Đề tài Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt nam, kinh nghiệm thế giới và bài học đối với Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC VỚI VIỆT NAM 2

1.1. Lí luận chung về chính sách lãi suất 2

1.1.1. Khái Niệm 2

1.1.2. Vai trò của lãi suất tác động tới nền kinh tế 2

1.1.2.1.Tác động của lãi suất đến tiêu dùng 3

1.1.2.2. Tác động của lãi suất đến đầu tư của doanh nghiệp 3

1.1.3.Vai trò điều tiết lãi suất của NHTƯ 5

1.1.4. Các tác động tới lãi suất 6

1.1.5. Các công cụ điều hành chính sách lãi suất của NHNN 9

1.2. Chính sách tiền tệ của một số nước và kinh nghiệm của Việt Nam 12

CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM 17

2.1 Chính sách lãi suất tại Việt Nam và kết quả đạt được qua các giai đoạn 17

2.1.1. Giai đoạn trước tháng 6/1992 . 17

2.1.2. Giai đoạn 6/1992 - 1995 17

2.1.3. Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7/2000 18

2.1.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay 19

2.2. Những kết quả đạt được 24

2.3. Một số hạn chế còn tồn tại của chính sách lãi suất 25

CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM 30

3.1. Kết luận về chính sách điều hành lãi suất của Việt Nam trong năm 2008 30

3.1.1 Giai đoạn tăng lãi suất với mục kiềm chế lạm phát đặt lên hàng đầu. 31

3.1.1 Giai đoạn giảm lãi suất với mục chống suy thoái kinh tế đi kèm với việc tiếp tục kiềm chế lạm phát đặt lên hàng đầu. 34

