MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Phần A: Lý luận chung về khấu hao TSCĐ. 2
I. Những vấn đề chung về khấu hao TSCĐ. 2
1. Tài sản cố định và lí do trích khấu hao TSCĐ. 2
2. Bản chất của khấu hao. 2
3. Thời gian hữu dụng của TSCĐ. 3
4. Giá trị tận dụng. 4
5. Sử dụng TSCĐ đã khấu hao hết. 4
II. Các phương pháp khấu hao TSCĐ. 4
1. Phương pháp khấu hao đều 4
2. Phương pháp sản lượng. 5
3. Các phương pháp khấu hao nhanh 6
3.1. Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần 6
3.2. Phương pháp khấu hao theo tổng số các năm. 7
3.3. ảnh hưởng của khấu hao nhanh với thuế lợi tức 7
4. Lựa chọn phương pháp 8
III. Phương pháp hạch toán kế toán khấu hao TSCĐ. 8
1. Nguyên tắc hạch toán. 8
2. Phương pháp hạch toán 9
2.1. Tài khoản sử dụng 9
2.2. Phương pháp hạch toán 9
3. Tính và phân bổ khấu hao TSCĐ 10
IV.Ý nghĩa của việc trích khấu hao TSCĐ vào việc quản lí TSCĐ và bảo toàn vốn trong doanh nghiệp 12
1. Khấu hao và bảng Tổng kết tài sản 12
2. Khấu hao với việc bảo toàn vốn trong doanh nghiệp 12
3. Lưới chắn thuế của khấu hao 13
Phần B: thực trạng hạch toán KHTSCĐ trong các doanh nghiệp hiện nay và một số giải pháp thực hiện 14
I.Những kết quả tích cực trong việc thực hiện kế toán hạch toán KHTSCĐ 14
II. Những tồn tại trong việc hạch toán khấu hao TSCĐ- Các giải pháp 16
Kết luận 19
Tài liệu tham khảo 20
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hạch toán khấu hao tài sản cố định ở Việt Nam hiện nay - Một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u hao. Dovậy không cần phải ghi bút toán khấu hao nào naữa. Tuy vậy vì tài sản vẫn tồn tại và sử dụng, nên nó được lên Bảng cân đối như bình thường. Lúc đó khấu hao luỹ kế có thể bằng nguyên giá TSCĐ nếu khôngtính đến giá trị phế thải.
II. Các phương pháp khấu hao TSCĐ.
Có rất nhiều phương pháp phân bổ tổng mức khấu hao của TSCĐ cho một số kì kế toán trong thời gian hữu dụng đã được sử dụng trong thực tế.
Đó là các phương pháp: Phương pháp khấu hao đều.
Phương pháp khấu hao sản lượng.
Phương pháp khấu hao nhanh
1. Phương pháp khấu hao đều
Giả định quá trình khấu hao là một hàm số của thời gian. Như vậy, phí tổn khấu hao được hân bổ đồng đều cho mỗi năm trong thời hạn sử dụng TSCĐ. Có thể biểu diễn bằng công thức:
Chi phí khấu hao hàng năm
Nguyên giá - giá trị tận dụng
Số năm hữu ích
=
Tuy nhiên ta cũng có thể biểu hiệnthời gian sử dụng bằng tỷ lệ khấu hao thay cho số năm. Ta có:
Tỷ lệ khấu hao=1/Số năm sử dụng.100%
VD: Có một TSCĐ trị giá 10 triệu đồng. Thời gian ước tính là 9năm và giá trị tận dụng ước tính là 1triệu đồng thì ta tính được mức khấu hao hàng năm như sau:
Mức khấu hao năm=10-1/9=1 (tr. đ).
Ưu điểm của phương pháp khấu hao đều là dễ hiểu,đơn gỉan trong tính toán.
Nhược điểm: Phương pháp này chỉ phù hợp trong điều kiện tính chất hữu ích của TSCĐ, mức độ sử dụng TSCĐ, chi phí sửa chữa, bảo trì TSCĐ là như nhau giữa các kì kế toán. Điều này là phi thực tế bởi vì cường độ sử dụng một tài sản có thể rất không đồng đều và như vậy năng suất của nó cũng biến đổi. Nếu phân bổ chi phí khấu hao đồng đều là điều bất hợp lí. Hơn nữa , phương pháp này dẫn đến chi phí quá cao liên quan đến bảo dưỡng và khấu hao ở những năm cuối của thời gian sử dung một TSCĐ. Bởi vì ở những năm sau hiệu suất vận hành của tài sản giảm đi dẫn tới những chi phí lớn hơn về sửa chữa và bảo dưỡng và đối chiếu với lượng khấu hao không đổi, tổng chi phí vận hành sẽ tăng lên cao. Tức là phương pháp này sẽ không cân đối chi phí với hiệu quả vận hành một tài sản.
