Năm vừa qua hầu hết các dự án tiềm năng đều tạm dừng để đẩy sang năm 2010 . Và năm nay chính là cơ hội để các đối tác cùng khai thác thị trường tiềm năng ERP vì nhu cầu của Doanh nghiệp đang ngày càng lớn. Nếu tính tốc độ phát triển các dự án được ký thì trên thị trường hiện nay so với năm 2008 tăng trưởng về mặt số lượng là 20% còn về mặt giá trị thì đột phá hơn với mức tăng trưởng hơn 50% . Điều này chứng tỏ nhu cầu của Doanh nghiệp đã ngày càng tăng và cơ hội cho các nhà cung cấp càng lớn. Đối với dự án ERP thì khi một đối tác triển khai một dự án mới sẽ là cơ hội mới dành cho đối tác khác. Có nghĩa là một nhà cung cấp chỉ có thể triển khai dự án ERP trong một khối lượng nhất định và phần còn lại sẽ rải rác dành cho các đối tác khác. Điều này dẫn đến một thị trường cân bằng trong các năm. Nếu như năm 2008 chứng kiến sự lớn mạnh của đối tác GCS hay Pythis thì năm nay lại chứng kiến sự vượt bậc của FPT . Nhưng đó lại là một lợi thế cho các đối tác khi họ xây dựng được các case study cho từng ngành công nghiệp để đánh vào thị trường Việt nam. Làm ERP rất cần những Best Practice (Thực tiễn thành công) cho một ngành công nghiệp nào đó thì sẽ dễ chứng minh cho các doanh nghiệp khác cùng ngành còn lại thấy rằng việc đầu tư ERP mang lại hiệu quả như thế nào. Và ngược lại nếu như một đối tác nào đó triển khai không thành công thì cũng chính rủi ro cho việc lựa chọn giải pháp ERP công ty khác cùng ngành còn lại (Ngành May mặc là một ví dụ điển hình)
12 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4151 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng ERP ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y lên một làn sóng giảm giá gần như là chung cho tất cả các sản phẩm. Tuy nhiên các nhà cung cấp giải pháp Việt Nam họ vẫn còn một thị trường rất tiềm năng đó là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, có một số đối tác đã chia nhỏ gói của họ ra bán với giá mềm để đánh mạnh vào các thị trường tiềm năng này đồng thời có những chính sách kích cầu thích ứng để chống chọi với một thị trường không sôi động lúc bấy giờ. Các nhà cung cấp này luôn có môt danh sách các khách hàng khi sẵn sàng có một giá hợp lý và đúng thời điểm sẽ trở nên tiềm năng.
Các đối tác cung cấp giải pháp nước ngoài thì trận chiến khốc liệt hơn khi nhu cầu thực sự của khách hàng thời điểm ấy gần như trả về số 0. Cũng có thể có rất nhiều khách hàng quan tâm nhưng đa số là xem xét cho các năm tiếp theo chứ không thể đầu tư ngay bây giờ. Chính vì vậy cuộc chiến đấu diễn ra rất mạnh mẽ để tìm cách thắng dự án về mình . Từ đó hình thành nên một thị trường nhỏ và eo hẹp, những dự án ký được ở thời điểm này là hiếm. Có thể 7-8 tháng trên thị trường không nghe tiếng một dự án nào được ký kết. Như vậy, các đối tác dựa vào các dự án cũ và các dự án có điểm rơi vào cuối năm trước để triển khai và nguồn thu cho năm nay và duy trì lực lượng để tiếp tục chinh chiến.
Cũng thời điểm này một số NCC đứng trước tình trạng phá sản, tình hình tài chính khó khăn tột độ và cố gồng gánh để qua cơn nạn. Một số đối tác kêu gọi sự hợp tác và đầu tư từ các đối tác trong và ngoài nước để chia sẻ tài chính, có một số lại muốn bán lại cả công ty vì không thể kham nổi và đối chọi với tình hình tồi tệ như vậy. Làn sóng này đôi lúc nhảy lên tột đỉnh với một số chào mời rất rõ ràng và có tiếng trên thị trường.