KẾT LUẬN 36

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 37

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 4328 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt nam, kinh nghiệm thế giới và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu cắt giảm lãi suất trong năm 2007, và như thế đồng USD sẽ tiếp tục chịu sức ép giảm giá so với các đồng tiền mạnh khác. b) Biện pháp điều chỉnh lãi suất trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc * Quá trình vận dụng Trong 3 năm qua, Trung Quốc đã có 5 lần điều chỉnh lãi suất ngân hàng. Chính sách tiền tệ đang từng bước trở thành một trong những công cụ đòn bẩy cho nền kinh tế Trung Quốc. Sự vận dụng chính sách tiền tệ trong mấy năm qua của Trung Quốc được thể hiện ở mấy mặt sau: - Tăng lượng tiền cơ sở của Ngân hàng. Riêng trong tháng 1 năm 1998 đã tăng thêm 78 tỉ NDT, đến cuối tháng 4/98, lượng tiền cơ sở của ngân hàng trung ương đã tăng 17,9% so cùng kỳ năm 1997, tăng cao hơn 3,3 điểm phần trăm so với cuối năm 1997. - Giảm bớt quĩ dự phòng tiền gửi (tức là lượng tiền ngân hàng thương mại giữ lại từ tiền gửi của các hộ gửi và tái cho vay của Ngân hàng trung ương; tỉ lệ quĩ dự phòng gửi lại so với số tiền ngân hàng cho vay gọi là tỉ lệ tiền quỹ dự phòng). Biện pháp này nhằm tăng cường năng lực cho vay thực tế của ngân hàng thương mại. Tháng 3/98 đã giảm từ 13% xuống còn 8%. Đến 1/7/98 lại giảm xuống còn 5,31%. Cả 2 lần điều chỉnh đã giảm 3,84 điểm phần trăm. - Ngân hàng Trung ương điều chỉnh hạ lãi suất quĩ dự phòng (lãi suất của quĩ dự phòng tiền gửi mà ngân hàng thương mại tái cho vay ngân hàng trung ương). Điều này đã có tác dụng điều chỉnh khuynh hướng “Thà gửi tiền ngân hàng để lấy lãi còn hơn là cho các xí nghiệp vay”, đồng thời đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại chủ động hơn trong việc cho vay. - Trong 5 lần giảm lãi suất ngân hàng, lãi suất dài hạn giảm mạnh hơn lãi suất ngắn hạn, qua đó đã tránh được những rủi ro. Nhu cầu đầu tư, đặc biệt là nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản tăng trưởng sẽ là một trong những lực kéo chủ yếu của nền kinh tế. * Kết quả: Việc vận dụng chính sách tiền tệ để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng đã đạt được một số kết quả thu được khả quan và sáng sủa. Cụ thể là: - Các chỉ số tổng hợp của nền kinh tế Trung Quốc không có sự tăng trưởng rõ rệt. Theo đánh giá của Trung tâm dự đoán kinh tế Trung Quốc, chỉ số tổng hợp của kinh tế trong tháng 5 vẫn ở vào vùng giao thoa giữa “lạnh” và “hơi lạnh”. - Mục tiêu tăng trưởng đầu tư 15% năm 1998 sẽ rất khó thực hiện. Đầu tư trong 5 tháng đầu năm 98 chỉ tăng 12,7% so cùng kỳ 1997, giảm 1,3 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng của cùng kỳ 1997. - Sự thua lỗ của các xí nghiệp vẫn có xu hướng gia tăng, mặc dù gánh nặng lợi tức của các xí nghiệp đã giảm đáng kể do ngân hàng giảm lãi suất (theo tính toán giảm được 150 tỉ NDT). Trong 5 tháng đầu 98, xí nghiệp quốc hữu lỗ hơn 17 tỉ NDT. Nguyên nhân chủ yếu là sản phẩm không tiêu thụ được, nhu cầu tiêu dùng vẫn chưa được kích thích một cách rõ rệt. - Mức gửi tiền tiết kiệm của cư dân vẫn ở mức cao, cho nên đến cuối 5/98, tổng số dư tiền gửi tiết kiệm của cư dân trong ngân hàng là 4,969,945 tỉ NDT, tăng 17,5% so cùng kỳ năm 1997. Trung Quốc chủ trương kích thích nhu cầu tiêu dùng ở trong nước, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy xuất hiện điểm tăng trưởng mới nào về nhu cầu tiêu dùng. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, kết quả kích thích của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế sẽ được thể hiện rõ nét trong nửa cuối năm 1998. Thể chế kinh tế thị trường hiện nay ở Trung Quốc chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu của chính sách tiền tệ. Cải cách tiền tệ tiến hành “chưa đến nơi đến chốn”. Trên thực tế đã tồn tại một nghịch lý là: Các xí nghiệp làm ăn có lãi lại không có nhiều nhu cầu đối với các khoản vay ngân hàng. Bởi vì các xí nghiệp này có thể huy động vốn một cách linh hoạt từ thị trường chứng khoán hoặc từ nguồn vốn tự có của xí nghiệp, mặc dù ngân hàng có khuyến khích. Ngược lại, ngân hàng lại không dám cho vay hoặc cho vay rất hạn chế đối với các xí nghiệp kinh doanh kém hiệu quả vì sợ phải gánh chịu rủi ro. Mặt khác các xí nghiệp vừa và nhỏ khi đi vay ngân hàng