2. Phương pháp sản lượng.
Mức trích khấu
hao TSCĐ 1 đơn vị SPSX
Nguyên giá TSCĐ - Giá trị tận dụng
Số lượng sản phẩm ước tính
=
Mức trích
khấu hao
năm
=
*
Số lương sản phẩm sản xuất trong năm
Mức khấu hao một đơn vị sản phẩm
VD: Một xe tải có NG 135 triệu đồng, Giá trị tận dụng 10 triệu đồng. Thời gian hữu dụng của xe tải được biểu diễn bằng số km ước tính là 125000 km.
Ta có:
Mức KH cho 1 km=135-10/125=1tr/km
Nếu năm đầu xe tải chạy được 20km thì mức khấu hao của năm thứ nhất là:
20*1tr=20 (tr. đ)
Ưu điểm: Phương pháp này khắc phục được nhược điểm của phương pháp khấu hao bình quân. Giá của tài sản được phân bổ thành các khoản chi phí tỷ lệ thuận với mức độ sử dụng. Phươnng pháp này có thể được áp dụng khi ta ước lượng được khá chính xác tổng sản lượng vật chất do tài sản tạo ra trong thời hạn sử dụng tài sản đó và còn có thể được áp dụng trong các trường hợp liên quan đến kinh doanh phát triển một số loại tài nguyên thiên nhiên như ngành công nghiệp khai thác hoặc có thể áp dụng cho các loại phương tiện vận tải như ô tô, máy bay.
3. Các phương pháp khấu hao nhanh
Khấu hao nhanh là phương pháp khấu hao có các mức khấu hao rất lớn trong nhưng năm đầu của thời gian hữu dụng của TSCĐ và càng về những năm sau mức khấu hao càng giảm dần. Sở dĩ phương pháp khấu hao nhanh được đưa ra thực hiện là bởi: Thứ nhất là ở một số ngành kinh doanh, như ô tô, trong đó theo thời gian, các chi phí sửa chữa và bảo dưỡng tăng dần, cách tính khấu hao cao ở những năm đầu và thấp hơn ở những năm sau sẽ tạo ra được một khối lượng đồng đều các chi phí vận hành bao gồm khấu hao, bảo dưỡng và sửa chữa đối với từng năm của thời hạn sử dụng tài sản. Hai là, có những loại tài sản mà khả năng mang lại lợi ích của nó chắc chắn hơn ở những năm đầu so với những năm sau. Trong những trường hợp như vậy dự trữ khấu hao lớn ở những năm đầu có thể tạo ra một sự phân bổ tài sản hợp lí hơn. Các phương pháp khấu hao nhanh này cũng được rất nhiều doanh nghiệp sử dụng với mục đích khai nôp thuế thu nhập.
3.1. Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
Theo phương pháp này, một tỷ lệ cố định được áp dụng vào nguyên giá của tài sản (ở đây giá trị tận dụng không được tính đến) của năm thứ nhất để xác định chi phí khấu hao cho một thời hạn. ở các thời hạn tiếp theo, chi phí khấu hao được tính toán cùng dựa trên tỷ lệ như vậy cho phàn còn lại của tài sản. Có thể cụ thể cách tính các bước như sau:
Bước 1:Tính tỷ lệ khấu hao theo phương pháp trung bình của TSCĐ
Bước 2: Tính tỷ lệ khấu hao theo phương pháp giảm dần bằng cách nhân đôi tỷ lệ này
Bước 3: Vào cuối mỗi năm hữu dụng của TSCĐ, vận dụng tỷ lệ này cho giá trị còn lại của TSCĐ.
VD: Một TSCĐ có nguyên giá 20 triệu đồng, thời gian hữu dụng ước tính là 5 năm và giá trị tận dụng ước tính là 1 triệu đồng.