Các hãng ERP thế giới có chính sách cắt giảm nhân sự và giảm hẳn các event PR sản phẩm hàng năm, từ các chi phí cố định hàng năm nay lại bị cắt giảm và giải trình một cách cẩn thận và đôi khi không diễn ra. Chính sách giá cả được thương lượng với mức giá mà đến nay vẫn còn thèm thuồng, thi nhau chạy đủ doanh số và sẵn sàng hạ giá đến mức trung bình để có thể lấy được dự án về cho mình
3. Bất ngờ vào cuối nămKhoảng tháng 10 -2009 khi cuộc khủng hoảng kinh tế dần dần được phục hồi trở lại. Các doanh nghiệp Việt Nam dễ thở hơn với sự hỗ trợ của nhà nước cũng như các hệ thống tài chính khác. Bên cạnh đó các doanh nghiệp lớn luôn lường trước được rủi ro và có những khoản dự phòng để vượt sóng. Có nhiều cách để duy trì tài chính trong doanh nghiệp như cắt giảm, đẩy mạnh các quỹ dự phòng,... Đối với các doanh nghiệp này ý thức được rằng việc đầu tư ERP xem như là một công việc sớm muộn gì rồi cũng phải làm và nhân cơ hội này họ đã đầu tư một thể. Cũng có doanh nghiệp tình hình tài chính không những không bị ảnh hưởng mà còn làm ăn phát đạt lên . Như vậy tạo nên một thị trường khá sôi động với nhu cầu của nhiều doanh nghiệp cần ERP giai đoạn cuối năm này. Một điều khá bất ngờ là thị trường bất động sản xuống dốc, xáo trộn, lãi vay cao nhưng trong năm nay các công ty về bất động sản lại trang bị ERP nhiều nhất. Điển hình là tập đoàn NOVA bỏ ra gần 2 triệu USD để triển khai tổng thể cho toàn tập đoàn trong đó có riêng cho NOVA Land với dự án Sunrise City hùng tráng. Bên cạnh đó là Cty Phát triển nhà Thủ Đức cũng đầu tư gần 1 triệu USD cho SAP ERP, Tập Đoàn REE cũng tiêu tốn 500 ngàn USD, Sonadezi Châu Đức cũng đầu tư ERP hơn 400 ngàn USD.Đây là các công ty kinh doanh chuyên về bất động sản và các sản phẩm tương tự ...Điều tạo nên bất ngờ lớn nhất là Tập đoàn Petrolimex bỏ ra gần 13 triệu USD để triển khai hệ thống ERP cho toàn tập đoàn từ Bắc đến Nam, dự án này đã tạo nên kỷ lục không chỉ riêng ở Việt Nam mà có lẽ với cả khu vực. Bên cạnh đó có nhiều tập đoàn công ty khác cũng đầu tư ERP mạnh mẽ và điển hình như Tập đoàn Tân Hiệp Phát với dự án gần 3 triệu USD, Công ty cho thuê tài chính II cũng đầu tư hơn 550 ngàn USD, Tập đoàn Concordia đầu tư hơn 2,8 Triệu USD trong đó có ở Việt Nam. Một số công ty khác nữa như Phạm Nguyên, Gtel, , Dawaco, Nguyên Bình, Ngân hàng Quân đội MB Bank, FICO, Diana, Tranximext, Auto World. Bảo hiểm Bảo Việt, Én Việt (Hệ thống cafe Cát Đằng), Xây dựng Hòa Bình, Dệt Thành Công, Xi măng Hải Vân, Thiên Hòa An , SunHouse,...... và rất nhiều dự án được ký vào giai đoạn này.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng nhu cầu của thị trường, của các doanh nghiệp về ERP là không nhỏ và luôn luôn nở rộ ở mọi thời điểm và điều có thể nhìn thấy rõ nhất là cuộc khủng hoảng năm 2009 tác động đến nhu cầu này là rất lớn. Từ cuối 2008 đến giữa 2009 trên thị trường hầu như không có dự án nào lớn được ký kết mà chỉ nở rộ vào giai đoạn cuối năm nay. Doanh nghiệp luôn ý thức được bản thân mình và đối phó với các tác động khách quan từ bên ngoài, nhưng một khi có cơ hội, thời cơ đến thì luôn trở mình để đầu tư một cách đúng hướng, đúng đắn và đúng thời điểm.
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại phần mềm từ ERP, phần mềm kế toán, CRM, SCM,...có khoảng 40 các nhà cung cấp khác nhau để khai thác thị trường tiềm năng này. Có rất nhiều đối tượng Doanh nghiệp được phân chia từ mức đầu tư từ 1 triệu VND cho đến 10 triệu USD. Chính vì vậy việc đánh giá ở trên đây chỉ mang tính khái qoát và tập trung vào những sự đầu tư cho giải pháp ERP . Bên cạnh đó sẽ có rất nhiều doanh nghiệp đầu tư ở mức từ 10 đến 70 ngàn USD. Đối tượng này chiếm đa số và nhu cầu rất lớn ở trên thị trường nhưng chưa được khai thác đúng và hiệu quả. Đa số là cuộc chiến của các phần mềm kế toán trong nước đối với thị trường này.
