngân hàng, HĐQT Ngân hàng Á châu (ACB), Tại Ngân hàng TMCP Sacombank đều có số lượng thành viên độc lập đúng theo quy định... Và chất lượng quản trị của những ngân hàng này đã được minh chứng bằng kết quả kinh doanh vượt trội so với nhóm ngân hàng thương mại còn lại. Hiện cổ phiếu của ACB và Sacombank là 2 loại thuộc hàng blue-chip trên sàn niêm yết. Cả 2 31 ngân hàng đang hướng đến mục tiêu trở thành những tập đoàn tài chính – ngân hàng hàng đầu Việt Nam. Bên cạnh đó, cuộc thi bình chọn Báo cáo thường niên xuất sắc được tổ chức từ năm 2008 đã đem l ại những lợi ích tích cực cả cho công chúng và cho chính những doanh nghiệp tham gia vào cuộc bình chọn này. Minh bạch thông tin không đem lại lợi nhuận trực tiếp cho doanh nghiệp, nhưng nó làm doanh nghiệp trở nên hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư làm cho nhà đầu tư có niềm tin vào doanh nghiệp. Nên mục tiêu của cuộc bình chọn là chọn ra các doanh nghiệp có sự thể hiện báo cáo thường niên chuyên nghiệp, minh bạch, chuẩn mực và cung cấp đầy đủ thông tin nhất cho nhà đầu tư. Hay nói cách khác, tiêu chí chấm giải dựa vào cách thức mà doanh nghiệp công khai thông tin chứ không dựa vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu. Cuộc bình chọn này là động lực để cho các doanh nghiệp chú trọng vào việc trình bày báo cáo thư ờng niên nhiều hơn, bên cạnh đó khi bắt đầu có chương trình tham gia cuộc bình chọn, ban tổ chức cũng đã có những hướng dẫn cụ thể doanh nghiệp cách làm báo cáo thường niên như thế nào cho hiệu quả. Đến năm 2009, sau một năm thực hiện cuộc bình chọn lần đầu tiên thì theo nhận xét của ban tổ chức một số doanh nghiệp đã có những bước cải thiện đáng kể trong nội dung và hình thức, trình bày rất đẹp mắt dễ theo dõi và cũng rõ ràng trong việc trình bày các báo cáo tài chính và những mục tiêu định hướng của doanh nghiệp. Đứng về phía các doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp đã nổ lực triển khai mô hình quản trị theo quy định và điều này đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong kinh doanh. 2.3.2 Những mặt còn hạn chế liên quan đến vấn đề điều hành doanh nghiệp ở Việt Nam 2.3.2.1 Những mặt còn hạn chế trong khung pháp lý Khung pháp lý chưa đ ầy đủ khiến cho việc thực hiện các quy định về điều hành doanh nghiệp tại các doanh nghiệp niêm yết hiện nay chưa cụ thể, thiếu đồng bộ và mang nặng tính hình thức. Thực trạng này đã và đang gây ra nhi ều bất cập cho cả doanh nghiệp và cổ đông. Do những quy định về tỷ lệ biểu quyết không phù hợp với thực tế nên nhiều cuộc đại hội cổ đông đã không kết thúc thành công làm cho tốn kém rất nhiều chi phí. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, muốn tổ chức đại hội đồng cổ đông thì phải 32 đáp ứng tối thiểu 65% cổ phần có quyền biểu quyết dự họp, trường hợp lấy ý kiến bằng văn bản tối thiểu 75%. Ngoài ra tổ chức đại hội đồng cổ đông thường niên thì không được lấy ý kiến bằng văn bản, buộc phải tổ chức đại hội. Ngoài ra những vấn đề như sửa đổi điều lệ, bổ sung điều lệ, bầu thành viên HĐQT đều không được lấy ý kiến bằng văn bản. Với quy định này, trong thời gian qua rất nhiều doanh nghiệp không tổ chức được đại hội cổ đông, có doanh nghiệp phải tổ chức tới lần thứ 2, thậm chí thứ 3 mới thành công do tỷ lệ biểu quyết không đạt theo quy định. Nhiều