Ta có các bước tính khấu hao theo phương pháp này như sau:
B1: Tỷ lệ khấu hao hàng năm theo phương pháp trung bình là
100%/5=20%
B2: Nhân đôi tỷ lệ này
20%*2=40%
B3: Tính các mức kháu hao hàng năm theo bảng dưới đây:
Đvt: 1000000đ
Số thứ tự năm
Phần tính toán mức KH hàng năm
Chi phí KH hàng năm
Giá trị ghi sổ còn lại
1
2
3
4
5
40%*20
40%*12
40%*7.2
40%*4.32
40%*2.592
8
4.8
2.88
1.728
1.0368
12
7.2
4.32
2.592
1.552
Theo phương pháp này, giá trị ghi sổ của TSCĐ không bao giờ bằng 0. Do đó khi tài sản cố định được bán, trao đổi , tận thu, giá trị ghi sổ còn lại được sử dụng để xác định lãi hoặc lỗ của việc chuyển nhượng đó. Một TSCĐ có giá trị tận dụng thì nó không thể được khấu hao quá giá trị tận dụng. ở ví dụ trên mức khấu hao giới hạn cho năm thứ 6 sẽ là 555200 đ. Đây là số tiền được yêu cầu để làm giảm giá trị ghi sổ của TSCĐ tương ứng với giá trị tận dụng của nó.
3.2. Phương pháp khấu hao theo tổng số các năm.
Cũng như phương pháp cân đối giảm dần, phương pháp này dự tính các chi phí giảm dần trong thời hạn sử dụng của tài sản. Cách tính như sau:
Các số năm của thời gian hữu dụng của TSCĐ được cộng lại với nhau theo công thức
n*((n+1))/2.
Tổng này trở thành mẫu số của dãy các tỷ số, được dùng để phân bổ tổng mức khấu hao cho các năm trong thời gian hữu dụng của TSCĐTử số của tỷ số này là số thứ tự năm hữu dụng theo thứ tự ngược lại
VD: Vẫn ví dụ ở trên theo cách tính này.
Ta có: Tổng số năm của thời gian hữu dụng của TSCĐ là:
1+2+3+4+5=15
Có bảng tính mức khấu hao hàng năm như sau
Số thứ tự năm
Phần tính toán mức khấu hao hàng năm
Chi phí khấu hao hàng năm
1
2
3
4
5
5/15*19
4/15*19
3/15*19
2/15*19
1/15*19
60333
5.067
3.8
2.533
1.267
Ưu điểm của phương pháp này là dễ tính toán. Hơn nữa nhờ sử dụng phương pháp này ta có thể tránh được các vấn đề về giá trị dư thừa quá cao của tài sản mà không thể thu hồi được ở cuối đời sử dụng của nó. Đây là vấn đề ta phải gặp trong phương pháp cân đối giảm dần.
3.3. ảnh hưởng của khấu hao nhanh với thuế lợi tức
Khấu hao nhanh làm cho chi phí của khấu hao một tài sản trong những năm đầu sử dụng với tài sản. Chi phí khấu hao cao hơn và do vậy lợi tức chịu thuế cũng giảm, kết quả là số tiền thuế lợi tức trong những năm đầu sử dụng tài sản là ít hơn so với phương pháp khấu hao thông thường và vì thế nếu luật thuế lợi tức cho phép các công ty sử dụng phương pháp khấu hao nhanh sẽ có lợi. Mặc dù vào những năm cuối sử dụng tài sản chi phí khấu hao thấp hơn (nhưng tổng chi phí khấu hao trong toàn bộ đời tồn tại của tài sản là bằng nhau giữa các phương pháp), lợi ích tăng tương ứng, nhưng công ty phải nộp thuếu lợi tức tăng trong những năm sau của tài sản, điều đó theo khái niệm thời gian của tiền tệ thì công ty sẽ có lợi hơn.
4. Lựa chọn phương pháp
ở trên ta đã thấy rằng các phương pháp khấu hao khác nhau có nhằm mục đích là phân bổ giá của một tài sản cố định trong thời gian sử dụng nó theo phương pháp hệ thống và hợp lí. Tuy nhiên, mỗi một trong số các phương pháp đã nêu dựa trên các giả định khác nhau và cho ra các số liệu khác nhau về khấu hao . Do đó việc lựa chọn phương pháp khấu hao cho phù hợp với từng doanh nghiệp là điều quan trọng. Đó là phương pháp mà cho các thông tin thích đáng nhất cho công tác quản lí và nó phụ thuộc vào mục tiêu mà ta cần đạt được, có nghĩa là nó được xem xét trên các khía cạnh:
Thứ nhất, là xác định lợi nhuận ròng định kì và các điều kiện về tài chính. Một phương pháp khấu hao thích hợp cần phải phân bổ được giá của TSCĐ trong thời gian sử dụng sao cho có thể đạt được mức độ tưong xứng cao giữa chi phí khấu hao và lợi nhuận thu được. Nếu phương pháp khấu hao được chọn là khônng phù hợp thì kết quả việc xác định lợi nhuận sẽ không đúng đắn và tài sản thể hiện tronng bảng kết toán sẽ vượt quá hoặc ỏ dưới mức thực tế. Trên quan điểm báo cáo ngoại bộ, một công ty cần chọn phương pháp kháu hao dựa trên bản chất của công việc kinh doanh và của cá cloại tài sản kháu hao. Thực tế một công ty có thể sử dụng các phươnng pháp khấu hao khác nhau cho các loại tài sản khác nhau.