Từ phân tích tổng quan về thị trường ERP Việt nam năm 2009 vừa rồi thông qua việc tham khảo các đối tác đang triển khai giải pháp ERP nước ngoài và ERP Việt nam. Đây là số liệu mang tính tham khảo sau quá trình thu thập thông tin. Có 2 chỉ tiêu so sánh là về số lượng dự án và giá trị dự án. Năm nay số lượng dự án các giải pháp lớn như SAP, Oracle rất khiêm tốn so với ERP nội nhưng về mặt giá trị lại vượt bậc bởi các dự án với giá trị lớn như Petrolimex gần 13 triệu USD, hay Tổng công ty xi Măng Việt nam tới 16 triệu USD được triển khai dàn trải qua nhiều năm . Năm nay mới chỉ khoảng 4 công ty xi măng được triển khai . Từ đó đưa ra tương quan con số và so sánh như hình minh họa bên dưới !
Về số lượng : SAP: 6 Dự ánOracle: 12 Dự ánM$ và SAP B1,SUN, Exact,... 25 Dự ánERP Nội và PMKT: 56 dự án)Về số lượng chỉ mang tính tương đối bởi qua khảo sát có những cty ERP nội ký tới gần 30 dự án trong năm nay nhưng chỉ lược bỏ các dự án có giá trị từ 70 ngàn USD trở lênHình minh họ về số lượng dự án ký được trong năm 2009Về giá trị : SAP: 17,200 Triệu USD (Petrolimex đã chiếm tới 12,6TR USD)Oracle: 5,900 Triệu USDM$ và SAP B1,SUN, Exact,...: 2,500 Triệu USDERP Nội địa và PMKT: 3,920 Triệu USDVề giá trị của các ERP nội tính tổng quan giá trung bình từ 70 ngàn USD trở lên và các dự án của M$ chỉ tính giá từ 100 ngàn USD trở lên. Còn giá trị của SAP và Oracle là giá trị gần đúng với con số thực tế.
Hình minh họa về giá trị dự án ký được trong năm 2009Như vậy chúng ta có thể nhìn thấy rằng về số lượng các dự án Việt Nam vượt trội so với các dự án nước ngoài nhưng ngược lại giá trị tổng các dự án này lại nhỏ hơn nhiều. Như vậy chúng ta có thể nhận định ra một tương lai tốt cho ERP năm 2010 này.
4. Nhận định 2010
Năm 2010 mở ra một cơ hội mới cho tất cả các Doanh nghiệp muốn đầu tư ERP và các đối tác cung cấp các giải pháp ERP hiện có trên thị trường. Với lượng Doanh nghiệp đang sẵn sàng chuẩn bị ứng dụng ERP cho mình trên thị trường là rất lớn hứa hẹn một thị trường ERP năm 2010 sôi động mà phát súng đầu tiên cho năm nay đó chính là Công cty Bánh Kẹo Phạm Nguyên với mức đầu tư ERP lên tới nửa triệu USDĐứng trước công cuộc cải tổ để phát triển hơn nữa nên doanh nghiệp luôn luôn ý thưc được việc tin học hóa công tác quản lý của mình là điều cần thiết Xu hướng của các công ty hướng lên sàn chứng khoán cho nên điều kiện để họ có thể có đầu tư từ bên ngoài hoặc từ bản thân phải có một hệ thống quản lý được sự tin tưởng của các cổ đông, đó chính là ERP ma doanh nghiệp đang hướng đến. Nhưng Doanh nghiệp luôn dè dặt trong việc đầu tư này bởi những lý do sau1. Không biết mô hình ERP có phù hợp với doanh nghiệp hay không2. Quá nhiều giải pháp, nhà cung cấp làm cho hiện có trên thị trường 3. Chi phí đầu tư quá lớn so với sự tưởng tượng của doanh nghiệp4. Doanh nghiệp chưa hiểu rõ được ERP nên chưa dám đầu tư
