Đề tài Thực trạng hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp phường trong giai đoạn hiện nay ( qua khảo sát tại quận Ba Đình - TP Hà Nội )

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài 4

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 6

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6

Đối tượng và khách thể nghiên cứu 7

Phạm vi nghiên cứu 7

Giả thuyết nghiên cứu 8

Phương pháp nghiên cứu 8

PHẦN CƠ SỞ LÝ LUẬN

I.Hệ khái niệm

1. Khái niệm quản lý và quản lý nhà nước 10

2. Khái niệm hiệu quả quản lý nhà nước 13

3. Khái niệm phường và chính quyền cấp phường 14

4. Khái niệm cán bộ, công chức 18

II. Các hướng tiếp cận lý thuyết

1. Lý thuyết hệ thống 19

2. Lý thuyết cơ cấu chức năng 22

3. Lý thuyết tương tác xã hội 22

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

I. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 24

II. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp phường 26

 

III. Thực trạng hoạt động quản lý của chính quyền cấp phường 40

IV. Đánh giá của quần chúng nhân dân về hoạt động của chính quyền cấp phường 64

V. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của chính quyền cấp phường hiện nay 87

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận 95

2. Khuyến nghị 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO 99

PHẦN PHỤ LỤC 100

 

 

 

 

doc109 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10907 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp phường trong giai đoạn hiện nay ( qua khảo sát tại quận Ba Đình - TP Hà Nội ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ta thấy rằng số lao động không có việc làm trên địa bàn các phường của quận Ba Đình đã có những thay đổi nhất định trong các năm từ 1996 đến 2000. Trong 4 năm đầu số lượng lao động không có việc làm tại các phường đã giảm dần. Đó là một dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, đến năm 2000 số lượng này lại tăng đáng kể, đạt gần bằng con số cũ của năm 1996, điều này thể hiện một sự sa sút của chính quyền cấp phường trong hoạt động quản lý lĩnh vực này. Đối với số lao động được giải quyết việc làm, tình hình cũng diễn ra gần tương tự. Trong hai năm 1998, 1999 số lao động được giải quyết việc làm của các phường đã tăng hơn những năm trước. Nhưng năm 1997 con số này lại nhỏ hơn năm 1996 và năm 2000 lại nhỏ hơn tất cả các năm trước. Rõ ràng đây cũng là một dấu hiệu nói lên sự thụt lùi của chính quyền cấp phường trong hiệu quả quản lý trên lĩnh vực lao động và việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta hiện nay còn đang ở mức cao, đặc biệt là ở đô thị với tỷ lệ là trên 6 %, đô thị lớn như Hà Nội có thể lên tới 7 - 8 % . Do vậy, vai trò của chính quyền cơ sở ở đô thị trong lĩnh vực giải quyết việc làm cho người lao động là rất cần được phát huy, tuy nhiên, như chúng ta thấy qua những số liệu nêu trên, hiệu quả hoạt động của chính quyền phường trong lĩnh vực này hiện nay còn rất hạn chế và chưa có dấu hiệu tiến triển tốt. Bảng 6 : Tình hình lao động công ích của các phường thuộc quận Ba Đình từ năm 1996 - 2000 ( Đơn vị tính : ngày công ) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Số ngày công 8258 7796 8816 14406 6175 ( Nguồn : Tổng hợp từ Báo cáo tình hình lao động công ích các phường thuộc quận Ba Đình giai đoạn 1996 – 2000 ) Lao động công ích, đúng như tên gọi của nó, là hình thức lao động phục vụ cho lợi ích công. Hình thức lao động này là bắt buộc đối với công dân từ 18 tuổi đến 35 tuổi ( đối với nữ ), 45 tuổi ( đối với nam ) và do chính quyền cấp phường quản lý việc thực hiện. Bảng trên cho thấy số ngày công trong hoạt động lao động công ích của các phường trong quận Ba Đình qua các năm từ 1996 - 2000 là không ổn định, không đồng đều. Cụ thể là trong hai năm 1998,1999 thì số ngày công tăng nhiều so với các năm trước còn hai năm 1997, 2000 thì ngược