Một mục tiêu nữa mà việc trích khấu hao cần xem xét tới là yêu cầu về mặt quản lý. Nó liên quan đến nghĩa vụ thuế và dòng tiền bởi mục tiêu quản là gỉam thiểu số tiền thuế và tăng tối đa số tiét kiệm thuế. Do đó, việc lựa chọn phương pháp khấu hao phải dựa trên mục tiêu này để xem xét.
Tóm lại, phương pháp khấu hao phải thể hiện được lợi ích kinh tế mà tài sản đem lại cho doanh nghiệp. Nó phải được xem xét một cách định kì và nếu có sự thay đổi đáng kể thì cần có phương thức tính khấu hao mới để thể hiện sự thay đổi đó. Khi có những thay đổi như vậy tronng phương thức tính khấu hao thì sự thay đổi đó càn được coilà sự thay đổi tronng các ước lượng kế toán và mức khấu hao ước tính cho các kì hiện hành và tương lai cần phải dược thay đổi.
III. Phương pháp hạch toán kế toán khấu hao TSCĐ.
1. Nguyên tắc hạch toán.
Khấu hao TSCĐ là một phần giá trị của TSCĐ được tính chuyển vào chi phí sản xuất kinh doanh nên moọt mặt nó làm tănng giá trịhao mòn , mặt khác nó làm tănng chi phí sản xuát kinh doanh.
Khấu hao TSCĐ được tính ngày 1 hàng tháng để phân bổ vào chi phí của các đối tượng sử dụng. Mức khấu hao hàng tháng được xác định theo công thức:
Số khấu hao TSCĐ phải trích trong tháng
Số khấu hao đã trích tháng trước
Số khấu hao tăng trong tháng
Số khấu hao giảm trong tháng
=
+
_
Mức khấu hao tăng giảm đươc xác định theo nguyên tắc tròn tháng. TSCĐ tăng trong tháng này thì tháng sau mới bắt đầu tính khấu hao, còn TSCĐ giảm tronng tháng náy thì tháng sau mới thôi không trích khấu hao
2. Phương pháp hạch toán
2.1. Tài khoản sử dụng
TK214"Hao mòn TSCĐ": Dùng để phản ánh giá trị hao mòn của các TSCĐ trong doanh nghiệp
Bên Nợ : Giá trị hao mòn TSCĐ giảm do các lid do giảm TSCĐ( thanh lý, nhượng bán, điều chuyển đi nơi khác...)
Bên Có : Giá trị hao mòn TSCĐ tăng do trích khấu hao TSCĐ, do đánh giá lại TSCĐ hoặc do diều chuyển TSCĐ đã có hao mòn giũa các đơn vị thành viên của công ty
Số Dư bên Có: Giá trị hao mòn hiện có ở đơn vị
TK214 có 3 tiểu khoản:
TK2141: Hao mòn TSCĐ hữu hình
TK2142: Hao mòn TSCĐ thuê tài chình
TK2143: Hao mòn tSCĐ vô hình
TK 009 "Nguồn vốn khấu hao cơ bản" : Tài khoản này phản ánh theo phương pháp ghi đơn và có kết cấu như sau:
Bên Nợ : Số khấu hao đã trích và tăng thêm từ nguồn khác
Bên Có : Số khấu hao giảm xuống do nộp , trả nợ, sử dụng tại đơn vị
Dư Nợ : Số khấu hao hiện còn
2.2. Phương pháp hạch toán
Hàng tháng trích khấu hao TSCĐ
Nợ TK6274,6414, 6424
Có TK 214 (Hạch toán chi tiết)
Đồng thời ghi Nợ TK 009
Khi nộp số khấu hao cho ngân sáh hoặc cấp tren (nếu có)
Nợ TK 411: Ghi giảm nguồn vốn kinh doanh nếu không được hoàn lại
Nợ TK 1368: Ghi tăng khoản phải thu nội bộ nếu được hoàn lại
Có TK 336: Số khấu hao phải nộp cấp trên
Đồng thời ghi Có TK 009