cổ đông nắm giữ ít cổ phần không quan tâm tham dự và cũng không thực hiện quyền của mình đến nơi đến chốn. Trong vấn đề các thành viên HĐQT độc lập thì theo Quyết định 12 về Quy chế điều hành doanh nghiệp áp dụng cho doanh nghiệp niêm yết và Quyết định 15 về Điều lệ mẫu áp dụng cho doanh nghiệp niêm yết, tính độc lập của thành viên HĐQT được thể hiện bằng quy định tối thiểu 1/3 tổng số thành viên HĐQT là độc lập không điều hành; hạn chế thành viên HĐQT kiêm nhiệm chức vụ trong bộ máy điều hành. Điều này nhằm mục đích ngăn ngừa các xung đột lợi ích trong doanh nghiệp. Nhưng so sánh với các tiêu chí về quản trị của doanh nghiệp Việt Nam với Malaysia, Singapore, Trung Quốc, tiêu chí về thành viên HĐQT độc lập tại Việt Nam còn thiếu cụ thể, nhiệm kỳ dài (theo nhiệm kỳ 5 năm, trong khi các nước khác là thường niên), vai trò trách nhiệm của thành viên HĐQT cũng không đư ợc xác định rõ ràng,...vì vậy mà thành viên HĐQT độc lập ở Việt Nam vẫn chưa phát huy hết vai trò của mình. Thêm vào đó việc minh bạch và công bố thông tin ở Việt Nam còn hạn chế và còn nhiều cản trở do nhiều yếu tố, cả trong môi trường pháp luật. Ví dụ, chính sách thuế chưa rõ ràng và phụ thuộc quá nhiều vào các quyết định chủ quan của cán bộ thuế cũng có thể làm cho doanh nghiệp khó có thể minh bạch hóa tất cả các giao dịch của mình. Ngoài những bất cập do những quy định và môi trường pháp lý đem lại thì chính bản thân nhiều doanh nghiệp cũng không thể tuân theo các quy định về điều hành doanh nghiệp nên các vấn đề khó khăn mà doanh nghiệp thường hay mắc phải về quản trị hiện nay chính là việc HĐQT chưa thực hiện tốt vai trò và chức năng của mình; không minh bạch thông tin; giao dịch với các bên liên quan và xung đột về lợi ích tiềm ẩn; Ban kiểm soát(BKS) chưa thực hiện tốt vai tṛò chức năng của mình. 33 Vì chưa có những quy định cụ thể nên việc áp dụng điều lệ mẫu và quy chế quản trị của các doanh nghiệp chỉ là hình thức, bởi đa phần là chép lại nguyên xi mà không có bất kỳ sự cụ thể hóa hoặc không căn cứ theo đặc điểm đặc thù của từng doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp có điều lệ giống nhau. 2.3.2.2 Những yếu kém trong điều hành doanh nghiệp ở các doanh nghiệp tại Việt Nam 2.3.2.2.1 Những vấn đề liên quan đến cổ đông Chính những bất cập trong Luật doanh nghiệp và điều lệ doanh nghiệp, cơ chế của ban hội đồng quản trị, minh bạch thông tin và BKS bị hạn chế quyền lực đã làm cho quyền cổ đông thiểu số đã không đư ợc bảo vệ trong thời gian qua. Cụ thể là những quy định trong luật cũng không đủ chặt chẽ để trở thành khung pháp lý đ ể bảo vệ cổ đông và các doanh nghiệp cũng lợi dụng những thiếu sót đó để không thực hiện các quyền lợi theo quy định cho các cổ đông thiểu số, khi các cổ đông lớn có những động thái thâu tóm hay thực hiện lợi dụng bất cân xứng thông tin để thực hiện những giao dịch vì lợi ích cá nhân và gây thiệt hại cho cổ đông thiểu số. Một số những bất cập về quy định trong Luật doanh nghiệp về bảo vệ cổ đông thiểu số là trong tiết c, khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp quy định: “c) Việc biểu quyết bầu thành viên HĐQT và BKS phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu, theo đó mỗi cổ đông có tổng số phiếu biểu quyết tương ứng với tổng số cổ phần sở hữu nhân với số thành viên được bầu