lại, đặc biệt là năm 2000 số ngày công lao động công ích ít hơn hẳn so với tất cả các năm trước. Điều này cũng tương tự như trong bảng về tình hình lao động và công tác giải quyết việc làm của các phường. Như vậy là công tác quản lý của phường đối với hoạt động lao động công ích cũng chưa thực sự có hiệu quả, còn nhiều bấp bênh và có dấu hiệu đi xuống. Như đã trình bày, nhiệm vụ quản lý các vấn đề xã hội của chính quyền phường còn bao gồm công tác chăm lo chính sách bảo trợ xã hội đối với những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt và các nhóm xã hội yếu. Những gia đình nghèo hay thuộc diện khó khăn là một trong những nhóm xã hội yếu mà chính quyền phường cần quan tâm giúp đỡ bởi xoá đói, giảm nghèo hiện nay đang là vấn đề cấp bách của toàn xã hội, kể cả các vùng đô thị phát triển chứ không chỉ riêng gì các vùng nông thôn. Những số liệu về tình hình giảm hộ nghèo trong các phường cũng phần nào nói lên năng lực quản lý của chính quyền phường trong lĩnh vực này. Bảng 7 : Tình hình giảm hộ nghèo tại các phường thuộc quận Ba Đình trong các năm 1996 - 2000 ( Đơn vị tính : hộ ) STT Tên phường Năm 1996 1997 1998 1999 2000 1 Ngọc Khánh 07 16 14 18 15 2 Kim Mã 05 17 16 04 03 3 Giảng Võ 04 13 15 10 06 4 Thành Công 08 21 32 48 09 5 Điện Biên 03 14 16 23 07 6 N. Trung Trực 06 15 27 33 12 7 Phúc Xá 07 19 18 16 04 8 Trúc Bạch 04 11 12 54 05 9 Ngọc Hà 05 12 40 57 17 10 Quán Thánh 04 10 29 26 16 11 Đội Cấn 06 15 34 40 16 12 Cống Vị 09 21 61 52 42 Tổng cộng 68 184 341 381 152 ( Nguồn : Tổng hợp từ Báo cáo tình hình công tác xoá đói giảm nghèo của các phường thuộc quận Ba Đình giai đoạn 1996 – 2000 ) Bảng 7 cho chúng ta thấy từ năm 1996 cho đến nay tình hình giảm hộ nghèo trên địa bàn các phường của quận Ba Đình luôn đạt được những kết quả nhất định, đặc biệt là trong ba năm 1997,98,99 số hộ nghèo trong các phường đều giảm đáng kể so với các năm trước. Đây là những con số nói lên sự phát triển đáng khích lệ về kinh tế - xã hội của phường mà trong đó có sự đóng góp to lớn của chính quyền phường. Tuy nhiên, năm 2000 lại là năm thụt lùi của công tác giảm hộ nghèo, số lượng hộ nghèo được cải thiện đời sống đã giảm chỉ còn chưa được một nửa so với năm 1999. Nói tóm lại, trong công tác quản lý các vấn đề xã hội, đối với mảng phòng chống tệ nạn xã hội, vai trò của chính quyền phường còn hạn chế và bản thân việc thực hiện vai trò đó cũng còn nhiều bất cập, chính quyền phường chưa đi sâu, đi sát nắm vững kịp thời những diễn biến phức tạp, mặt trái của xã hội đang hàng ngày hàng giờ nảy sinh trên địa bàn, nhất là các hoạt động ma tuý, mại dâm, tội phạm....., chưa phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng để làm tốt công tác phòng chống tệ nạn xã hội, chưa phát động được quần chúng nhân dân trong phường có thái độ kiên quyết bài trừ các hoạt động tiêu cực đó ra khỏi đời sống xã hội ở địa phương. Đối với mảng chính sách và công tác xã hội, chính quyền phường đã hoạt động tích cực và thu được những hiệu quả nhất định, góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương và cải thiện đời sống nhân dân, tuy nhiên hiệu quả của công tác này vẫn chưa thật sự cao và có dấu hiệu giảm sút trong những năm gần đây. 3. Quản lý công tác văn hoá, giáo dục, y tế Trên cơ sở nhiệm vụ đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhà nước giao chính quyền phường thực hiện công tác quản lý văn hoá, giáo dục, y tế trên địa bàn. Thực tế hoạt động của chính quyền phường trong lĩnh vực này bao gồm những nhiệm vụ sau : Về văn hoá, phường xây dựng kế hoạch phối hợp với các đoàn thể vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá; phối hợp với các ngành các cấp giữ gìn danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử tại phường, kiểm tra, giám sát các hoạt động, dịch vụ văn hoá trên địa bàn Về giáo dục, phường phối hợp với quận chăm sóc