Đối với TSCĐ đi thuê tài chính khi hết hạn thuê phải trả cho bên cho thuê mà vẫn chư trích đủ khấu hao thì giá trị còn lại của TSCĐ thuê ngoài phải tính vào chi chờ phân bổ (nếu giá trị còn laị lớn) hoặc phân bổ hết vào chi phí kinh doanh trong kì (nếu giá trị còn lại nhỏ)
Nợ TK 2142: Giá trị hao mòn luỹ kế
Nợ TK1421: Giá trị còn lại
Có TK 212: NGTSCĐ thuê tài chính
TSCĐ đánh giá lại theo quyết định của nhà nước
TH đánh giá tăng NGTSCĐ
Nợ TK 211
Có TK 412: Chênh lệch đánh giá lại tài sản (phần giá trị còn lại tăng lên)
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ (phần hao mòn tăng thêm)
Nếu có điều chỉnh tăng mức hao mòn
Nợ TK 412:
Có TK214
Điều chỉnh giảm giá trị hao mòn
Nợ TK 214
Có TK 412
Trường hợp đánh giá giảm NGTSCĐ
Nợ TK412
Nợ TK 214
Có TK211
Các trường hợp giảm TSCĐ thì đồng thời với việc phản ánh NGTSCĐ phải phản ánh giảm giá trị đã hao mòn của TSCĐ
Tuy nhiên, ta thấy có sự khác biệt giữa hạch toán khấu hao TSCĐVH giữa Việt Nam và các nước khác. ở Việt Nam trích KH hoàn toàn như trên trong khi đó Chuẩn mực kế toán Quôcd tế và một số nước Hạch toán khấu hao TSCĐ được ghi Có trực tiếp vào TK đó.
3. Tính và phân bổ khấu hao TSCĐ
Hàng tháng kế toán phải tiến hành trich khấu hao TSCĐ và đưa vào chi phí sản xuất kinh doanh và phân bổ chi phí khấu hao cho từng đối tượng sủ dụng TSCĐ
Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ
STT
Chỉ tiêu
Tỷ lệ khấu hao % số năm sử dụng
Nơi sử dụng
Toàn DN
TK 627 "Chi phí SXC"
TK 641 "CPBH"
TK 642 "CPQLDN"
TK 421 "CPXDCB"
TK142 "CP trả trước"
TK 335 "CP phải trả"
TK 811
NG TSCĐ
Số KH
FX(SP)
FX(SP)
FX(SP)
...
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
I- Số KH TSCĐ đã trích tháng trước
.........
II- Số KHTSCĐ tăng trong tháng
.....
III- Số KHTSCĐ giảm trong tháng
.....
IV- Số KHTSCĐ phải trích tháng này (IV= I+II-III)
IV. ý nghĩa của việc trích khấu hao TSCĐ vào việc quản lí TSCĐ và bảo toàn vốn trong doanh nghiệp
1. Khấu hao và bảng Tổng kết tài sản
Khi trình bày thông tin về TSCĐ của doanh nghiệp, nguyên tắc công khai toàn bộ đòi hổi phải cho một sự mô tả chung về phương pháp khấu hao được sử dụng. Điều này được ghi trong ơhần chú thích. Và các Báo cáo tài chính sẽ có thông tin nhiều hơn nếu nêu cả giá trị và mức khấu hao tích luỹ của TSCĐ. Do đó người xem bảng Tổng kết tài sản sẽ hiểu rõ hơn là chỉ có thông tin về giá trị còn lại của tài sản. Cần ghi nhớ là TSCĐ được báo cáo trên Bảng TKTS theo giá trị còn lại của chúng chứ không theo giá trị thị trường. Bởi vì TSCĐ được giữ để sử dụng chứ không phải để bán và các BCTC dựa trên khái niệm kinh doanh liên tục. Điều này có nghĩa là công ty dự kiến tiếp tục kinh doanh lâu dài đủ để thu hồi lại chi phí ban đầu của TSCĐ thông qua việc tiêu thụ sản phảm. Do đó, TSCĐ được đưa vào bảng TKTS theo phần chi phí áp dụng trong các kì tương lai của chúng.