của HĐQT hoặc BKS và cổ đông có quyền dồn hết tổng số phiếu bầu của mình cho một hoặc một số ứng cử viên”. Nhưng cho đến nay, chưa có văn bản chính thức nào hướng dẫn về phương pháp “cộng dồn phiếu” theo quy định trên. Vì vậy, một số doanh nghiệp cổ phần đã sáng tạo và đưa ra quy định: xác định số phiếu biểu quyết quy đổi theo tỷ lệ vốn. Chẳng hạn, trong điều lệ doanh nghiệp quy định, mỗi phiếu biểu quyết đại diện cho 10% vốn góp. Một cổ đông chiếm 70% số vốn điều lệ đương nhiên có bảy phiếu biểu quyết, cổ đông chỉ chiếm 10% vốn điều lệ thì đương nhiên chỉ được tính là 01 phiếu. Bên cạnh đó Luật Doanh nghiệp chưa cho phép cổ đông thiểu số nếu không đồng ý với quyết định của HĐQT hay ban giám đốc điều hành thì đư ợc kiện ra tòa. Trong khi ở nước ngoài luật lại cho phép điều này. Khi không hài lòng, cổ đông có thể kiến nghị với BKS thực hiện điều này điều kia. Nếu BKS không thực hiện thì cổ đông kiện 34 ra tòa. Luật nước ngoài bảo vệ rất tốt những cổ đông thiểu số. Vì thế hội đồng điều hành doanh nghiệp rất ngại thưa kiện nên đối xử rất sòng phẳng, công khai, minh bạch với cổ đông. Trong khi đó ở nước ta, như đã trình bày ban giám sát nhiều khi trở thành công cụ của ông tổng giám đốc. Tình trạng các doanh nghiệp không bảo đảm quyền lợi của cổ đông thiểu số đang rất phổ biến tại Việt Nam. Tính đến thời điểm nay thì trong các kỳ Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) tiếng nói của cổ đông thiểu số gần không có. Sự có mặt của các cổ đông nhỏ lẻ gần như chỉ để đủ cơ cấu, không thể hiện được quyền của mình trong mọi vấn đề hoạt động của doanh nghiệp mà mình góp vốn. Hầu hết, tại các ĐHĐCĐ, chủ yếu là thông qua những nội dung mà HĐQT đã chuẩn bị sẵn. Điều này thể hiện rõ nét hơn ở doanh nghiệp có phần vốn nhà nước chiếm quá nửa hay những doanh nghiệp có cơ cấu mức sở hữu tập trung cao vào một số cổ đông lớn. Với mô hình tập trung sở hữu thuộc về tư nhân hay Nhà nước, quyền lực sẽ rơi vào một nhóm người, và những ty có mô hình như thế thì hầu hết các cổ đông lớn đều tìm cách khai thác một cách triệt để lợi nhuận cho mình, bất chấp thiệt hại thuộc về ai. Những thực trạng nổi bật về lạm quyền của cổ đông lớn là tự đặt cho mình cái quyền tự quyết trong việc trực tiếp bổ nhiệm đại diện của mình làm thành viên hội đồng quản trị; trực tiếp quyết định tăng vốn điều lệ hoặc điều chuyển, sử dụng tài sản của doanh nghiệp phục vụ cho lợi ích riêng của mình hoặc cho doanh nghiệp con khác; hoặc đã sử dụng vị thế là cổ đông đa số biểu quyết dành cho mình quyền mua nhiều hơn với giá ưu đãi khi doanh nghiệp phát hành thêm cổ phần mới... Việc lạm quyền của cổ đông lớn kéo dài một mặt vì nhiều cổ đông nhỏ lẻ do chưa hiểu hoặc ít quan tâm đến quyền lợi của mình nên đã phó thác phần vốn của mình cho doanh nghiệp, miễn sao giá cổ phiếu tăng trưởng theo thời gian và cổ tức được chia tăng hàng năm. . Dựa vào điểm yếu này, không ít doanh nghiệp khi muốn thay đổi một số nội dung trong điều lệ hoạt động hoặc kế hoạch kinh doanh, Chủ tịch HĐQT chỉ thăm dò thái độ đồng tình của các cổ đông lớn mà bỏ qua các cổ đông nhỏ. Nhưng đến mùa đại hội năm nay cả khi các cổ đông bắt đầu tham gia vào góp ý kiến hay phản đối ý kiến của HĐQT nhưng không phải ở cu ộc họp nào cổ đông bên ngoài cũng giành ưu thế . Cụ thể là trường hợp các Doanh