ERP đối với Việt Nam đã lên tuổi 10. Trong 10 năm qua có nhiều những điển hình thành công và thất bại, nhưng cách đầu tư và hướng đầu tư ERP vào doanh nghiệp để học hỏi và suy ngẫm xem xét. Cứ mỗi năm đi qua có hàng loạt doanh nghiệp đầu tư ERP và từ đó hình thành nên những kinh nghiệm cho từng ngành mà các doanh nghiệp có thể dựa vào đó để tin tưởng hơn sự thành công khi ứng dụng ERP vào cho ngành đặc thù của mình. Đó là những bài học rất thực tế để các doanh nghiệp hiện tại tìm đến với ERP dễ dàng hơn, có nhiều thông tin hơn và quyết định một cách chính xác hơn. Chính vì thế năm 2010 chính là cơ hội cho các doanh nghiệp đã có dự định đầu tư ERP từ nhiều năm đồng thời với nghị định mới của chính phủ về việc tin học hóa hoàn toàn các Doanh nghiệp Việt Nam đến 2020 cũng là điều kiện cần để doanh nghiệp suy nghĩ đến một dự án đầu tư CNTT hợp lý và đúng đắn. Bên cạnh đó các doanh nghiệp được hỗ trợ bởi một lực lượng tư vấn độc lập đông đảo (7 đối tác tư vấn độc lập), đủ kiến thức, khả năng và kinh nghiệm để tư vấn đấu thầu các dự án tầm cỡ lớn như ERP. Năm vừa rồi các dự án lớn của SAP và Oracle thì 2/3 trong số đó đều có sử dụng tư vấn độc lập. Như vậy rõ ràng Doanh nghiệp đã dè dặt, xiết chặt hơn trong việc lựa chọn giải pháp ERP cho mình.
Năm vừa qua hầu hết các dự án tiềm năng đều tạm dừng để đẩy sang năm 2010 . Và năm nay chính là cơ hội để các đối tác cùng khai thác thị trường tiềm năng ERP vì nhu cầu của Doanh nghiệp đang ngày càng lớn. Nếu tính tốc độ phát triển các dự án được ký thì trên thị trường hiện nay so với năm 2008 tăng trưởng về mặt số lượng là 20% còn về mặt giá trị thì đột phá hơn với mức tăng trưởng hơn 50% . Điều này chứng tỏ nhu cầu của Doanh nghiệp đã ngày càng tăng và cơ hội cho các nhà cung cấp càng lớn. Đối với dự án ERP thì khi một đối tác triển khai một dự án mới sẽ là cơ hội mới dành cho đối tác khác. Có nghĩa là một nhà cung cấp chỉ có thể triển khai dự án ERP trong một khối lượng nhất định và phần còn lại sẽ rải rác dành cho các đối tác khác. Điều này dẫn đến một thị trường cân bằng trong các năm. Nếu như năm 2008 chứng kiến sự lớn mạnh của đối tác GCS hay Pythis thì năm nay lại chứng kiến sự vượt bậc của FPT . Nhưng đó lại là một lợi thế cho các đối tác khi họ xây dựng được các case study cho từng ngành công nghiệp để đánh vào thị trường Việt nam. Làm ERP rất cần những Best Practice (Thực tiễn thành công) cho một ngành công nghiệp nào đó thì sẽ dễ chứng minh cho các doanh nghiệp khác cùng ngành còn lại thấy rằng việc đầu tư ERP mang lại hiệu quả như thế nào. Và ngược lại nếu như một đối tác nào đó triển khai không thành công thì cũng chính rủi ro cho việc lựa chọn giải pháp ERP công ty khác cùng ngành còn lại (Ngành May mặc là một ví dụ điển hình)
Khi các dự án nở rộ trên thị trường thì đồng hành với đó là việc cần một nguồn nhân lực ERP dồi đào cho năm nay. Nguồn nhân lực ERP luôn là nỗi trăn trở của cả Doanh nghiệp và Nhà triển khai giải pháp. Doanh nghiệp thì lo lắng nhân lực không đủ kiến thức, trình độ và sự thích ứng nhanh chóng cái được gọi là “quy trình thế giới”. Nhà triển khai thì khan hiếm nhân lực triển khai đã có kinh nghiệm. Với khoảng 5 nhà cung cấp ERP nước ngoài và khoảng 10 nhà cung cấp ERP trong nước thì nhân sự triển khai qua lại giữa các nhà cung cấp này gần như thường xuyên. Bởi các nhà triển khai khi có dự án thường thu hút nguồn nhân lực cực lớn trên thị trường ví dụ điển hình như Tập đoàn CSC năm rồi cần tới 30 nhân viên triển khai SAP với mức lương trên 1200USD hay Cty Intel Việt Nam cần tới hơn 40 nhân lực SAP để vận hành hệ thống ERP tại Việt Nam và được gửi ra nước ngoài đào tạo với mức lương khủng đối với một người tư vấn ERP có kinh