lại phải có người đứng ra bảo lãnh, việc tìm người bảo lãnh gặp rất nhiều khó khăn và làm cho giá thành nâng lên rất cao. * Những điểm cần chú ý: Qua thực tế trên, các chuyên gia kinh tế Trung Quốc cho rằng, chính sách tiền tệ cũng không phải là một công cụ “vạn năng”, nó là một “con dao nhiều lưỡi”, cần phải hết sức chú ý trong quá trình vận dụng, có thể phải hy sinh một mục tiêu nào đó để đạt được mục tiêu khác cần thiết hơn. Khi vận dụng biện pháp điều chỉnh lãi suất ngân hàng phải như là một biện pháp vĩ mô và cần chú ý một số điểm sau: - Giảm tỉ lệ lãi suất có nghĩa là tăng lượng cung ứng tiền mặt có thể làm tăng tỉ lệ lạm phát. Khi vận dụng, cần kết hợp với chính sách thắt chặt tài chính ở mức độ vừa phải. - Lượng cung ứng tiền mặt được tăng lên có thể làm cho giá trị của đồng NDT bị giảm. Trung Quốc vẫn chưa cho phép đồng NDT được chuyển đổi tự do ở các hạng mục tư bản, nhưng vẫn cần phải chú ý đề phòng các nguồn tư bản bên ngoài vẫn có thể gây ảnh hưởng thông qua con đường các hạng mục thông thường. - Ngoài ra, chính sách tiền tệ còn có thể có hiệu ứng phụ đối với các hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức cơ cấu tiền tệ; ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn trong nghiệp vụ kinh doanh do sự cạnh tranh cho vay vốn giữa ngân hàng và các tổ chức tiền tệ khác, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh tiền tệ ngầm bất hợp pháp trên thị trường chợ đen. CHƯƠNG 2 CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TẠI VIỆT NAM 2.1 Chính sách lãi suất tại Việt Nam và kết quả đạt được qua các giai đoạn Lãi suất cơ bản (lãi suất) là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn. Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ bản. Diễn biến cơ bản của chính sách lãi suất tại Việt Nam có thể chia thành năm giai đoạn sau: 2.1.1. Giai đoạn trước tháng 6/1992 Ngân hàng Nhà nước (NHNN) can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi suất tiền gửi (LSTG) và lãi suất cho vay (LSCV). Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì suốt thời kỳ này với: - LSCV đối với doanh nghiệp nhà nước LSCV dài hạn; - LSTG tiết kiệm > LSTG của các tổ chức kinh tế. Tình trạng này làm cho lãi suất không thực hiện được chức năng vốn có của nó; lãi suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu gửi tiền của công chúng, phát huy tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. 2.1.2. Giai đoạn 6/1992 - 1995 NHNN đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính sách lãi suất: - Chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo cho người dân gửi tiền và ngân hàng là người cho vay đều được lợi; - Xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, thay vì ấn định lãi suất cụ thể bằng quản lý lãi suất theo một khung, bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay. - NHNN cho phép Ngân hàng thương mại (NHTM) được thoả thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu- lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng); - Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của CSTT cùng với lãi suất tái cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực. Lãi suất tái cấp vốn được tính bằng % so với lãi suất cho vay của TCTD. Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này còn nhiều hạn chế. Những thay đổi trên thể hiện chính sách lãi suất đã được cải cách theo hướng linh hoạt hơn và phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Sự thay đổi từ việc ấn định các mức lãi suất cụ thể sang quy định trần và sàn lãi suất, cho phép các TCTD chủ động, tự quyết định mức lãi cụ thể của đơn vị mình là bước chuyển biến quan trọng để tiến tới quá trình tự do hoá lãi suất, làm cho lãi suất linh hoạt hơn, hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp trực tiếp của NHNN vào hoạt động của NHTM. Mặc dù vậy, cơ chế này vẫn khống chế trực tiếp lãi suất trên thị trường, làm giảm tác dụng kích thích và điều tiết hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7/2000 NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn bản về điều hành lãi suất: - Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi - lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước). - Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong năm các năm 1998, 1999. - Trong năm1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái cấp vốn, chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/ 99) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ. - Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn; - Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch. Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do: trước hết, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế; thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường, nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc sử dụng các công cụ gián tiếp khác chưa thực sự có hiệu quả; việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD, hạn chế việc hình thành và phát triển của các công cụ tài chính, có nguy cơ làm suy yếu năng lực tài chính của TCTD 2.1.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay Tháng 8/2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản + 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều. Hình 1 cho thấy lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép. Trước thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã kịch trần (0,85%/tháng). Thực tế là trong năm 1999, các NHTM không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của NHNN, và kết quả, như trên Hình 1, là LSCV ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất. Từ tháng 8/2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng với biên độ 0,3%/tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Một điểm đáng chú ý nữa là LSCV của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng LSCV vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt. Hình 1: Từ trần lãi suất đến lãi suất cơ bản rồi tự do hóa lãi suất, 1998-2002 Nguồn: Tính toán từ cơ sở dữ liệu tài chính quốc tế IFS của IMF. Nhận xét về cơ chế điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản của NHNN có nhiều ý kiến khác nhau, Nhìn chung có ba ý kiến sau: Ý kiến thứ nhất cho rằng lãi suất cơ bản + biên độ không có gì khác với trần lãi suất trước đây và, do vậy, sẽ không tạo ra tác động gì nhiều tới các mức lãi suất cũng như hành vi huy động và cho vay vốn của các ngân hàng. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ (như tiểu thương, hộ sản xuất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Đó là do chi phí cho vay các đối tượng này thường lớn nên không thể cho vay trong khuôn khổ trần lãi suất hay lãi suất cơ bản cộng biên độ. Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép, các ngân hàng giờ đây có thể định mức LSCV khác nhau tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, LSCV thực tế của ngân hàng mặc dù không đụng giới hạn biên độ nhưng có xu hướng thay đổi cùng với lãi suất cơ bản. Thực ra, NHNN trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình thay đổi lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thế tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất. Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế lãi suất mới. Theo ý kiến này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai thực thể này. Đó là vì, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho những doanh nghiệp nhà nước được chính phủ bảo lãnh ngầm vay vốn với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65%/tháng trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8%/tháng vì các ngân hàng coi cho khu vực này vay vốn là rủi ro hơn. Vào tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài. Vào tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng. Như đã trình bày, các ngân hàng đã chủ động xác định LSTG và LSCV từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ còn tính chất tham khảo. LSTG tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập tức nhích lên. Quan điểm hoài nghi về tự do hóa lãi suất cho rằng, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”. Các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Đặc biệt, các NHTM cổ phần dường như không thể giảm LSTG để giảm LSCV vì sẽ ngay lập tức bị người tiết kiệm rút tiền. Ngược lại, khi không còn trần về lãi suất hay giới hạn lãi suất cơ bản + biên độ, họ có thể có xu hướng tăng lãi suất huy động rồi đầu tư rủi ro cao (do tác động của lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại) trước sức ép cạnh tranh. Trong khi đó, những người ủng hộ đưa ra các lập luận tương tự như các lý lẽ ủng hộ cơ chế lãi suất cơ bản trước đây. Các nhà hoạch định chính sách hy vọng rằng lãi suất giờ đây sẽ phản ánh cung cầu trên thị trường vốn vay. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho các đối tượng kinh doanh nhỏ hay nông dân vay với lãi suất phản ánh các chí phí cho vay và rủi ro. Cơ chế do hóa lãi suất này đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới để huy động cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và nhanh hơn vốn cho người cần vay ... Hơn thế nữa, nó tạo thuận lợi cho việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường, nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Thực tế từ khi cơ chế lãi suất thỏa thuận được đưa vào thực hiện cho thấy, lãi suất vẫn còn thiếu tính thị trường. Nguyên nhân chủ yếu vì tính độc quyền của các NHTM nhà nước và những ưu đãi trong cho vay chỉ định của Chỉnh phủ. Trong mảng tín dụng thì “bốn đại gia” NHTM nhà nước đã chiếm trên 70% thị phần nên chưa tránh được việc lãi suất bị các ngân hàng này chi phối. Trong khi đó, Chính phủ hạn chế việc tiếp cận thị trường ngân hàng của các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Hiện nay theo qui định các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài (trừ các ngân hàng Mỹ), không được phép huy động tiền gửi tiết kiệm VND từ tổ chức và cá nhân Việt Nam, lượng huy động tiền gửi VND không kỳ hạn không được quá 50% /tổng số vốn của chi nhánh. Thêm vào đó, quá nhiều ưu đãi về lãi suất của Chỉnh phủ thông qua con đường cho vay chỉ định cũng làm mất đi tính thị trường của lãi suất. Việc cho phép TCTD được tự thoả thuận lãi suất cho vay bằng VND dựa theo quan hệ cung-cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng trong điều kiện môi trường cạnh tranh giữa các TCTD chưa bình đẳng, một số vùng nông thôn còn chưa đa dạng về loại hình TCTD cần có các giải pháp hỗ trợ tránh việc lãi suất có thể bị đẩy lên cao do sự độc quyền của một số TCTD có nguồn vốn lớn, làm mất tác dụng của cơ chế tự do hoá lãi suất. NHNN và Hiệp hội ngân hàng cần phát huy vai trò của mình tránh để việc này xảy ra. Nên chăng nới rộng, tiến tới xóa bỏ các qui định về huy động tiền gửi VND cho các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, điều này cũng phù hợp với tiến trình hội nhập. Nếu nới lỏng các hạn chế như: không được phép huy động tiền gửi tiết kiệm VND từ tổ chức và cá nhân Việt Nam, lượng huy động tiền gửi VND không kỳ hạn không được quá 50% /tổng số vốn của chi nhánh, các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ giảm được tình trạng thiếu nguồn vốn VND và do vậy có thể tham gia tích cực hơn vào nghiệp vụ thị trường mở. Bên cạnh đó thì việc nâng cao hiệu ứng tác động của lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất liên ngân hàng và lãi suất thị trường cũng cần được chú ý đúng mức. Từ năm 2003, lãi suất cho vay cầm cố được điều chỉnh dần để đóng vai trò là lãi suất trần của thị trường liên ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu được qui định làm sàn của thị trường liên ngân hàng. Mức chênh lệch giữa lãi suất trần và lãi suất sàn đã được nới rộng từ 0,05%/tháng tức là 0,6%/năm (tháng 3/2003) lên 2,4%/năm (tháng 6/2003) và từ tháng 9/2003 là 2%/năm phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo ra một khung lãi suất để cho các mức lãi suất liên ngân hàng biến động. Lãi suất thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khung lãi suất cho vay cầm cố và lãi suất tái chiết khấu. Từ khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, lãi suất thị trường có lúc tăng lên, rồi lại giảm do NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cho vay cầm cố và lãi suất tái chiết khấu, sửa đổi cơ chế cho vay ngắn hạn, chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN đối với NHTM để mở rộng khả năng tiếp cận kênh tái cấp vốn cho các NHTM, các NHTM Nhà Nước đã hiệp thương thoả thuận thống nhất việc giảm LSTG và khống chế chung mức trần LSTG, các NHTM khống chế tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng chung và trên cơ sở nguồn vốn huy động. Như vậy, lãi suất tái cấp vốn đã bước đầu có tác động đến lãi suất thị trường. Song tác động này còn hạn chế. Do qui mô, độ sâu của thị trường tiền tệ ở mức thấp và trong điều kiện dư thừa vốn khả dụng thì việc điều chỉnh giảm lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng chỉ có tác dụng phát tín hiệu nới lỏng tiền tệ để định hướng lãi suất thị trường, ít có tác động đến khối lượng tiền cung ứng và cung cầu vốn ngắn hạn trên thị trường. Dầu vậy, việc thường xuyên điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn căn cứ vào mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ để hoàn thiện khung lãi suất chỉ đạo của NHNN vẫn rất cần thiết để lãi suất tái cấp vốn phát huy tác động hiệu ứng của nó. Năm 2008 là năm thị trường ngân hàng tài chính nước ta có nhiều biến động, và Ngân hàng nhà nước đã có những động thái mạnh trong điều hành để tác động vào thị trường. Những tháng đầu năm 2008, các ngân hàng thương mại, nhất là khối ngân hàng cổ phần đã cùng nhau xô vào những cuộc chạy đua huy động vốn với các mức lãi suất được điều chỉnh tăng mỗi ngày, thậm chí ở một số ngân hàng, lãi suất được điều chỉnh tăng vài lần trong ngày.Các phòng giao dịch của các ngân hàng luôn đông nghẹt khách đến gửi tiền vì lãi suất huy động của các ngân hàng đang từ 9% nhanh chóng tăng lên 18% rồi có lúc còn lên đến 20%. Lãi suất huy động tăng kéo theo lãi suất cho vay tăng, gây khó khăn cho doanh nghiệp – tới mức có những doanh nghiệp mang cả vốn gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất. Trong khi sự tăng trưởng của nền kinh tế còn đang hạn hẹp mà đồng vốn của doanh nghiệp không được đưa vào sản xuất kinh doanh mà lại được gửi vào trong ngân hàng để hưởng lãi thì quả là không ổn. Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời đưa ra quyết định trần lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại chỉ được phép ở mức 150% mức lãi suất cơ bản (theo quy định của Luật Dân sự) Nhưng có thời điểm với lãi suất vốn vay ở mức trần - cho dù được Ngân hàng nhà nước khống chế ở 21%/năm nhưng thực tế thì lại cao hơn thế bởi những khoản phí kèm theo do các ngân hàng thương mại tự đặt ra, thì khó có ngành sản xuất kinh doanh nào kham nổi. Cũng có thể hiểu một phần nguyên nhân là các ngân hàng thương mại buộc phải đứng ở tình thế đó, khi lượng vốn bị thắt chặt bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, phải mua tín phiếu bắt buộc, và trước đó phải điều hoà mức cho vay đầu tư chứng khoán về tỷ lệ theo quy định của NHNN và còn phải giữ khách hàng, giữ tên tuổi trên thị trường... Cuộc đua tranh huy động vốn với lãi suất cao cứ thế được đẩy lên và ngay cả khi các ngân hàng đã cam kết trong Hiệp hội của mình rằng chỉ giữ lãi suất ở mức nào đấy thôi thì chính mỗi thành viên ngân hàng ấy lại lẳng lặng phá vỡ cam kết của mình. Khi từng tháng từng quý trôi qua, tốc độ lạm phát liên tục tăng, các chính sách điều hành của NHNN đã linh hoạt tuỳ vào mục tiêu của nền kinh tế trong từng thời gian, thời điểm để có những biện pháp thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ. Ngay trong những ngày cuối năm 2008, khi chỉ còn mấy ngày nữa là kết thúc năm tài chính của nền kinh tế, cũng là kết thúc một năm đầy những biến động không những của nền kinh tế thế giới mà còn đầy biến động của nền kinh tế đất nước, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu vẫn kịp đưa ra quyết định điều chỉnh giảm hàng loạt lãi suất cơ bản. Chỉ trong vòng hơn 2 tháng (T11, T12/2008), NHNN đã 5 lần giảm lãi suất cơ bản cùng hàng loạt lãi suất khác và 4 lần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại. Vào thời điểm cao nhất trong năm, lãi suất cơ bản là 14%/năm, tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền đồng Việt Nam là 11%/năm, còn hiện nay lãi suất cơ bản đã về mức 8,5% và tỷ lệ dự trữ bắt buộc chỉ còn 5%. Những quyết định điều chỉnh liên tiếp của Ngân hàng nhà nước và các mức lãi suất chênh lệch khá lớn ấy cho thấy lĩnh vực ngân hàng tài chính năm nay đầy biến động, căng thẳng, phức tạp nhưng cũng rất linh hoạt. 2.2. Những kết quả đạt được Những biện pháp của Chính phủ và sự điều hành của ngân hàng nhà nước đã dần tác động đến thị trường và nền kinh tế, lạm phát dần được khống chế, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng thậm chí còn ở mức âm. Ngân hàng Nhà nước liên tiếp đưa ra các quyết định nới lỏng chính sách tiền tệ. Trong khoảng từ tháng 11- tháng 12, dưới tác động của các biện pháp ấy, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại hạ rất nhanh, mở cơ hội để các doan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6112.doc
Tài liệu liên quan