Đề tài Thực trạng đô la hoá ở Việt Nam – Nguyên nhân - Giải pháp

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

I - ĐÔ LA HOÁ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1- Khái niệm đô la hoá

2- Nguồn gốc của hiện tượng đô la hoá

3- Tiêu chí phân loại đô la hoá

4- Nguyên nhân hiện tượng đô la hoá

5- Những tác động của đô la hoá

II - THỰC TRẠNG ĐÔ LA HOÁ Ở VIỆT NAM – NGUYÊN NHÂN - GIẢI PHÁP

1- Đôi nét về quá trình đô la hoá ở Việt Nam từ những năm 80 đến nay

2- Đô la hoá ở Việt Nam xảy ra dưới hình thức nào?

2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đô la hóa tiền gửi

2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đô la hoá cho vay

3- Nhận định vấn đề

4- Tác động của đô la hoá đối với nền kinh tế ở nước ta

5- Giải pháp khắc phục

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1

 

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đô la hoá ở Việt Nam – Nguyên nhân - Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sát với tỉ giá trên thị trường phi chính thức , các hoạt động càng có động cơ chuyển từ thị trường phi chính thức “bất hợp pháp” sang thị trường chính thức “hợp pháp” . - Mức độ hội nhập quốc tế ngày một rộng hơn – tạo uy tín lớn trên thế giới . Các nước thực hiện quá trình đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ , khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế . Hơn nữa khi một nền kinh tế bị đô la hoá hoàn toàn thì NHTƯ sẽ không còn có khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát , đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt , kỉ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt . Do vậy các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn . Bên cạnh đó, với một lượng lớn ngoại tệ gửi tại ngân hàng ,các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ , qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài và tăng cường khả năng kiểm soát của NHTƯ đối với luồng ngoại tệ . Đồng thời các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại , thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế . Tuy nhiên thực tiễn cho thấy tất cả những lợi thế trên chỉ có ý nghĩa nhất định đối với một quốc gia rất nhỏ , mà phần lớn các giao dịch vãng lai và giao dịch tài khoản vốn phụ thuộc vào quốc gia có đồng đô la . Đô la hoá cũng bao hàm nhiều tác động tiêu cực: Trong một nền kinh tế bị đô la hoá (chính thức hay không chính thức) thì việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ sẽ không thể độc lập . - Đối với chính sách tài khoá: + Đô la hoá làm yếu kém hoat động và hiệu quả của chính sách tài khoá: Nó hạ thấp doanh thu từ phát hành tiền và làm trầm trọng hơn tác động lạm phát tới việc tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua hệ thống ngân hàng (ví du như ở Argentina, những năm sau khi tiến hành đô la hoá ,doanh thu từ phát hành tiền giảm 0,3% GDP) .Đô la hoá cũng cho phép một bộ phận nhất định các hoạt đông kinh tế chốn thuế .Đô la hoá cũng làm yếu kém hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước xét về cả khả năng của nhà nước tạo lợi nhuận cũng như đóng góp cho ngân sách. + Chi phí lớn trong việc thu hồi nội tệ và đưa ngoại tệ vào lưu thông : Các nước thực hiện đô la hoá chính thức cần phải có lượng ngoại tệ đủ để thay thế số nội tệ đang lưu thông . Nghiên cứu cuả Fisher năm1982 cho thấy chi phí trung bình đối với các nước tiến hành đô la hoá chính thức vào nhưngx năm 1970 khoảng 4-5% GDP. - Đối với chính sách tiền tệ : + Đô la hoá làm giảm hiệu quả kiểm soát tiền tệ . Đô la hoá không chính thức có thể khiến cho cầu về nội tệ không ổn định . Giả sử một nguyên nhân nào đó tác động đến tâm lý khiến mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể lamf cho dồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát . Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ , những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (chính là hoạt động đầu cơ tỷ giá) . Những thay đổi này sẽ gặp khó khăn cho NHTƯ trong việc đặt mục tiêu cung ứng tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng . Cụ thể là , trong điều kiện đô la hoá sẽ rất khó khăn cho việc dự báo tổng phương tiện thanh toán . Qua đó , việc quyết định tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời . Những cố gắng của NHTƯ trong việc khuyến khích(kìm hãm) tổng cầu thông qua tăng (giảm) tín dụng cũng sẽ ít hiệu quả,do sự thay đổi về lãi suất nước ngoài sẽ trực tiếp tác động đến các quyết định phân bổ tài sản cuả những người giữ USD . Nói cách khác những thay đổi lãi suất nước ngoài sẽ tác động đến tổng cầu nội địa vì khi lãi suất nước ngoài tăng (giảm) người giữ đô la sẽ có xu hướng thu hẹp (mở rộng ) tiêu dùng và đầu tư . Như vậy việc thi hành chính sách lãi suất thấp trong trường hợp kinh tế suy thái không nhất thiết khuyến khích đầu tư mà có thể làm nảy sinh tâm lý chuyển đổi sang USD nhằm bảo tồn gía trị . Đặc biệt đối với những nước đô la hoá chính thức thì chính sách tiền tệvà chính sách lãi suất của đồng tiền lúc này sẽ được quyết định ở Mỹ , trong khi một nước đang phát triển bị đô la hoá chính thức với một nước phát triển như Mỹ lại không có những chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau . Do đó nếu có xảy ra một quá trình điều chỉnh cho phù hợp thì quá trình này cũng phải kéo dài rất nhiều năm . Sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. Cuối cùng, với doanh thu thuế lạm phát thấp hơn và những tác động bất lợi của đô la hoá đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước khiến cho chính sách tiền tệ, ở một mức độ nào đó phải cung cấp những nhu cầu tài chính lớn hơn cần thiết cho khu vực nhà nước. + Đô la hóa cũng làm giảm hiệu lực của chính sách tỷ giá: Đô la hoá tác động đến cơ chế truỷền dẫn của tỷ giá hối đoái . Tác động khuyếch đại của phá giá tiền tệ sẽ trở nên yếu kém do phá giá tiền tệ chỉ tác động đến một bộ phận nhỏ hơn tài sản có tính thanh khoản. Sự yếu kém của chính sách tỷ giá xuất hiện bất kể có tồn tại hay không chênh lệch trên thị trường phi chính thức so với thị trường chính thức. Bên cạnh đó, nếu mặt bằng giá cả trong nước tăng nhanh hơn ở Mỹ thì hệ quả đồng đô la sẽ tăng giá trị thực, khả năng cạnh tranh so với Mỹ (và các nước còn lại trên thế giới giảm sút). Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế thực hiện phá giá đồng tiền thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. Điều này đã xảy ra trong năm 1999 , khi Brazin thực hiện phá giá mạnh đồng Real và hệ quả là hàng xuất khẩu của Achentina sang Brazin đã giảm đáng kể và hàng hoá của Brazin lại có khả năng cạnh tranh hơn một cách rõ rệt tại Achentina. Rõ ràng lợi thế của việc tiếp nhận đồng đô la là có giá trị ổn định chỉ thực có nếu như Mỹ là đối tác thương mại quan trọng nhất . Chừng nào không có được điều kiện này thì luôn luôn xuất hiện nguy cơ sự lên giá của đồng đô la so với đồng EURO, đồng JPYvà các đồng tiền khác sẽ làm giảm sút khả năng cạnh tranh của xuất khẩu trong nước. +Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi NHTƯ và chức năng của nó là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Ví dụ, mặc dù hiện nay các ngân hàng Việt Nam chỉ có vốn tự có thấp , song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của nhà nước đối với các khoản tiền gửi này. Điều này có thể làm được với VND nhưng không thể áp dụng được với USD. Khu vực ngân hàng trở nên bất ổn hơn với những trường hợp NHTM bị phá sản và đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của NHTƯ bị mất. II-THựC TRạNG ĐÔ LA HóA ở VIệT NAM – NGUYÊN NHÂN Và GIảI PHáP: 1. Đôi nét khái quát về quá trình đô la hoá ở Việt Nam từ những năm 80 đến nay: Trên đây là những lý luận chung nhất về đô la hoá nền kinh tế , bây giờ chúng ta sẽ vận dụng những lý luận chung đó để đối chiếu vào thực tiễn ở Việt Nam xem tình trạng này ở Việt Nam là do đâu, tác động như thế nào đến nền kinh tế, đến việc đưa ra những giải pháp khắc phục kịp thời. Trước tiên,ta thấy một đặc điểm nổi bật của thị trường ngoại hối Việt Nam là sự tồn tại của thị trường ngoại hối không chính thức và hiện tượng đô la hoá ngày càng gia tăng. Để đưa ra những nhận xét chung nhất này ta xét đôi nét khái quát nhất về quá trình đô la hoá ở nước ta từ những năm 80 trở lại đây. Việc lưu hành và sử dụng đô la Mỹ đã xuất hiện ngay từ những năm 80, đô la Mỹ đã được sử dụng rộng rãi gần như một đồng tiền pháp định thứ hai . Nguyên nhân cơ bản nhất trong thời gian này do những yếu kém của nền kinh tế và sự bất ổn của đồng Việt Nam(lạm phát phi mãn như năm 1986 lạm phát 774,7%, 1987: 231,8%, 1988: 293,8%), việc thực hiện cải cách giá-lương-tiền bị thất bại(năm 1985), sự đổ vỡ của một số tổ chức tín dụng, chính sách đa tỷ giá,... đã làm cho tình trạng đô la hoá tăng lên. Tuy nhiên cho đến nay khi mà Việt Nam đã đạt được những thành tựu về kinh tế vĩ mô, đã thành công trong việc duy trì một đồng tiền tương đối ổn định về giá trị cả đối nội cũng như đối ngoại, thế nhưng tình trạng đô la hoá vẫn tiếp tục tăng? Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta nên xem xét nền kinh tế nước ta hiện tượng đô la hoá là đô la hoá tiền gửi hay tiền vay hoặc cả hai. Từ đó đưa ra những nhận định góp phần làm sáng tỏ thêm mức độ đô la hoá ở nước ta đang ở tầm nào. 2. Đô la hoá ở Việt Nam xảy ra dưới hình thức nào? 2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đô la hóa tiền gửi Đô la hóa diễn ra được đánh giá qua các chỉ tiêu tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán , hoặc tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ so với tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng... Có thể nói, dư âm của lạm phát cao trong thời gian cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân cư nên những người sở hữu khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ không dại gì mà chuyển đổi sang tiết kiệm bằng VND, giá trị của đồng nội tệ giảm theo xu hướng thời gian khiến cho người tiết kiệm có khuynh hướng phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng cách lựa chọn hình thức tiết kiệm bằng ngoại tệ đặc biệt là đô la Mỹ. Thêm vào đó , lãi suất tiết kiệm USD tăng cao trong năm 2000 càng gia tăng mức độ đô la hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, tỷ lệ lợi tức trên 1 đồng ngoại tệ gửi tại ngân hàng lớn hơn nhiều so với 1 đồng nội tệ đã làm thay đổi việc lựa chọn tài sản tiết kiệm. a - Bảng 1: Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống ngân hàng Đơn vị:% 1994 1995 1996 1997 1998 1999 10/2000 1.Ngoại tệ 39,2 33,5 31,7 33,2 33,6 39,1 45,3 2.VND 60,8 66,5 68,3 66,8 66,4 60,9 54,7 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN các năm, và thời báo ngân hàng số 78, năm 2000 Nhận xét: - Nhìn vào bảng 1 nhận thấy mức độ đô la hóa đã trở lại năm 1999, sau khi giảm bớt trong giai đoạn 1995-1998, thực sự bùng nổ trở lại năm 2000. b - Bảng cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trên M2. Đơn vị % 12/1991 3/1995 30/9/2001 1.Ngoại tệ 41,15 19,65 33,63 2.VND 58,85 80,35 66,37 Tổng 100 100 100 Nhận xét: Tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ /M2 đạt mức cao nhất 12/1991 rồi giảm dần vào tháng 3/1995 sau đó có xu hướng tăng dần vào30/9/2001 - Đô la hoá không chỉ diễn ra ở khu vực tiền gửi tiết kiệm của dân cư , mà còn xuất hiện ở các tổ chức kinh tế xã hội . Tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội tăng mạnh không phải là do lãi suất huy động USD trong năm 2000 tăng cao,bởi lãi suất USD ngân hàng trả cho các tổ chức kinh tế gửi tại ngân hàng mình bị ràng buộc bởi trần lãi suất quy định của NHNN(theo quyết định số309/1999/QD-NHNN quy định chi tiết trần lãi suất tiền gửi USD của tổ chức kinh tế xã hội tại các ngân hàng với không kì hạn là 0,5%/1năm; kỳ hạn từ 6 tháng trở xuống là 2,5%/1năm ;và kỳ hạn trên 6 tháng không quá 3%/1năm). Nguyên nhân chính làm tăng tiền gửi của các tổ chức kinh tế là do các công ty có nguồn ngoại tệ chưa giải ngân cho các dự án tạm thời gửi tại ngân hàng hay ngoại tệ thu được từ xuất khẩu tăng trong năm 2000 nhưng công ty lại không bán mà giữ lại do tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng cao . Như vậy lãi suất ngoại tệ doanh nghiệp thực sự được hưởng sau khi điều chỉnh sự biến đổi tỷ giá sẽ hấp dẫn hơn gửi bằngVND.Còn trong trường hợp thiếu vốnVND,doanh nghiệp sẽ vay của nhân hàng với lãi suất thật hấp dẫn vì cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một khốc liệt hơn . Đứng trước tình trạng đô la hoá chưa có dấu hiệu thuyên giảm đáng kể NHNN đã can thiệp bằng một số công cụ . Sự can thiệp này một phần đã ngăn chặn làn sóng tăng lãi suất huy động tiết kiệm USD của các NHTM. Một yếu tố khách quan bên ngoài cũng làm giảm bớt tình hình là việc lãi suất USD trên thị trường quốc tế bắt đầu giảm từ cuối tháng 11/2000 do dự báo nền kinh tế Mỹ suy yếu. Công cụ can thiệp đầu tiên của NHNN là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc(GTDB) bằng ngoại tệ từ 5% lên 8% cho kỳ dự trữ tháng 11/2000 . Tuy nhiên sự can thiệp lần này chỉ tác động đến một số ngân hàng và mức lãi suất giảm cũng không đáng kể (tại thời điểm tháng 11/2000 các NHTM vẫn duy trì mức lãi suất huy động tiết kiệm cao , cụ thể cho kỳ hạn 6 tháng ,12 tháng của NHĐT là 5,3%/năm và5,7%/năm; NH á châu:5,4%/năm và5,8%/năm”duy chỉ có NHNT phản ứng nhiều nhất đối với sự can thiệp của NHNN”. Đến thời diểm cuối tháng3/2000, mức huy động các kỳ hạn trên của hai ngân hàng tương ứng là 3,8%/năm và 4,25%/năm; 3,85%/năm và 4,25%/ năm). Can thiệp lần thứ hai vào tháng 12/2000 tăng từ 8% lên tới 12% , đã thực sự gây cú sốc cho các NHTM, kết quả, đồng loạt các ngân hàng hạ lãi suất huy động tiết kiệm USD. Tuy nhiên, sự can thiệp lần thứ hai thực sự mới hữu hiệu khi mà cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất chủ đạo xuống 6% vào ngày 3/1/2001, đến 31/1/2001 giảm tiếp 0,5%. Tại phiên họp của uỷ ban tiền tệ ngày 20/3/2001, Fed cắt giảm tiếp lãi suất chủ đạo xuống mức 5%. Can thiệp lần thứ ba vào tháng 4/2001, tăng tỉ lệ DTBB từ 12%lên 15%. Ngày 18/4và 15/5 vừa qua , Fed đã 2 lần nữa giảm mức lãi suất chủ đạo (mỗi lần 0,5%)xuống mức 4%. Như vậy, hàng loạt chuỗi biến cố xảy ra tác động tới hành vi điều chỉnh lãi suất của các NHTM. Đến thời điểm cuối quý I/2001, lãi suất huy động tiết kiệm bằng USD chỉ ở mức 4,15-4,25%/năm. Kết hợp với biện pháp tăng tỉ lệ DTBB nhằm điều chỉnh lãi xuất huy động tiết kiệm USD của các ngân hàng thương mại, ngày 28/3/2001, NHNN đã giáng một đòn mạnh vào các doanh nghiệp thiếu vốn quay vòng nhưng lại không muốn bán ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu hoặc có ý đồ đầu cơ ngoại tệ. Theo quyết định số 238/2001/QD-NHNN, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của pháp nhân tại ngân hàng là 0,1%/năm, kỳ hạn đến 6 tháng là 1,5%/năm , kỳ hạn trên 6 tháng là 2%/ năm . Với các mức lãi suất này, kết hợp với tỷ giá tương đối ổn định trong thời gian đầu 2001 sẽ khuyến khích các doanh nghiệp kết hối ngoại tệ nhiều hơn tại ngân hàng, kết quả, khan hiếm ngoại tệ giảm theo. Một vấn đề khác có thể nhận thấy rằng trong môi trường tỷ giá tương đối ổn định, lãi suất VND tương đối cao, việc hạ lãi suất tiền gửi bằng USD của tổ chức kinh tế –xã hội tại NHTM nhằm khuyến khích các doanh nghiệp giải toả nguồn ngoại tệ đang găm giữ. Trên cơ sở sự ngang bằng lãi suất, một điều dễ nhận thấy lãi suất VNDvà USD đã được điều chỉnh cân bằng, đặc biệt sau khi NHNN điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân tại các tổ chức tín dụng thì phần lợi nghiêng về VND. Cụ thể , với tỷ giá VND/USD chỉ tăng 0,225%trong quý I/2001, thì chênh giữa lãi suất VND so với USD sau khi có điều chỉnh tỷ giá là + 0,47%. Gỉa sử tỷ giá của quý II/2001 tăng tương đương quý I/2001 , lãi suất tiền gửiVND không biến động , thì chênh lệch được nới rộng tới + 0,72%(giả sử , khi ngân hàng huy động tiền gửi của TCKT cho kỳ hạn đến 6 tháng bằng VND ở mức 0,45%/ tháng , dựa vào cách tínhlãi suất đơn và trên cơ sở phương trình lãi suất ngang bằng :i(vnd)=i(usd)+z , chúng ta nhận được kết quả sau :0,45%/tháng*3 tháng –1/4*2,5%/năm – 0,255%= 0,47%. Theo quy định mới về lãi suất tiền gửi của pháp nhân bằng USD thì chênh lệch này được nới rộng ra là :0,45%/tháng*3 tháng –1/4*1,5%/năm – 0,255%= 0,72%).Như vậy, rõ ràng các doanh nghiệp có lợi hơn khi giữ bằng VND. Với chiều hướng này , các doanh nghiệp sẽ kết hối ngoại tệ nhiều hơn. Cũng xem trên mức ngang giá giữa lãi suất tiết kiệm VND và USD sau khi điều chỉnh tỉ giá thì thấy rằng công chúng đổ xô chuyển đổi tiết kiệm sang VND trong năm 2000 là quyết định đúng đắn, bởi tỷ lệ lợi tức nếu đầu tư bằng USD cao hơn nhiều so với bằng VND. Nhưng trong năm 2001 , hiện tượng này sẽ ngừng lại bởi NHNN sẵn sàng can thiệp sâu hơn nếu xu hướng đô la hoá lại tăng cao. Đánh giá viếc ngân hàng trung ương sử dụng hai công cụ can thiệp , NHNN đã ngăn chặn được làn sóng công chúng chuyển đổi hình thức tiết kiệm cũng như giảm bớt hiện tượng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu. Mặt khác, các giải pháp này không tạo ra tác động ngược đối với việc khuýến khích lượng kiều hối chuyển về nước, nhưng lại có lợi là ngăn chặn được thị trường ngoại tệ ngầm có cơ hội phát triển và gây lũng đoạn... Tuy nhiên, tỷ giá ổn định; lãi suất tiết kiệm bằng USD thấp , lạm phát ở mức thấp cũng vẫn chưa làm chuyển biến thực sự hành vi lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ của công chúng trong thời gian qua . 2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đô la hoá cho vay: Trong hệ thống ngân hàng về cơ bản ,các NHTMcó thể sử dụng khối lượng USD huy động được để :cấp tín dụng trong nước bằng USD ; bán USD lấy nội tệ, gửi USD tại các ngân hàng nước ngoài. Khi tỷ lệ USD trong tổng nguồn vốn (bên nợ ) của ngân hàng tăng lên thì thông thường bên sử dụng vốn (bên có ) của các ngân hàng, tỷ lệ USD cũng tăng lên ; do vậy , cũng có thể nhận thấy hiện tượng đô la hóa xảy ra ở bên tài sản Có của hệ thống ngân hàng. Có một thực tế là ở các quốc gia mà người dân được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ và ngân hàng được cung ứng tín dụng bằng số ngoại tệ huy động được thì hiện tượng đô la hoá càng bị khuyếch đại. Vì song song với đồng bản tệ , hệ thống ngân hàng đã thực hiện việc mở rộng khối lượng ngoại tệ có trong nền kinh tế thông qua khả năng tạo tiền của mình. Xu hướng chung của nền kinh tế đô la hóa, các ngân hàng cho vay bằng USD nhiều hơn nếu rủi ro phá giá cao hơn ; ngược lại tín dụng bằng nội tệ tăng cao. Trên cơ sở lý thuyết là thế, vậy trường hợp đô la hoá ở Việt Nam có nằm ngoài phạm vi này hay không? a- Bảng 3: Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng Đơn vị:% 1994 1995 1995 1997 1998 1999 10/2000 1.ngoại tệ 38,6 38,7 36,6 31,2 25,2 22,6 18,6 2. VND 61,4 61,3 63,4 68,8 74,8 77,4 81,4 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 1+2/2000 Nhận xét: Nhìn vào bảng 3 thấy rằng cho vay ngoại tệ của hệ thống ngân hàng đến năm 2000 chỉ chiếm chưa đầy 20% tổng dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Có thể nói đô la hoá các khoản vay ở mức trung bình. Tại sao các doanh nghiệp lại không mặn mà với việc sử dụng vốn ngoại tệ? Như trên ta đã phân tích , doanh nghiệp vay bằng ngoại tệ vừa phải chịu lãi suất USD khá cao so với VND vừa phải gánh thêm phần giảm giá của đồng nội tệ. Nừu trong năm 2000 , khách hàng vay ngoại tệ với lãi suất cực kỳ ưu đãi mức 5,8%-6,6%/năm thì lãi suất sau điều chỉnh mức độ giảm giá của VND so với USD đã lên đến 9,2-9,4%/năm . Trong khi đó, vay bằng VND các doanh nghiệp chỉ phải trả ở mức 8-8,5%/năm. Hơn nữa, doanh nghiệp vay ngoại tệ chủ yếu cho mục đích nhập khẩu, nguồn thu lại chủ yếu bằng VND.Trên cơ sở đã phân tích , doanh nghiệp thấy vay bằng VND sau đó chuyển sang mua ngoại tệ nhập khẩu sẽ có lợi hơn. Ngoại trừ doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ để cân đối cho khoản vay bằng ngoại tệ. Tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng tiền gửi tăng lên không phù hợp với tỷ trọng gia tăng của tín dụng bằng ngoại tệ trong tổng tín dụng ngân hàng,do đó , chênh lệch giữa lượng vốn huyđộng được và cho vay khách hàng được nới rộng ra.Đáng ra thì một lượng lớn đô la Mỹ được gửi trong hệ thống ngân hàng, tạo thành nguồn vốn ngoại tệ lớn để cho vay và đầu tư cho nền kinh tế , hạn chế việc phải đi vay nước ngoài.Song, do trong điều kiện cho vay gặp khó khăn ,để sử dụng phần vốn ngoại tệ dư thừa, mà lãi suất trên thị trường quố tế lại tăng cao, các ngân hàng chỉ còn cách lựa chọn danh mục vốn đầu tư là mua trái phiếu chính phủ của các nước phát hành bằng ngoại tệ hay gửi trên thị trường tiền tệ quốc tế.Đây là nguyên nhân giải thích tại sao tiền gửi tại nước ngoài cảu các ngân hàng tăng lên. Trong chuyện này , rõ ràng là người dân cũng được hưởng lợi từ lãi suất hơn là cất trữ trong nhà,còn các ngân hàng cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi . Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. Theo IMF, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện nay là 3.297 triệu USD, tương đương với 9,7 tuần nhập khẩu ,có thêm nguồn ngoại tệ khác là gần 2,5 tỷ USD của các ngân hàng ở nước ngoài. Còn theo số liệu công bố của ADB, thì năm 2000 dự trữ ngoại tệ chính thức củaViệt Nam là 3.9 tỷ USD, tương đương với 13,9 tuần nhập khẩu(năm 1999 là 2,95 tỷ USD ,tương đương 12,5 tuần nhập khẩu)ADB cũng dự đoán,đến hết năm 2001 , con số này của Việt Nam sẽ tăng lên là 4,66 tỷ USD và 14 tuần nhập khẩu. Qua phân tích ta phải thấy rằng :đó chỉ là những cái lợi trước mắt, bởi vì trong nền kinh tế của ta khi mà còn phải vay ngoại tệ để phát triển kinh tế-xã hội thì một nghịch lý lại xảy ra là bơm ngoại tệ ra nước ngoài , nhưng nhìn nhận vấn đề thì ta thấy một điều , sự đào hối không phải là do các ngân hàng muốn đầu tư vào trong nước mà chính khách hàng từ chối vay bằng ngoại tệ. Trong giai đoạn 1994-1997 cho vay bằng ngoại tệ vượt khả năng huy động vốn các ngân hàng, do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp phần thiếu hụt này. Giai đoạn 1998-2000 có xu hướng ngược lại, đầu tư tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động. Giải toả phần vốn huy động ngoại tệ dư thừa, các ngân hàng kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế hay đầu tư vào trái phiếu chính phủ. b - Bảng 4: Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống ngân hàng Đơn vị:% Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tỷtrọng 135 148 141 104 73 47 33 Qua phân tích ở trên ta có thể khái quát lên một vài những điểm lớn sau về tình trạng đô la hoá ở nước ta: Những nguyên nhân cơ bản nhất gây ra hiện tượng đô la hoá: + Nguyên nhân sâu xa: là do tính ổn định của đồng tiền chưa cao, năng lực kinh tế Việt Nam chưa phát triển , hệ thống tài chính yếu kém và rủi ro tài chính cao. + Nguyên nhân trực tiếp: * Biến động tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong những năm qua đặc biệt là năm 1999 và 2000 chịu ảnh hưởng của các tác động bên ngoài như sự mở rộng xu hướng toàn cầu hoá từ những năm 1990, sự tăng trưởng cao và ổn định nền kinh tế Mỹ đã làm cho đồng đô la Mỹ ngày càng có sức mạnh và có tính hấp dẫn hơn so với các đồng tiền khác, trong đó có cả đồng Việt Nam. Thêm vào đó, từ năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu á xảy ra đã có tác động nhất định làm giảm gía trị của đồng Việt Nam và ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế trong nước. * Tình trạng buôn lậu , nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển và quản lý lỏng lẻo. Tình trạng các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế ,các cửa hàng kinh doanh, cửa hiệu vàng bạc... bán hàng thu bằng ngoại tệ, còn tuỳ tiện , diễn ra phổ biến * Thu nhập của tầng lớp dân cư còn thấp , tâm lý tiết kiệm và để giành , lo xa cho cuộc sống tĩnh dưỡng tuổi già, lo nơi ăn chốn ở, lo cho con cái học hành còn lớn , nhất là thói quen cất giữ vàng trong thời bao cấp vẫn còn in đậm trong mọi người dân cho đến ngaỳ nay. Do đó, trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế hiện nay vàng giảm giá và không được ưa chuộng , cộng với những lo sợ về biến động tỷ giá, mức độ mất giá của đồng Việt Nam... nên người dân chỉ còn cách lựa chọn tối ưu là đô la Mỹ. * Thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư tăng lên và mở rộng. Đó là những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam, tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh khách sạn mini, kinh doanh du lịch, tiền của người Việt Nam ở nước ngoài, người đi xuất khẩu lao động hay đi học tập,tiền kiều hối gưỉ về , tiền của người Việt Nam đi hội thảo, học tập và làm việc ngắn ngày ở nước ngoài mang về. Thực trạng này ở nước ta được thể hiện qua các con số thống kê đầy ý nghĩa sau: Hiện nay có tới hơn 2 triệu khách quốc tế vào Việt Nam mỗi năm (ước tính năm 2001), trên 2,5 triệu Việt kiều (theo uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài thì hiện đang có trên 3 triệu người Việt Nam ở các nước trên thế giới , mỗi năm chuyển về nước không dưới 2 tỷ USD) . Điều hiển nhiên là chỉ riêng con số kiều hối theo thống kê của hải quan, các công ty dịch vụ kiều hối và các ngân hàng được nêu dưới đây chắc chắn không thể là số lượng đầy đủ. Số liệu thống kê của NHNNcho hay, lượng kiều hối chuyển về nước các năm gần đây như sau: Đơn vị: triệu USD 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 35 136,6 140,9 249,4 284,9 468,9 400 950 1200 1757 Trong cơ cấu các nguồn kiều hối năm 2000 thì chuyể qua các ngân hàng là 950 triệu USD, chiếm 54,6% , chuyển qua các doanh nghiệp :165 triệu USD , chiếm 9,3%, chuyển qua bưu điện :32 triệu USD ,mang trực tiếp có khai báo cho hải quan:610 triệu USD, chiếm 34,7%. Hiện nay, trong cả nước có 62 ngân hàng và 43 tổ chức kinh tế làm dịch vụ kiều hối. * Đô la Mỹ lên giá so với đồng tiền Việt Nam , lãi suất tiền gửi đô la Mỹ tăng cao, còn lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam giảm thấp, trong nhiều tháng của năm 2000, lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam kỳ hạn 12 tháng là 7,2%/năm , còn lãi suất tiền gửi đô la Mỹ cùng kỳ hạn là 5,6-5,8%. Nhưng trong cả 12 tháng của năm 2000 ,đồng Việt Nam đã giảm giá tới gần 4%so với đồng đô la Mỹ . Như vậy, nếu như gửi USDvẫn có lợi hơn tới 3,4%/năm. * Người Việt Nam đi du lich nước ngoài gia tăng nhanh chóng trong hơn một năm qua . Các công ty du lịch đều niêm yết, thông báo,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33696.doc
Tài liệu liên quan