Không nên làm lẫn là mức khấu hao tích luỹ trên bảng TKTS phản ánh vốn tích luỹ để mua TSCĐ mới khi TSCĐ hiện có phải được thay thế. Các TK khấu hao luỹ kế là các TK đối xứng với các ssố dư có không thể được sử dụng để mua bất kí cái gì. Nếu một doanh nghiệ có tiền dể mua TSCĐ thì số tièn này được phản ánh trên Bảng TKTS như một khoản mục tài sản hiện hành" Tiền mặt" chứ không như một khoản khấu hao luỹ kế
2. Khấu hao với việc bảo toàn vốn trong doanh nghiệp
Xét trên góc độ tài chính, khấu hao sẽ làm giảm giá trị thực của TSCĐ nhưngn lại làm tăng giá trị của một tài sản khác một cách tương ứng (tiền mặt, tiền ngân hàng) . Điều này chô phép doanh nghiệp có thể mua lại TSCĐ khi đã khấu hao đủ. Như vậy, khấu hao là một phương tiện của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đảm bảo đủ nguồn vốn để tái tạo TSCĐ và trả nợ vay.
Thậm chí trong trường hợp chỉ đủ hoà vốn doanh nghiệp cũng có thể bù đắp được chi phí ban đầu
Ví dụ: Báo cáo thu nhập của một công ty như sau: (Đvt: 1 tr. đ)
Doanh thu 100000
Chi phí bán hàng 60000
Chi phí thuê nhà 10000
Tiền lương 25000
Chi phí kháu hao 5000
Thu nhập thuần 0
Như vậy, khi doanh nghiệp kinh doanh không lãi, không lỗ doanh nghiệp cũng thu hồi được một khoản 5000 chi phí của TSCĐ thông qua viẹc tiêu thụ sản phẩm. Sở dĩ như vậy bởi vì trong 100000tr này công ty chỉ chi ra 95000 tr chi phí còn không có đồng nào được chi cho 5000 chi phí khấu hao. Và kết quả là doanh nghiệp thu hồi được 5000 tr. cứ như vậy công ty sẽ tiếp tục thu hồi ch i phí của TSCĐ cho đến khi thu hồi được toàn bộ
Trong một số trưòng hợp, lợi ích kinh tế do tài sản tạo ra đã được doanh nghiệp khai thác và tạo ra các tài sản khác chứ không làm tăng chi phí. Khi đó khấu hao của TSCĐ sẽ trỏ thành một yếu tố tronng giá trị của tài sản khác và bao gồm trong giá trị kế toán của chúng. Thí dụ, khấu hao nhà xưởng máy móc và thiết bị dùng cho xây dựng và phát triển sẽ được vốn hoá vào giá trị tài sản dang phát triển.
3. Lưới chắn thuế của khấu hao
Tuy khấu hao không gắn với dòng tiền mặt nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến số lượng của các loại thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải chịu. Chúng ta biết rằng, các mức khấu hao có bản chất không là các dòng chi tiền mặt, nhưng chu ngs cũng được khấu trừ khi tính mức thu nhập chịu thuế. Thật vậy, các mức khấu hao che đậy các nguồn thu không phải chịu thuế. Do đó , chi phí kháu hao cũng được xem như lưới chắn thuế của thu nhập.
Mức giảm chi phí do lưới chắn thuế mà khấu hao mang lại sẽ luôn bằng với lượng chi phí kháu hao thực hiện nhân với thuế suất
Hơn nữa, một ý nghĩa khác của khấu hao trong góc đọ này là việc tạo ra các nguồn luạc bổ sung. Việc khấu hao nhanh và trả thuế chậm làm cho ta có thể sử dụng các nguồn lực bổ sung trong một thời hạn dài hơn nữa bởi vì việc đóng thuế được giãn ra.
Tóm lại, việc xác định đúng đắn số khấu hao phải tính và phân bổ phù hợp vào các đối tượng sử dụng TSCĐ vuừa đảm bảo có đủ nguồn vốn đẻ tái tạo TSCĐ, trả nợ vay...vừa bảo đảm hạch toán đúng đắn chi phí sản xuất kinh doanh đẻ tính đúng giá thành sản phẩm và kềt quả kinh doanh
Phần B: thực trạng hạch toán KHTSCĐ trong các doanh nghiệp hiện nay và một số giải pháp thực hiện
I. Những kết quả tích cực trong việc thực hiện kế toán hạch toán KHTSCĐ
Thực tế cho thấy Chuẩn mực Kế toán Việt Nam đang ngày càng gần với chuẩn mực và thônng lệ Kế toán Quốc tế, tạo ra sự hoà nhập , công nhận của Quốc tế đối vớ Kế toán Việt Nam, đồng thời thoả mãn và phù hợp với đặc diểm nền kinh tế thị trường tại Việt Nam
Thật vậy, trước đây theo thông tư số 1062/TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996 và thông tư số166/1999/QĐ- BTC ngày 30/12/1999 đều quy đinhhj: múc trích khấu hao hàng năm bằng nguyên giá TSCĐ chia cho thời gian hữu ích của TSCĐ. Nhưng ta biết rằng, TSCĐ dù có cũ, lạc hậu, hư hỏng đến đâu thì vẫn còn là một lượng cố định có thể thu hồi được, kể cả trong trường hợp 100% hình thái vật chất của tài sản được thu hồi dưới dạng phế liệu. thế nhưng theo công thức trên mức trích khấu hao lại không đưa giá trị thu hồi vào. Điều này là chưa phù hợ p bỏi vì: Trên tyhực tế có rất nhiều TSCĐ khi thanh lí sẽ thu hồi được với số tiền lớn. nếu không tính đến giá trị thu hồi có nghĩa là ta đã gián tiếp làm ch mức khấu hao được hạch toans vào chi phí sản xuất cao hơn thực tế. Giá trị thu hồi là cái vốn có của TSCĐ, việc sử dụng giá trị thu hồi sẽ làm cho TSCĐ không bao giờ được phép khấu hao hết nguyên giá. Điều đó có tác dụng tăng cường trách nhiệm quản lý của doanh nghiệp đối với TSCĐ đồng thời nếu có hiện tượng mất mát, làm hư hỏng TSCĐ do các yếu tố chủ quan của con người thì sẽ dễ dàng cho việc xác định mức bồi thường. Hơn nữa, việc sử dụng chỉ tiêu giá trị thu hồi còn có tác dụng trợ giúp đắc lực cho quản trị tài chính khi tiến hành thanh lý TSCĐ, giúp ta xác định số lãi (lỗ) bất thường hợp lý hơn. Đồng thời theo Chuẩn mực Kế toán Quốc tế Và chế độ Kế toán của các nướctiên tiến như mỹ, người ta vẫn đưa giá trị thu hồi vào cong thức tính khấu hao, ngay cả khi sử dụng phương pháp khấu hao nhanhhay phương pháp khấu hao theo sản lượng thì giá tri thu hồi được coi là một chỉ tiêu giới hạn để khống chế tổng mức khấu hao luỹ kế của TSCĐ. Theo đó Chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo QĐ149/2001/QĐ- BTCngày 31/12/2001 đã đưa giá trị thu hồi vào việc xác định giá trị phải khấu hao nhằm khắc phục những hạn chế trên.
Đối với việc xác định thời gian hữu ích của TSCĐ, QĐ1062-TC/CSTC ngày 14/11/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài chính cho phép các doanh nghiệp tự đăng kí mức trích khấu hao trong khung quy định trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh với cơ quan quản lí vốn và tài sản nhà nứoc tại doanh nghiệp và cơ quan thuế địa phương trong thời hạn 3 năm. Cho đến khi ban hành QĐ số 166 thì điều này đã được sửa đổi như sau: Cho phép các doanh nghiệp tự xác định thời gian hữu ích trên cở các yếu tố về công suất, sản lượng ước tính , giá trị hao mòn do làm việc ... Từ đó tính toán mức khấu hao phù hợp. Điều này là hợp lý hơn không những bởi nó thống nhất với thế giới mà còn được thực tế chứng minh: Các doanh ngghiệp tất nhiên phải đặt ra chỉ tiêu kế hoạch nhưng khi thực hiện lại là một vấn đề, nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đó việc đăng kí mức trích khấu hao trên cơ sở kế hoạch sản xuất chỉ là chỉ tiêu phấn đấu. và nếu như doanh nghiệp phải trích đúng mức khấu hao đã đăng kí thì có thể dẫn tới tình trạng bị lỗ do có thể trích cả những TSCĐ chưa được sử dụng. Hay trường hợp doanh nghiệp kinh doanh lãi nhưng trong đó có cả phần lãi do không trích khấu hao giá trị sản lượng thực tế. Điều này không phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là lời giả lỗ thật. Điều này đặc biệt thấy ở các doanh nghiệp xây lắp. Như vậy , để các doanh tự xác định thời gian sử dụng và mức khấu hao cho phù hợp là hợp lý và khoa học.
Về phương pháp tính khấu hao, trước đây kế toán Việt Nam chỉ qui định tính khấu hao theo phương pháp đuuờng thẳng, trong khi đó các nước trên trế giới đã áp dụng nhiều phưong pháp, và thực tế cũng gặp phải một số vấn đề như: TSCĐ trong doanh nghiệp có nhiều loại, nhiều nhóm khác nhau, công dụng của mỗi tài sản cũng khác nhau, mức độ suy giảm giá trị khác nhau... đồng thời , theo nguyên tắc phù hợp của kế toán thu nhập phải phù hợp với chi phí. và khấu hao là một yếu tố chi phí có liên quan đến thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu quy định các doanh nghiệp phải khấu hao theo phueoeng pháp đường thẳng đẻ đảm bảo số liệu tính thuế đúng đắn, khi thực hiện đã có sự đồng nhất giữa kế toán thuế và kế toán doanh nghiệp trong khi hệ thống kế toán doanh nghiệp không đồng nhất với hệ thống kế toán thuế. Do đó, Chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo QĐ149 năm 2001 đã bổ sung các phương pháp khấu hao nhanh và doanh nghiệp được lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp với từng tài sản nhằm mục đích thu đưọc lợi ích kinh tế trong quá trình sử dụng.
Đối với TSCĐVH, ở nước ta trước những năm đầu của thập kỷ 90 còn rất mơ hồ và hầu như không được biết đến, người ta chỉ biết đén một loại tài sản duy nhất là TSCĐHH. Mặc dù TSCĐVH dã được đề cập đến tronng chế độ kế toán ban hành năm1995 nhưng lúc đó nó vãn còn là vấn đề khá mới mẻ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó việc trich KHTSCĐVH còn nhiều khác biệt so với thế giới. Tuy nhiên , cho đến nay, những quy định về việc trích KHTSCĐVH cũng đã khá hoàn thiện và thống nhất với thế giới.
Tuy nhiên , trong quá trình thực hiện khấu hao TSCĐ cũng tồn tại môt số vấn đề bất cập. để khắc phục tình trạng đó và góp phần xây dựng Hệ thống chuẩn mực Kế toán Việt Nam vừa được công nhận của thế giới đồng thời lại phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của Việt Nam, chúng ta cần chú ý những vấn đề sau:
II. Những tồn tại trong việc hạch toán khấu hao TSCĐ- Các giải pháp
Thứ nhất, một ý nghĩa quan trọng của khấu hao đó là cônng cụ bảo hộ thuế dựa trên cơ sở các phương pháp khấu hao nhanh. Luật thuế cho phép sử dụng các phương pháp này để lập Bảng kê khai nộp thuế thu nhập. Vì chúng được sử dụng để nhằm mục đích tính thuế như vậy nên nhiều doanh nghiệp cũng sử dụng chúng trong sổ sách kế toán của họ. Điều này một mặt nó làm cho quá trình ghi sổ sách được dễ dàng, đem lại các nguồn lợi về thuế và tạo ra các nguồn thuế bổ sung cho công ty, mặt khác nó lại gay nê tình tranngj gian lận trong việc khai báo thuế, trốn thuế thu nhập bằng cách; doanh nghiệp có thể khai báo tănng chi phí khấu hao, do đó làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận. Từ đó mức thuế phải nộp được giảm theomức kháu hao tăng lên. Điều này gây nên mâu thuẫn giữa kế toán thuế và kế toán doanh nghiệp và gây tổn thất đối với các cơ quan chức năng nhà nước, ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội. Không những thế từ những vấn đề này, có thể tạo nên tình trạng tham nhũng, gian lận tại nội bộ doanh nghiệp, ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh, rồi uy tín, thanh danh của doanh nghiệp
Như vậy vấn đề đặt ra là cần giải quyết giữa yêu cầu báo cáo giữa cơ quan thuế và sự trình bày trung thực hợp lý tình hình hoạt động của doanh nghiệp theo quan điểm của kế toán. Mục tiêu của cơ quan thuế là chống các hành vi trốn thuế bằng thủ thuạt ghi giảm lợi tức trong kỳ của donh nghiệp, quan điểm của ké toán luôn thận trọngviệc xác định kết quả hoạt đọng kinh doanh của doanh nghệp, nghĩa là luôn cảnh giác việc tăng khống doanh thu, giảm khống lợi tức. Mâu thuẫn này luôn tồn tại giữa báo cáo quyết toán thuế và báo cáo tài chính của doanh nghiệp, càng dễ trở nên khó giải quyết trong khi tình hình Việt Nam hiện nay hai báo cáo này là một. Do đó gây nên nhiều khó khăn phức tạp cho các doannh nghiệp. Để tìm ra sự thống nhất và hợp lý đồng thời khắc phục những khó khăn yếu kém trong kinh doanh do tình trạng trên c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35317.doc