nghiệm. Điều này làm đảo lộn thị trường nhân lực ERP và chảy máu nhân sự ở các công ty lớn. Nhưng có một quy luật trong vấn đề này đó là sự lớn mạnh của đội ngũ trẻ năng động và được đào tạo bài bản. Chỉ cần sau một năm theo các dự án lớn có thể đủ kiến thức để triển khai các dự án nhỏ lẻ khác. Đồng thời triển khai ERP được đề cao phương pháp làm việc theo nhóm . Do vậy, trong một dự án chỉ cần một vài người có kinh nghiệm quản trị có thể đưa dự án đó đến thành công. Đó cũng là phương án khỏa lấp sự thiếu hụt nhân lực trên thị trường hiện nay.Đối với thị trường ERP khái niệm tăng trưởng không có quy luật chung . Có thể hiểu như một ví dụ: năm nay 10% thì năm tới sẽ là 20% hay 30%,... mà phụ thuộc rất nhiều vào sự co giãn của thị trường và đặc thù các ngành nghề qua từng năm và bên cạnh là những cơ chế luôn luôn biến đổi như hiện nay. Có thể sự vượt bậc của năm nay sẽ là sự tụt hậu cho năm sau . Một lý do kể đến ở trên là nhân lực thiếu hụt chẳng hạn. Một năm trôi qua với bao nhiêu biến động lớn mang tầm ảnh hưởng quốc tế nhưng lại đạt được con số ấn tượng nhất trong các năm. Điều này chứng tỏ không phải kinh tế đi lên đồng nghĩa với việc đầu tư ERP càng mạnh, càng nhiều mà nó phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của bản thân từng doanh nghiệp. Và đã nói về nhận thức có nghĩa là nó không có giới hạn, không có việc đúng sai chính vì vậy đó cũng là quy luật phát triển của ERP qua từng năm. Năm nay theo tôi khả quan của thị trường có 2 xu thế chính như sau cho việc đầu tư ERP đó là: 1. Áp lực cổ phần hóa của các Tập đoàn nhà nước2. Đại chúng hóa các công ty tư nhânĐây chính là cơ hội để thị trường ERP vẫn phát triển như các năm và nâng tổng số doanh nghiệp đầu tư ERP lên con số cao hơn nữa nhưng nhận định của tôi về với số lượng và giá trị sẽ không bằng năm 2009 vừa qua. ( ERPSOLUTION.VN)5. Năm 2010“Chi cho ERP bao nhiêu là đủ?”Đó là câu hỏi mà nhiều doanh nghiệp (DN) Việt Nam thường hỏi khi bàn về ERP. Trên thực tế, ERP hay còn gọi là giải pháp quản trị toàn diện cho DN thường là một lựa chọn ưu tiên khi lên kế hoạch phát triển hoặc tái cấu trúc công ty. Tuy nhiên, nỗi lo phải chi ra một khoản khá lớn để triển khai giải pháp ERP mà chưa nắm rõ hiệu quả, chính là một trở ngại tâm lý rất lớn cho quá trình ứng dụng CNTT.Vậy vấn đề đầu tiên là xác định được yêu cầu riêng biệt của từng DN, và chọn được một giải pháp với quy mô phù hợp để tránh lãng phí. Tuy nhiên, lựa chọn không dễ, khi vẫn chưa có một chuẩn nào để phân nhóm các giải pháp ERP trên thị trường Việt Nam. Và như một hệ quả tất yếu, DN Việt Nam cảm thấy ngại ngay cả khi nghĩ đến việc tìm đơn vị tư vấn, do có sẵn tâm lý “nhà cung cấp chỉ cố bán càng nhiều càng tốt…” – như theo lời một đại diện DN.“ERP chỉ có hai nhóm quy mô: Vừa và lớn!”Trong buổi trao đổi “Quy mô giải pháp ERP và Kế toán” vào ngày 28/5/2010, tại TP.HCM do Thế Giới Vi Tính B tổ chức, cả hai phía chuyên gia tư vấn và đơn vị cung cấp giải pháp ERP cũng thống nhất được về việc cần phải chọn ra một mốc tiêu chuẩn tối thiểu để có thể xem một giải pháp quản lý bằng CNTT là ERP.Theo các ý kiến được đưa ra trong buổi trao đổi nói trên, đã nói đến ERP là phải đạt các tiêu chuẩn về chuyên môn, và khả năng giải quyết gọn các bài toán nghiệp vụ. Bản chất của ERP – Enterprise Resource Planning - là hoạch định – Planning, do đó ERP cần phải giải quyết được các bài toán tương lai. Để được xem là ERP, một giải pháp cần phải có tối thiểu 5 yêu cầu sau: 1. Phải có tối thiểu 5 phân hệ (module) quản lý các tác vụ sau: sản xuất (cả hoặc định, kế hoạch sản xuất và theo dõi sản xuất chi tiết ở mức phân xưởng, theo từng đơn hàng, hợp đồng), mua hàng (kể cả nguyên phụ liệu, vật tư và hàng hóa nói chung), bán hàng, tồn kho và tài chính. Theo quan điểm mới, có thể gom mua hàng, bán hàng, tồn kho vào một nhóm là hậu cần (logistic). Do đó, có thể nói một giải pháp ERP phải có tối thiểu là 3 nhóm chức năng chính: sản xuất (manufacturing), logistic và tài chính (financial), Giải pháp ERP phải có khả năng quản lý tổng thể, kết nối và thống nhất luồng thông tin từ ba nhóm chức năng này.2. Về công nghệ, một giải pháp ERP ít ra phải có khả năng vận hành đồng thời trên nhiều môi trường khác nhau (Vd: Windows, Linux, Mac OS…). Khả năng làm việc đa người dùng tối thiểu trong mạng LAN với mô hình client- server. (không phải là chia sẻ dữ liệu (share files) )3. Có khả năng tích hợp với các hệ thống khác thông qua việc sử dụng các tiêu chuẩn chung. Có khả năng tích hợp các module độc lập từ các nhà cung cấp khác.4. Có khả năng tùy biến (customizable).5. Có khả năng xuất dữ liệu (data) và nhận data từ một nhà cung cấp khác .Để đáp ứng được tất cả các yêu cầu trên, về quy mô cấu trúc phần mềm CNTT, một giải pháp ERP chắc chắn chỉ có thể thuộc một trong hai tầm: vừa và lớn. Để phân định giữa hai nhóm này, theo ý kiến của các chuyên gia thì đơn giản nhất có thể xét về số phân hệ.
Nếu chỉ có 5 phần đã kể ở trên thì có thể xếp vào nhóm vừa. Còn nếu có trên 5 phân hệ thì có thể xếp vào nhóm lớn. Ngoài ra, nhóm các giải pháp lớn thường phát triển về mảng Planning và Analysis (Hoạch định và phân tích), trong khi các giải pháp vừa thì ít hơn rất nhiều, chủ yếu là ghi nhận thông tin.“EPR không dành cho DN nhỏ?”
Hiện trên thị trường Việt Nam đang tồn tại 2 nhóm: nhóm ERP nước ngoài và nhóm ERP do các đơn vị trong nước sản xuất. Bản thân nhóm ERP trong nước cũng chia làm 2 nhóm: giải pháp ERP được phát triển lên từ phần mềm Kế toán lớn; và giải pháp được xây dựng từ đầu... Thị trường cũng có 2 nhóm chuyên gia tư vấn ERP: chuyên tư vấn giải pháp nước ngoài và nhóm tư vấn cho cả 2 giải pháp trong và ngoài nước… Trên lý thuyết, tất cả các DN đều có thể tận dụng những ưu điểm mà các giải pháp ERP mang lại để tăng hiệu quả hoạt động của mình. Tuy nhiên, do đặc tính ngành nghề, không phải DN nào cũng có nhu cầu sử dụng hết toàn bộ 5 phân hệ quản lý tối thiểu của một giải pháp ERP. Do đó, cũng có thể nói một DN phải đạt đến một quy mô nhất định nào đó mới có nhu cầu ứng dụng ERP. Trong khi đó, các DN vừa và lớn cũng sẽ cân nhắc khi chọn mua, để tránh lãng phí khi mua giải pháp không đủ tầm, sử dụng một thời gian phải chuyển qua dùng giải pháp lớn khác.Còn đối với các DN nhỏ có nhu cầu, có thể chọn mua riêng biệt các giải pháp chuyên môn như kế toán, quản lý kho, quản lý bán hàng để tránh lãng phí khi triển khai ERP mà không dùng hết các phân hệ. Các giải pháp này luôn có sẵn trên thị trường, và có khi cũng được cung cấp bởi chính các đơn vị chuyên cung cấp giải pháp ERP trên thị trường Việt Nam.
THÔNG TIN CỦA MỘT SỐ DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ĐÃ TRIỂN KHAI THÀNH CÔNG ERP1. CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ CÔNG NGHỆ FPTLà một công ty cổ phần, quản lý theo mô hình tập đoàn, bao gồm nhiều công ty thành viên và chi nhánh, vấn đề quản trị doanh nghiệp (DN) trở thành yêu cầu hàng đầu của công ty Cổ Phần Phát Triển Đầu Tư Công Nghệ FPT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Kinh nghiệm và những bước triển khai ẺP tại FPT là những điều bổ ích đối với mỗi DN đang và sẽ áp dụng CNTT vào quản trị.Bước đầu nhận thứcNăm 2000, sau khi đạt chứng chỉ ISO, FPT chính thức đặt mục tiêu xây dựng hệ thống quản trị DN (ERP - Enterprise Resource Planning).Hệ thống ERP được FPT chọn ban đầu là giải pháp Solomon. Giải thích vì sao FPT không tự viết giải pháp mà lại lựa chọn phần mềm (PM) nước ngoài, ông Bùi Quang Ngọc, phó tổng giám đốc FPT đã khẳng định đây là điều hoàn toàn hợp lý vì ‘ERP hiểu chính xác không chỉ là một hệ thống công nghệ mà chủ yếu là hệ thống tác nghiệp và quản trị DN. Do vậy, các công ty PM VN (kể cả của FPT) chưa thực đủ kinh nghiệm và tri thức để đưa vào hệ thống PM các giá trị của tác nghiệp và quản trị. Ngoài ra, công nghệ hiện nay phát triển rất nhanh, các chức năng mới được thêm vào hết sức đa dạng nên PM VN không đủ sức để đáp ứng sự thay đổi cũng như nâng cấp. Ông Ngọc cho biết, trong thời gian tới FPT sẽ lựa chọn một giải pháp ERP ở mức cao hơn và cũng là một giải pháp của nước ngoài.Vấn đề quan trọng đối với DN trước khi bắt tay vào áp dụng ERP chính là nhận thức. Chỉ khi DN thấy sự cấp bách phải có một hệ thống thông tin tác nghiệp với đầy đủ chức năng, sẵn sàng cung cấp kịp thời chính xác các báo cáo, phân tích, cũng như nhận thức rõ các yếu tố này chỉ có thể thỏa mãn bởi một hệ thống thông tin quản trị hiện đại thì đó là thời điểm DN này thực sự muốn bắt đầu với ERP. Vấn đề còn lại là quyết tâm của lãnh đạo và sự lựa chọn sáng suốt giải pháp cũng như nhà triển khai.
Kinh nghiệm triển khaiERP được FPT triển khai trước tiên tới bộ phận kinh doanh. Những năm tiếp theo được áp dụng cho hệ thống sản xuất và lắp ráp máy tính FPT-Elead, các bộ phận QL như: quản trị nhân sự và tiền lương, QL cổ đông, QL hệ thống chất lượng, QL sản xuất dự án PM, QL bảo hành, QL đơn đặt hàng và giao nhận hàng xuất nhập khẩu. Cuối cùng FPT tự xây dựng một hệ thống báo cáo với hơn 400 báo cáo mẫu phục vụ công tác QL và hỗ trợ ra quyết định, triển khai cho cả tập đoàn gồm tổng công ty và các đơn vị thành viên.Áp dụng ERP rất giống áp dụng ISO trước đó, nhưng tầm ảnh hưởng của ERP lớn hơn nhiều. Hệ thống tác nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào máy tính, vào hệ thống thông tin và không thể làm tắt, làm sai. Ngoài ra, hệ thống ERP tự ghi nhận, tự đưa ra báo cáo, tự kiểm soát… để hỗ trợ việc QL mà không cần phải có một bộ phận chuyên trách theo dõi và QL như đối với ISO.
Hiệu quảTại FPT, ERP đã giúp cải thiện rất nhiều quá trình kiểm soát tài chính về hàng tồn (linh kiện lắp ráp), công nợ qua các chỉ tiêu, đồng thời cung cấp nhanh chóng và chính xác các đơn hàng và số liệu hạch toán. Quan trọng nhất là ERP hỗ trợ rất nhiều cho việc lập kế hoạch kinh doanh và ra quyết định.Một ví dụ cụ thể: sau khi áp dụng phân hệ QL sản xuất cho hệ thống sản xuất lắp ráp máy tính, tỷ lệ giao hàng đúng hạn trong 6 tháng đầu năm 2004 là 94,9% (tăng 18,5% so với năm 2003); số ngày trung bình tồn linh kiện lắp ráp là 43% (giảm 25% so với năm 2003).Việc áp dụng ERP trên thực tế đã có tác động sâu rộng tới bộ máy điều hành và từng đơn vị tác nghiệp của FPT. ERP đã làm thay đổi cách thức tác nghiệp, QL, tạo nên thói quen dùng số liệu để điều hành và ra quyết định ở tất cả các cấp trong công ty.Điểm cuối cùng liên quan đến thành công của ERP, theo ông Ngọc chính là vấn đề chọn đối tác. DN luôn trong trạng thái phát triển và để ERP có thể đồng hành mãi với DN thì giải pháp đã lựa chọn cần nhận được cam kết hỗ trợ lâu dài và luôn luôn cập nhật mới theo chuẩn thế giới của nhà cung cấp.
2. CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM – VINAMILKChiều 7/9/2007, tại TP.HCM, nhà triển khai Pythis đã cùng đơn vị ứng dụng Vinamilk tổ chức lễ bàn giao hệ thống thông tin hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) lớn nhất Việt Nam. Hệ thống ERP sử dụng giải pháp Oracle E Business Suite của Oracle do Pythis bắt đầu triển khai từ 15/3/2005 gồm các phân hệ chính là tài chính – kế toán, quản lý mua sắm – quản lý bán hàng, quản lý sản xuất và phân tích kết quả hoạt động (Business Intelligence – BI). Công việc chuyển giao công nghệ diễn ra trên toàn công ty cổ phần Sữa Việt Nam - Vinamilk với 13 địa điểm, bao gồm trụ sở chính tại TP.HCM, xí nghiệp kho vận và các chi nhánh, nhà máy trên toàn quốc. Các chuyên gia nhận định, hệ thống ERP của Vinamilk hiện thời có quy mô lớn nhất Việt Nam. Người thụ hưởng nói về hiệu quảHệ thống ERP tại Vinamilk đã được đưa vào sử dụng chính thức từ 1/1/2007. Theo bà Ngô Thị Thu Trang, phó tổng giám đốc Vinamilk, trưởng dự án (tiếp nhận giải pháp ERP), sau 8 tháng vận hành ERP trên toàn công ty, Vinamilk đã có thể sơ bộ kết luận về hiệu quả ứng dụng. Hệ thống giúp công ty thực hiện chặt chẽ, tránh được rủi ro trong công tác kế toán; với sự phân cấp, phân quyền rõ ràng, công tác tài chính – kế toán thuận lợi hơn nhiều so với trước đây. Các khâu quản lý kho hàng, phân phối, điều hành doanh nghiệp, quan hệ khách hàng và sản xuất đã được công ty quản lý tốt hơn, giảm đáng kể rủi ro; giữa bán hàng và phân phối có sự nhịp nhàng, uyển chuyển hơn; các chức năng theo dõi đều tiến hành theo thời gian thực.
Trình độ nhân viên CNTT tại Vinamilk đã được nâng cao hơn so với trước. Hạ tầng CNTT được kiện toàn, đồng bộ, chuẩn hoá và củng cố. Bà Trang cho biết, từ năm 2002 đến nay, Vinamilk đã đầu tư cho CNTT tổng cộng 4 triệu USD (trong đó có phần ERP) và khẳng định, nhờ có đầu tư sâu, rộng nên Vinamilk đủ sức tiếp thu các giải pháp lớn. Về cơ cấu tổ chức của công ty, ngoài việc nâng cao kiến thức của nhân viên, hệ thống đã đáp ứng tốt nhu cầu của người sử dụng. Việc quản lý trở nên tập trung, xuyên suốt, có sự thừa hưởng và kịp thời.
Bà Trang cũng cho biết, dự án đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhà triển khai Pythis, công ty tư vấn độc lập KPMG, nhà cung cấp giải pháp Oracle và đặc biệt là đã được tạo điều kiện tối đa từ ban lãnh đạo Vinamilk.Pythis đã làm thế nào?
Ông Nguyễn An Nhân, tổng giám đốc Pythis tâm sự: “Hệ thống phần mềm triển khai tại 13 địa điểm cách xa nhau. Giao diện phần mềm toàn bằng tiếng Anh, điều quan trọng là làm sao cho mọi nhân viên công ty sử dụng hiểu được để vận hành? Rồi thì, mọi thứ phải được
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng erp ở việt nam.doc