nghiệp cổ phần Vận tải Xăng dầu 35 (VIPCO), Doanh nghiệp cổ phần Bê tông Xuân Mai, Doanh nghiệp cổ phần VITACO khi phát hành thêm cổ phiếu đã có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ về giá phát hành và tỷ lệ quyền mua cổ phiếu. Mặc dù vậy, phương án phát hành cổ phiếu mới vẫn được thông qua tại Đại hội đồng cổ đông, do cổ đông thiểu số không có đủ tỷ lệ biểu quyết để bác bỏ. Trường hợp lợi dụng ưu thế về bất cân xứng thông tin như thương vụ bà Nguyễn Thị Kim Phượng thực hiện với cổ phiếu VTV. Ngày 3/2/2010, bà Phượng chào mua công khai 1,3 triệu cổ phiếu VTV tại HNX với mục đích tăng tỷ lệ nắm giữ. Giá cổ phiếu vào thời điểm này khoảng 40.000 đồng.Đến ngày 24/3, khi lệnh chào mua đã b ị hủy do giá cổ phiếu tăng cao quá 30%, bà Phượng bất ngờ bán ra toàn bộ số cổ phiếu đang nắm giữ (không hề thông báo). Khi thông tin được biết thì hàng loạt cổ đông thiểu số bị thiệt hại nặng nề vì giá cổ phiếu lúc đó giảm quá nhanh. Hay trường hợp tự cho mình những đặc quyền như tình huống 11 thành viên hội đồng điều hành doanh nghiệp FPT góp vốn vào doanh nghiệp con mà không thông báo với các cổ đông thiểu số. Vì hầu hết các thành viên HĐQT của doanh nghiệp này đều tham gia điều hành. 2.3.2.2.2 Những vấn đề liên quan đến ban quản trị, ban điều hành và ban kiểm soát Một tồn tại khá phổ biến biểu hiện cho hiện tượng chỉ tuân thủ quy định theo hình thức đó là vấn đề về tính độc lập của thành viên hội đồng quản trị. Những bất cập trong vấn đề này dẫn đến hậu quả là việc công bố thông tin của thành viên HĐQTchưa chủ động, chậm hoặc không công bố thông tin, và những quyền lợi của cổ đông thiểu số không được bảo vệ. Đây cũng là một trong những vi phạm thường gặp trong công tác quản trị của các doanh nghiệp niêm yết hiện nay. Theo Quyết định 12 về Quy chế điều hành doanh nghiệp áp dụng cho doanh nghiệp niêm yết và Quyết định 15 về Điều lệ mẫu áp dụng cho doanh nghiệp niêm yết, tính độc lập của thành viên HĐQT được thể hiện bằng quy định tối thiểu 1/3 tổng số thành viên HĐQT là độc lập không điều hành; hạn chế thành viên HĐQT kiêm nhiệm chức vụ trong bộ máy điều hành. Điều này nhằm mục đích ngăn ngừa các xung đột lợi ích trong doanh nghiệp. 36 Tuy nhiên, trên thực tế, theo đến 31/3-2009, chỉ có 107/177 doanh nghiệp niêm yết thực hiện bầu thành viên HĐQT độc lập không điều hành và chỉ có 99/177 doanh nghiệp tách bạch giữa HĐQT và ban giám đốc. Thông thường ở các nước, thành viên HĐQT độc lập không điều hành là nhà kinh tế, giáo sư, kế toán, luật sư, nhân sự điều hành doanh nghiệp lớn đã nghỉ hưu, là chính khách có kinh nghiệm, uy tín để đóng góp khách quan vào sự phát triển của doanh nghiệp. Nhưng ở Việt Nam đang rất thiếu những thành viên HĐQT độc lập có trình độ và năng lực theo yêu cầu như vậy. Ở đa số các doanh nghiệp cổ phần khác, thành viên HĐQT độc lập hoặc chưa có hoặc tính độc lập không rõ nét hoặc vai trò rất mờ nhạt. Bởi vì đa số các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam cổ đông lớn đều nằm trong HĐQT và tham gia điều hành nên họ cũng không muốn phải bầu ra một thành viên HĐQT độc lập để giám sát chính mình. Còn ở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThực trạng điều hành doanh nghiệp và chỉ số điều hành doanh nghiệp ở Thế giới và Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan