MỤC LỤC
A.Phần mở đầu. Trang 3
B.Nội dung. Trang 4
Chương I. Một số vấn đề lý luận. Trang 4
I. Khái niệm, phân loại đôla hoá. Trang 4
1. Khái niệm. Trang 4
2. Phân loại. Trang 5
II. Một số tiêu thức lượng hoá mức độ đôla hoá. Trang 8
III. Nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế bị đôla hoá. Trang 10
1. Nguyên nhân khách quan. Trang 10
2. Nguyên nhân chủ quan. Trang 11
IV. Các tác động của đôla hoá. Trang 13
1. Tác động tích cực. Trang 13
2. Tác động tiêu cực. Trang 14
Chương II. Thực trạng đôla hoá ở Việt Nam. Trang 17
I. Tình hình đôla hoá ở Việt Nam. Trang 17
1. Những con đường đôla Mỹ xâm nhập vào Việt Nam. Trang 17
2. Những biểu hiện của hiện tượng đôla hoá ở Việt Nam. Trang 18
II. Nguyên nhân của hiện tượng đôla hoá ở Việt Nam. Trang 22
1. Lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng. Trang 22
2. Sự gia tăng tỷ giá VND/USD. Trang 24
3. Sự yếu kém của đồng tiền Việt Nam. Trang 25
4. Tâm lý ưa chuộng đôla Mỹ của người dân. Trang 26
5. Một số nguyên nhân khác. Trang 26
III. Tác động của hiện tượng đôla hoá đối với Việt Nam. Trang 27
1. Tác động ngắn hạn. Trang 27
2. Tác động dài hạn. Trang 31
Chương III. Một số kiến nghị và giải pháp. Trang 34
I. Định hướng của Đảng và Nhà nước. Trang 34
II. Một số biện pháp nhằm hạn chế tình trạng đôla hoá ở nước ta. Trang 36
C. Kết luận Trang 39
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2628 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đôla hoá ở Việt Nam và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
guồn thu từ thuế để đối phó với tình trạng khẩn cấp của khu vực tài chính.
Đô la hoá mang lại sự hội nhập thị trường sâu sắc hơn và thêm nhiều cơ hội cho các nhà kinh doanh suất nhập khẩu, nhưng đồng thời cũng đặt họ trước những rủi ro lớn hơn. Đó chính là vấn đề cạnh tranh, vấn đề cạnh tranh càng trở nên khốc liệt khi sự hội nhập đó xuất phát từ đô la hoá. Mất khả năng phá giá tiền tệ là một bất lợi khác đối với các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Không có khả năng phá giá tiền tệ, các nhà kinh doanh mất đi một công cụ để thâm nhập, chiếm lĩnh hay làm chủ thị trường. Thêm vào đó, với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế, người kinh doanh xuất nhập khẩu không thể thoát ly khỏi nền kinh tế quốc gia để có thể không chịu những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế đó. Đồng thời do đặc thù của hoạt động xuất nhập khẩu, người kinh doanh xuất nhập khẩu không chỉ bị tác động của nền kinh tế trong nước mà cả nền kinh tế của các quốc gia khác một cách trực tiếp.Việc nhất thể hoá đồng tiền một cách tự phát như trường hợp đô la hoá khiến các quốc gia đô la hoá khó có thể có một cơ chế đủ mạnh để hỗ trợ lẫn nhau những lúc khó khăn, nhưng lại khiến các biến động tiêu cực ở từng quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến các quốc gia khác trong cùng một khu vực tiền tệ. Điều này đặt các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, cũng như những người kinh doanh tài chính tiền tệ ở các quốc gia này dưới những tác động kép ở cả ngay trong nước lẫn nước ngoài.
Như vậy ta có thể thấy, đô la hoá chỉ mang lại lợi ích cho các quốc gia có sự hội nhập toàn diện với Hoa Kỳ về thương mại và tài chính, có nghĩa là những nước có cơ cấu kinh tế giống Hoa Kỳ, chu kỳ kinh tế khớp với chu kỳ kinh tế của Hoa Kỳ với tỷ lệ lạm phát và lãi suất ở mức tương đương. Bên cạnh đó, các quốc gia này phải có quan hệ mật thiết về thương mại, đầu tư với Hoa Kỳ thì mới có thể khai thác tối đa những lợi ích của đô la hoá và nhờ vậy mà có thể bỏ qua những ảnh hưởng tiêu cực của nó, cũng như những rủi ro mà nó mang lại.
Riêng đối với các quốc gia hiện đang bị đô la hoá không chính thức, không nên nghĩ đén việc đô la hoá toàn bộ nền kinh tế mà nên chăng tìm phương pháp đối phó với đô la hoá trước khi quá muộn. Ta có thể thấy rằng đại bộ phận những nền kinh tế quan tâm đến vấn đề đô la hoá trong thời gian gần đây đều là những nước đã để đô la hoá không chính thức tràn lan đến mức không thể cứu vãn nổi. Đây là điều mà các nước khác nên tránh. Bởi suy cho cùng, nếu một quốc gia không thể đáp ứng được các tiêu chí đã nêu ở trên thì quốc gia đó không nên thực hiện đô la hoá. Không thể dự đoán trước phải mất bao nhiêu thời gian quốc gia đó mới được hưởng lợi từ đô la hoá, nhưng lại có nguy cơ phải đối mặt với những bất ổn không chỉ trong kinh tế mà còn trong cả chính trị- xã hội bởi sự phụ thuộc về kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự phụ thuộc về chính trị.
Chương II. Thực trạng đôla hoá ở Việt Nam
I- Tình hình đôla hoá ở Việt Nam.
1.Những con đường đôla Mỹ xâm nhập vào Việt Nam.
Thời kì trước năm 1975, đôla Mỹ tham gia vào nền kinh tế Việt Nam dưới dạng những khoản viện trợ của Chính phủ Mỹ cho chính quyền miền Nam Việt Nam.
Sau năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cuộc chiến tranh lạnh khiến thế giới chia thành hai cực, nửa này đóng cửa với nửa kia; vì vậy, ở Việt Nam, đồng đôla Mỹ không còn đóng một vai trò đáng kể.
Từ sau Đại hội Đảng 6 năm 1986, Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa nền kinh tế, đồng đôla Mỹ bắt đầu trở lại và ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong nền kinh tế Việt Nam.
Xét trên phương diện giao dịch thương mại, vai trò của đồng đô la Mỹ được thể hiện rất rõ ràng qua việc hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ ngày càng tăng. Từ năm 2000, khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được kí kết, Mỹ đã trở thành một bạn hàng quan trọng, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Năm 2000, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn thứ 6 của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu trên 730 triệu USD, chiếm 5,14% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong năm 2001, xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm 6,59% tổng kim ngạch xuất khẩu đưa Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam. Năm 2006, xuất khẩu sang Mỹ đạt 8 tỷ USD, chiếm 20,2% tổng kim ngạch xuất khẩu; năm 2007, con số này dự kiến sẽ là 10 tỷ USD. Như vậy, cho đến nay, Hoa Kỳ đã trở thành đầu bảng xuất khẩu của Việt Nam, vượt qua EU (6,8 tỷ USD), Nhật (5,2 tỷ USD).
Không chỉ trong giao dịch thương mại với Mỹ, mà trong các hoạt động kinh tế khác, các giao dịch với các quốc gia khác, đồng đôla cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Năm 2002, đồng đôla Mỹ chiếm 80% giao dịch ngoại thương của Việt Nam. Năm 2007, con số này là 89%, trong khi đồng euro chiếm 7%, đồng yên Nhật chiếm 3%, còn lại 1% cho các đồng tiền khác. Đôla Mỹ được sử dụng trong giao dịch với các nước châu Âu, Nhật Bản, ASEAN… Thêm vào đó, đại bộ phận các khoản vay nợ, viện trợ và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều được thực hiện bằng đôla Mỹ.
Xét trên phương diện đời sống dân cư, sự có mặt của đồng đô la ngày càng tăng lên. Thu nhập bằng đồng đôla của các tầng lớp dân cư tăng lên. Việt Nam gia nhập WTO đồng nghĩa với việc các công ty nước ngoài, người nước ngoài đến Việt Nam làm ăn, sinh sống, học tập, du lịch… tăng, họ sử dụng đôla Mỹ để trả lương, để thanh toán… Hơn nữa, nhằm thu hút nguồn ngoại tệ từ nước ngoài, trong những năm qua Chính phủ đã ban hành các văn bản: Quyết định số 78/2002/QĐ- TTg ngày 17/6/2002 về việc sửa đổi, bổ sung quyết định số 170/1999 về việc thu hút nguồn ngoại tệ kiều hối từ nước ngoài vào Việt Nam. Các chính sách trên cho phép người thụ hưởng được nhận kiều hối bằng ngoại tệ, được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại ngân hàng được rút ra cả gốc lẫn lãi bằng ngoại tệ, được sử dụng số ngoại tệ này chuyển ra nước ngoài. Ngoại tệ kiều hối không bị hạn chế về số lượng và không bị đánh thuế. Riêng nguồn kiều hối hàng năm đạt kim ngạch 2-3 tỷ USD. Đó là chưa kể những khoản kiều hối "chui", những khoản đôla nhập lậu, những vụ rửa tiền… mà Nhà nước ta chưa kiểm soát hết được.
Như vậy, bằng những con đường khác nhau, đôla Mỹ đã và đang thâm nhập sâu vào Việt Nam, cả trong hoạt động kinh tế lẫn đời sống dân cư. Điều này là một lẽ tất nhiên trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng và đôla Mỹ lại là đồng tiền chủ đạo của nền kinh tế thế giới.
2.Những biểu hiện của đôla hoá ở Việt Nam.
Phần này sẽ nêu lên mức độ đôla hoá ở Việt Nam cũng như những biểu hiện của hiện tượng đôla hoá trong dân cư và trong hệ thống ngân hàng.
2.1. Đôla hoá trong dân cư.
Trong đề án Nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam và khắc phục hiện tượng đôla hoá của nền kinh tế mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra, mặc dù NHNN không đưa ra được con số cập nhật về lượng ngoại tệ (chủ yếu là USD) đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng, nhưng một số nghiên cứu gần đây cho thấy, con số này đã có thời điểm đạt tới 1/3 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, và số lượng ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường lên tới 4-6 tỷ USD.
Như phần trên đã đề cập, đôla Mỹ có thể xâm nhập vào đời sống dân cư qua việc nhận lương, kiều hối, từ xuất khẩu tại chỗ như thu về du lịch, khách sạn, bán hàng cho khách nước ngoài đến du lịch tại nước ta…
Trong những năm trở lại đây, nhu cầu sử dụng đôla Mỹ trong thanh toán rất cao. Hàng năm, số người đi xuất khẩu lao động, đi du học, đi du lịch rất cao và họ rất cần đôla Mỹ để chi trả, thanh toán.
Không chỉ ở nước ngoài, mà trong nước, việc mua bán cũng được thực hiện bằng đôla Mỹ. Theo quy định về quản lý ngoại hối, chỉ có tổ chức, cá nhân được phép thu ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam mới được thông báo, quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, dạo một vòng ở những trung tâm thương mại lớn ở Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội, dễ dàng nhận thấy hầu hết các cửa hàng đều niêm yết giá hàng hoá và giao dịch mua bán bằng USD, nhất là những hàng hoá dịch vụ có giá trị lớn. Bất cứ người dân nào cũng có thể sử dụng ngoại tệ mọi lúc, mọi nơi một cách thoải mái. Đồng đôla Mỹ được sử dụng phổ biến để định giá và thanh toán trong các giao dịch mua bán; đặc biệt là các hàng hoá có giá trị lớn như ôtô, nhà cửa và các bất động sản khác, thậm chí ở các cửa hàng trang sức hay các khách sạn, các cửa hàng linh kiện máy tính. Vào bất kì cửa hàng máy tính nào trên phố Lê Thanh Nghị (Hà Nội), có thể thấy chỉ một chiếc USB cũng được niêm yết giá bằng đôla Mỹ. Bên cạnh đồng Việt Nam, đôla Mỹ cũng thực hiện chức năng đơn vị đo lường giá trị.
Thêm vào đó, người ta có thể dễ dàng mua bán đôla ở hầu hết các cửa hiệu kinh doanh vàng bạc. Thậm chí, muốn có một triệu USD tiền mặt, có thể tìm đến thị trường chợ đen (ví dụ phố Hà Trung - Hà Nội) để mua dễ như mua một mớ rau.
Nhìn chung, rất khó có thể đánh giá mức độ đôla hóa thông qua tỷ lệ giao dịch bằng đồng đôla trong đời sống dân cư. Tuy nhiên, có thể nhận ra rằng đôla Mỹ chủ yếu được sử dụng trong những giao dịch có giá trị lớn (đóng vai trò là phương tiện thanh toán). Ngoài ra, do lãi suất tiết kiệm bằng đồng đôla trong thời gian qua tăng cao hơn so với VNĐ và do tâm lý cất trữ ngoại tệ đề phòng rủi ro thì nhiều người dân sử dụng đôla Mỹ như một phương tiện cất trữ.
2.2.Đôla hoá trong lĩnh vực ngân hàng.
Những biểu hiện của đôla hoá được thể hiện rõ ràng nhất trong lĩnh vực ngân hàng. Dưới đây, ta xét trên hai nghiệp vụ: huy động và cho vay của các ngân hàng.
a. Đôla hoá trong lĩnh vực tiền gửi.
Nếu chỉ nhìn vào mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán thì ai cũng có thể hiểu tại Việt Nam, mức độ đôla hoá là khá cao. Nhưng về mặt học thuật, mức độ đôla hoá được đo bằng tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2). Theo quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), một quốc gia có tỷ lệ trên vượt mức 30% là bị đôla hoá trầm trọng.
Theo cách phân loại đã nêu ở phần trước, Việt Nam là nền kinh tế đôla hóa một phần trong đó hệ thống tiền tệ sử dụng song song cả VNĐ và USD.
Sự biến động mức đôla hoá ở Việt Nam:
Năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đôla, hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đôla Mỹ trong giao dịch buôn bán…bắt đầu được chú ý đến.
Đỉnh cao của mức độ đôla hoá tại Việt Nam là vào năm 1991 khi tỷ lệ FCD/M2 lên tới 41,2%, nguyên nhân là do giai đoạn trước đó, nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát phi mã khiến người dân mất lòng tin vào đồng nội tệ.
Đến năm 1992, tình trạng đôla hoá đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đôla Mỹ.
Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đôla hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Tỷ lệ FCD/M2 giảm xuống 22,9% năm 1997. Nhưng tiếp theo đó, cuộc khủng hoảng tài chính đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đôla hóa.
Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003 còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là 24% và trong thời gian gần đây đang dao động trong khoảng 25 - 30%.
Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đôla hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả. Người dân đã có niềm tin vào đồng nôi tệ nhiều hơn. Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối bằng đồng đôla thì không ngừng tăng lên. Nếu như năm 1995, chỉ có khoảng 1,5 tỷ USD tiền gửi từ khu vực dân cư thì đến năm 2006, con số này là 9 tỷ USD. Việc người dân ít "găm" đôla hơn cũng cho thấy niềm tin của họ với ngân hàng. Tuy tình trạng đôla hoá của nước ta hiện nay chỉ ở mức trung bình chứ không phải là "trầm trọng" nhưng cũng rất đáng quan tâm vì ở các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan, tỷ lệ này chỉ là 1-9%.
Bảng thống kê tỷ lệ tiền gửi bằng đồng đôla trên tổng phương tiện thanh toán (%)
Năm
Tỷ lệ %
1998
21,9
1999
24,6
2000
29,6
2001
30
2002
26,1
2003
21,3
2004
23,1
2005
22,3
Việc xác định tình trạng đôla hoá theo công thức FCD/M2 được đánh giá là khá chính xác ở những nước mà phần lớn giao dịch thanh toán đều thực hiện qua ngân hàng. Còn ở Việt Nam, nơi mà tỷ lệ sử dụng tiền mặt vẫn còn rất lớn, tỷ lệ FCD/M2 không phản ánh đầy đủ thực trạng đôla hoá trong toàn bộ nền kinh tế. Về phía các doanh nghiệp, trong một thời gian dài tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế vào các ngân hàng đã giảm xuống do một số thay đổi trong chính sách quản lý ngoại hối như quy định các doanh nghiệp không được thanh toán trực tiếp với nhau bằng ngoại tệ, quy định về kết hối cũng như quy định về giới hạn lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp. Ngoài ra, từ năm 1990 đến 1998, Việt Nam luôn ở trong tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, nhập siêu liên tục. Điều này cũng đã có tác động làm giảm tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế. Từ năm 1999, do cán cân vãng lai đựơc cải thiện và tỷ lệ kết hối giảm từ 80% xuống còn 30% nên tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế đã có chiều hướng gia tăng và dẫn đến hệ quả là đô la hoá không chỉ diễn ra ở khu vực tiền gửi tiết kiệm của dân cư, mà xuất hiện ở cả khu vực các tổ chức kinh tế-xã hội. Trong khoảng thời gian giữa năm 2007, lãi suất huy động đôla Mỹ của các ngân hàng tăng lên khiến cho tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ tăng lên dẫn đến tình trạng các ngân hàng thừa ngoại tệ.
b.Đôla hoá trong lĩnh vực cho vay.
Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đôla Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại có xu hướng tăng lên, cao hơn cả tiền gửi đôla. Từ năm 1994 đến năm 2000, cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng như sau:
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Ngoại tệ
38,6
38,7
36,6
31,2
25,2
22,6
18,6
Thời kì sau năm 2000, các ngân hàng tích cực cho doanh nghiệp vay bằng đôla để sinh lời. Tính đến cuối năm 2003, khoản tiền được các ngân hàng cho vay bằng đôla đã chiếm tới 28%. Đặc biệt, tại Tp Hồ Chí Minh, dư nợ cho vay bằng đôla Mỹ cuối tháng 9 năm 2004 đã tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002. Trong thời gian gần đây, tốc độ cho vay USD ngày càng tăng. Tốc độ cho vay đôla Mỹ tại ngân hàng hiện nay tăng nhanh hơn tốc độ cho vay tiền đồng khoảng 50%. Đó là do lãi suất cho vay trong ngắn hạn mà các ngân hàng đang áp dụng từ 10,8%-13,8%/năm, dài hạn từ 12,4-15,5%/năm, còn lãi suất cho vay USD ngắn hạn chỉ ở mức 6,6-7,5%/năm và dài hạn 6,8-7,4%/năm, các doanh nghiệp thích vay bằng USD hơn. Không những nhu cầu vay USD thanh toán nhập khẩu tăng cao mà nhu cầu vay USD phục vụ các mục đích khác của các doanh nghiệp cũng tăng. Tính đến thời điểm hiện nay (cuối năm 2007), so với cuối năm 2006, tốc độ tăng dư nợ ngoại tệ của hệ thống ngân hàng cũng cao hơn dư nợ VND (tương ứng 19% và 13%). Lượng vốn huy động bằng ngoại tệ của các ngân hàng hiện chiếm gần 27% tổng vốn huy động nhưng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ thì chiếm gần 31% tổng dư nợ.
II- Nguyên nhân của hiện tượng đôla hoá ở Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, khía cạnh đáng quan tâm nhất của vấn đề đô la hoá ở Việt Nam là những dấu hiệu của đô la hoá trong lĩnh vực tiền gửi ngân hàng. Như đã từng đề cập, đô la hoá không phải là một hiện tượng mới mẻ của nền kinh tế Việt Nam mà đã từng xảy ra và nguyên nhân chủ yếu lý giải của hiện tượng này trong thời kì đó là tỷ lệ lạm phát cao và nền kinh tế kém ổn định. Ngược lại , trong những năm gần đây, đô la hoá lại trở lại bùng nổ trong hệ thống ngân hàng trong khi các nhân tố kể tên đều không tồn tại hoặc không ảnh hưởng.
1.Lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng
Lãi suất tiền gửi là yếu tố trực tiếp nhất ảnh hưởng đến luồng vốn vào ở các ngân hàng thương mại. Điều này không chỉ đúng với đồng Việt Nam mà với cả các loại ngoại tệ. Với sự gia tăng trong những năm qua lãi suất đã trở thành nhân tố chủ yếu gây ra tình trạng đô la hoá tiền gửi ở các ngân hàng.
Trong những năm gần đây, trong lĩnh vực huy động tiền gửi USD lại diễn ra một cuộc chạy đua nâng lãi suất của các ngân hàng thương mại, mở đầu bằng việc ngày 3/3/2006, ngân hàng á Châu ACB có quy mô lớn nhất và đứng đầu về kinh doanh ngoại tệ trong khối ngân hàng thương mại cổ phần, đã tăng lãi xuất ngoại tệ - USD ở tất cả các kỳ hạn với mức tăng lớn nhất từ trước đến nay từ 0,3% một năm đến 0,85% một năm. Bên cạnh đó , người gửi tiền còn được còn được thưởng thêm lãi suất dựa trên số tiền gửi USD. Cụ thể người gửi ngoại tệ tại ACB được cộng thêm từ 0,1%/năm đến 0,126%/năm nếu tiền gửi từ 5000 USD đến trên 60.000 USD cho một số tiền gửi tiết kiệm.
Ngày 1/8/2007, ngân hàng HSCB tại Việt Nam bắt đầu phát hành chứng chỉ tiền gửi ghi số băng USD đợt 10 với lãi suất tăng mới so với lần phát hành thứ chín trước đây. Lãi suất của chứng chỉ tiền gửi USD lần này của HSCB đã tăng đáng kể, nhất là cho kỳ hạn 3 tháng (từ 4,20% lên 4,70%) và kỳ hạn 6 tháng (từ 4,30% lên đến 4,70%). Ngày 28/8 ngân hàng kỹ thương Techcombank thông báo tăng lãi suất huy động vốn tiết kiệm USD. Biểu lãi suất mới áp dụng cho các khoản tiền gửi tiết kiệm USD lĩnh lãi cuối kỳ với biên độ tăng khá cao. Cụ thể lãi suất USD tiết kiệm thường tăng mạnh ở nhiều kỹ hạn đặc biệt là ở các kỳ hạn 6 tháng (tăng 0,6%/năm lên đến 5,2%/năm). Các kỳ hạn 1 tháng , 2 tháng và 12 tháng đều tăng 0,45%/năm lên 4.5%/năm, 4,7%/năm và 5,5%/năm. Tiếp theo, một số ngân hàng như Vietcombank , Sacombank, Đông á, Eximbank,… cũng đồng loạt điều chỉnh lãi suất huy động tiền gửi USD.
Đó là những diễn biến của cuộc chạy đua nâng lãi suất thu hút tiền gửi của các ngân hàng thương mại, với hiện tượng các ngân hàng thương mại đua nhau tăng lãi suất huy động USD và các tác động về tình trạng đô la hoá trong hệ thống ngân hàng. Dưới tác động của cuộc chạy đua này, lãi suất huy động USD đã nâng lên ở mức xấp xỉ bằng, thậm chí còn hơn lãi suất tiết kiệm VND cho cùng kỳ hạn.
Xét về mặt lãi suất, trong trường hợp cả hai đồng tiền đều có khả năng chuyển đổi và mỗi đồng tiền đều dựa vào những nền kinh tế có sức mạnh tương đương thì người ta sẽ lựa chọn đồng nào có lãi suất cao hơn. Nhưng so với đồng đô la này , đồng Việt Nam chưa phải là đồng chuyển đổi và là đồng tiền yếu, vì vậy, người ta sẽ chỉ lựa chọn đồng Việt Nam nếu lãi suất của đồng Việt Nam cao hơn hẳn so với lãi suất đồng đô la Mĩ. Tuy nhiên , như đã nói ở trên, khoảng cách giữa lãi suất của USD và VND của các ngân hàng thương mại ngày càng thu hẹp và có thời điểm lãi suất huy động USD đã cao hơn lãi suất huy động VND. Điều này sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là xu hướng chuyển đổi tiết kiệm bằng đồng VN tiết kiệm sang Đô la Mỹ. Do những tác động đó, nguồn vốn ngoại tệ huy động được của các ngân hàng thương mại có chiều hướng tăng lên. Như tháng 9/2007, nguồn vốn huy động USD tại Sacombank đã đạt 304 triệu USD tăng 100% so với cùng kì năm ngoái và tăng 30% so với đầu năm 2007. Tốc độ tăng tín dụng USD tăng 70% so với cùng kì năm trước.
Sự gia tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ là nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu làm bùng lên hiện tượng đôla hoá. Để nhìn một cách toàn diện, chúng ta nghiên cứu nguyên nhân khiến các ngân hàng đua nhau đẩy lãi suất huy động vốn lên cao mà trước hết và cụ thể là những thay đổi về lãi suất ở Hoa Kì.
Lãi suất USD trên thị trường quốc tế tăng mạnh, trước hết là do Cục dữ trữ Liên bang Mỹ - FED tăng lãi suất chỉ đạo. Thời điểm gần đây, nhất là ngày 29/3/2006, FED đã tăng lãi suất chỉ đạo từ mức 4,5% lên 4,75%/năm, đây là đợt tăng lãi suất thứ hai kể từ đầu năm 2006. Hiện nay lãi suất trên thị trường quốc tế cũng tăng lên. Lãi suất tiền gửi USD trên thị trường liên ngân hàng - Singapore-Sibor ngày 20-4-2006 kì hạn 2 tháng là 5,045%/năm , kì hạn 6 tháng là 5,366%/năm. Lãi suất trên thị trường London cũng tăng tương tự.
ở Việt Nam, dưới tác động của sự gia tăng lãi suất quốc tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng từng bước tăng lãi suất huy động đôla Mỹ. Mặc dù lãi suất huy động USD trong nước tăng lên nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn so với thị trường quốc tế với mức chênh lệch 0,2-0,6%. Mức chênh lệch đó đã khiến các ngân hàng thương mại tăng cường huy động USD rồi gửi tại các ngân hàng nước ngoài nhằm mục đích thu lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất. Chính vì vậy, các ngân hàng đã đua nhau tăng lãi suất để huy động được nhiều đôla hơn.
2) Sự gia tăng tỷ giá VND/USD
Mặc dù lãi suất là yếu tố quyết định trực tiếp và có ý nghĩa quan trọng gây ra hiện tượng đôla hoá nhưng nó không phải là yếu tố duy nhất. Trong nền kinh tế Việt Nam, tỷ giá VNĐ/USD vẫn luôn là 1 yếu tố quan trọng có tác dụng định hướng cho các chủ thể kinh tế trong quyết định đầu tư. Những biến động tỷ giá trên thị trường tiền tệ cũng đã có những tác động không nhỏ đến tình trạng đôla hoá ở Việt Nam.
Tỷ giá VND/USD luôn có xu hướng tăng và tăng mạnh. Trong giai đoạn cuối 2002 đầu 2004, USD mất giá thảm hại so với các đồng tiền mạnh trên thế giới, thì tại Việt Nam vẫn lên giá so với VND. Trong 9 tháng đầu năm 2005, tỷ giá tăng 0,73%. Nguyên nhân của hiện tượng này là trong năm 2004 những biến động trên thế giới làm tăng đột biến giá của một số mặt hàng chủ lực như xăng, dầu, thép, một số mặt hàng thực phẩm, làm gia tăng chỉ số lạm phát của Việt Nam lên 9,5%. Trong khi đó, chỉ số lạm phát của Mỹ năm 2004 chỉ đạt - 0,1%. Về mặt lý thuyết, theo học thuyết ngang giá sức mua (PPP), tỷ giá VND/USD phải tăng tương xứng với mức chênh lệch tỷ lệ lạm phát của hai đồng tiền. Mặt khác, trong điều hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà Nước luôn điều chỉnh tỷ giá theo hướng phá giá nhẹ VND, trước là cải thiện cán cân thương mại, sau là giúp tỷ giá phản ánh sát giá trị thực của VND nhằm tạo tiền đề cho việc tiến đến thả nổi tỷ giá theo yêu cầu của lộ trình hội nhập mà Việt Nam đã cam kết trong các Hiệp định song phương và đa phương.
Trong thời gian gần đây, tỷ giá VND/USD tiếp tục tăng với biên độ cao hơn cùng kì các năm trước. Từ năm 2002 đến cuối năm 2006, tỷ giá VND/USD chỉ tăng từ 0,7-1%/năm. Nhưng tỷ giá trên thị trường tự do ngày 6/9/2007 đã lên mức cao nhất từ trước đến nay: mua bán tương ứng là 16.280-16.310 VND/USD. Tỷ giá có chiều hướng tăng trong bối cảnh lãi suất huy động ngoại tệ tăng lên liên tục là những nguyên nhân giải thích rõ nhất cho luồng vốn ngoại tệ không ngừng đổ vào các ngân hàng thương mại. Việc tỷ giá biến động trong những năm qua đã kích thích người dân nắm giữ ngoại tệ dưới nhiều hình thức để phòng ngừa rủi ro. Cán cân lãi suất tiền gửi nghiêng về phía đôla Mỹ hiển nhiên sẽ đưa người dân dẫn đến quyết định gửi tiền vào ngân hàng vừa để kiếm lời vừa để đảm bảo giá trị tài sản. Trong điều kiện tỷ giá tăng như đã phân tích ỏ trên, nhiều đơn vị tổ chức, cá nhân muốn mua đôla để hy vọng kiếm lời hay cũng để hạn chế rủi ro bởi tính nhạy cảm của công chúng đối với những biến động tỷ giá là rất lớn. Sự cộng hưởng hai yếu tố: tiền đồng mất giá và lãi suất gửi USD tăng đã khiến dân cư tăng cường gửi đôla Mỹ vào các tài khoản tiết kiệm tại các NHTM, làm gia tăng tình trạng đôla hoá của nền kinh tế Việt Nam.
3) Sự yếu kém của đồng tiền Việt Nam.
Sự yếu kém của đồng tiền Việt Nam là nguyên nhân sâu xa của tình trạng đôla hoá ở Việt Nam. Sự yếu kém đó thể hiện ở các phương diện sau:
Trước hết, đồng tiền Việt Nam chưa phải là một đồng tiền chuyển đổi. Một đồng tiền có khả năng chuyển đổi có nghĩa là đồng tiền ấy được lưu thông tự do không chỉ trong phạm vi nước phát hành tiền, và có đủ sức mạnh để đứng vững trước những biến động của thị trường. Trong khi đó, vai trò của đồng Việt Nam trong lưu thông rất hạn chế, đồng Việt Nam chỉ có giá trị trong lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên giá trị đó cũng có phần bị hạn chế do giá trị đồng tiền nhỏ. Hiện nay, 500000Đ là tờ tiền có mệnh giá cao nhất ở Việt Nam, trong khi một tờ 100$ của Mỹ có giá trị gấp hơn 3 lần như thế. Một đồng nội tệ có khả năng chuyển đổi kém dẫn đến tình trạng ngoại tệ dần thay thế các chức năng của đồng nội tệ trên phạm vi quốc gia, đẩy đồng nội tệ ra khỏi lưu thông.
Bên cạnh đó, mặc dù từ khi thực hiện chính sách mở cửa đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển tương đối ổn định, nhưng năng lực kinh tế vẫn còn hạn chế và sự phát triển còn thiếu bền vững. Đồng Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế có quy mô nhỏ, trình độ phát triển thấp đã thiếu đi một nền tảng chắc chắn đảm bảo cho sự ổn định và vững mạnh của nó. Nước ta hiện nay đang hoà nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sự kiện gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong khi vẫn là một nước nhỏ, tiềm năng hạn chế nên tất yếu phải chịu những tác động của các nền kinh tế khác. Vì vậy, những biến động lãi suất ở Hoa Kì và sự phát triển kinh tế Mỹ có thể ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam, gián tiếp tác động làm gia tăng nạn đôla hoá ở Việt Nam.
4)Tâm lý ưa chuộng đôla Mỹ của người dân.
Như đã phân tích ở trên, những yếu điểm của VND chính là nguyên nhân khiến người dân Việt Nam không thực sự coi trọng đồng tiền của quốc gia mình. Thay vì tin tưởng vào đồng nội tệ, người dân Việt Nam lại đặt niềm tin vào các loại ngoại tệ mạnh, đặc biệt là đôla Mỹ. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì đôla Mỹ luôn tỏ ra là một đồng tiền ổn định, lại có một nền tảng vững chắc là nền kinh tế Hoa Kỳ nên có độ tin cậy cao. Tâm lý người dân luôn muốn sở hữu những tài sản khó có ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 03.doc