và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, chủ yếu là củng cố và phát triển giáo dục mầm non, hoàn thành cơ bản phổ cập giáo dục tiểu học. Về y tế, phối hợp với các cơ quan y tế cùng cấp và cấp ttrên để tiến hành các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Đối với các lĩnh vực quản lý nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng về cơ bản hoạt động của chính quyền phường chỉ là phối hợp với cấp trên hoặc các ngành dọc, các con số nói lên kết quả hoạt động của chính quyền phường thực chất cũng là kết quả của cả quận, do đó sẽ không có những chỉ tiêu rõ ràng cho sự đánh giá hiệu quả hoạt động của chính quyền phường trong lĩnh vực quản lý này. Tuy nhiên, đề tài vẫn đưa ra một vài số liệu chung cho thấy thực trạng hoạt động của chính quyền phường trong những lĩnh vực này giai đoạn hiện nay. Bảng 8 : Tình hình trẻ đến trường ở các cấp học quận Ba Đình ( Đơn vị : % ) STT Tiêu chí Năm 1995 1999 2000 1 Tỷ lệ trẻ đi nhà trẻ 19 20 23 2 Tỷ lệ trẻ đi mẫu giáo 60 75 78 3 Tỷ lệ trẻ 6 tuổi vào lớp 1 100 100 100 4 Tỷ lệ trẻ 6 – 14 tuổi đi học 99,95 99,99 100 ( Nguồn : Báo cáo công tác giáo dục quận Ba Đình năm 2000 ) Với vai trò chủ yếu là vận động tuyên truyền trong công tác giáo dục, chính quyền các phường thuộc quận Ba Đình đã đóng góp đáng kể vào việc thực hiện tốt chỉ tiêu giáo dục của toàn quận. Bảng trên cho thấy một tình hình khá khả quan trong công tác quản lý giáo dục của quận Ba Đình nói chung và các phường trên địa bàn quận nói riêng. Tỷ lệ trẻ em đến trường ở các cấp học đều tăng trong các năm gần đây. Đặc biệt con số tỷ lệ trẻ 6 – 14 tuổi đến trường luôn rất cao và đến năm 2000 đã đạt con số tuyệt đối là một dấu hiệu hết sức đáng mừng, điều này cho thấy các phường và quận Ba Đình đã và đang thực hiện tốt chương trình phổ cập giáo dục tiểu học, tiến tới phổ cập giáo dục trung học cơ sở theo chỉ thị của Chính phủ. Trình độ học vấn của trẻ em thể hiện chất lượng nguồn dân số lao động trong tương lai, do đó việc tập trung và làm tốt công tác giáo dục đối với đối tượng là trẻ em trong độ tuổi đi học trên địa bàn phường của các phường thuộc quận Ba Đình là một chiến lược giáo dục đúng đắn, đem lại những hiệu quả nhất định cho công tác giáo dục chung của toàn quận cũng như thành phố. Bảng 9 : Kết quả công tác KHHGĐ quận Ba Đình 1996 – 2000 ( Đơn vị : % ) STT Năm Giảm tỷ lệ sinh Tỷ lệ sinh con thứ ba Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch Thực hiện 1 1996 0,03 0,09 3 1,48 2 1997 0,03 0,01 3 1,49 3 1998 0,03 0,06 2,4 1,47 4 1999 0,03 0,04 1,47 1,28 5 2000 0,2 0,03 0 0,98 ( Nguồn : Báo cáo công tác KHHGĐ quận Ba Đình 1996 – 2000 ) Đối với công tác y tế, như đã trình bày, chính quyền phường cũng chỉ có vai trò phối hợp và chủ yếu là thực hiện tuyên truyền vận động các chủ trương, quyết định của cấp trên. Việc thực hiện công tác KHHGĐ là một nội dung hết sức quan trọng của công tác y tế cả nước, là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước. Đối với công tác này, một trong những giải pháp cơ bản là thực hiện tuyên truyền, giáo dục trong đó vai trò giáo dục, tuyên truyền vận động của chính quyền cơ sở được xem là rất phát huy hiệu quả. Vai trò của chính quyền cấp cơ sở ( cụ thể ở đây là cấp phường ) trong công tác DS - KHHGĐ là việc đưa nội dung thông tin tuyên truyền và các chương trình, kế hoạch hoạt động về DS - KHHGĐ vào các chương trình phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội ở cơ sở và phối hợp tổ chức các dịch vụ KHHGĐ cũng như thực hiện các chính sách, chế độ DS - KHHGĐ của nhà nước. Bảng 9 đã cho thấy những kết quả cụ thể của công tác KHHGĐ quận Ba Đình với sự phối hợp của chính quyền các phường trực thuộc. Có thể thấy đối với nhiệm vụ giảm tỷ lệ sinh cũng như tỷ lệ sinh con thứ ba cho phép, hầu như quận Ba Đình luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch thành phố giao. Tuy nhiên, cũng có một số năm quận chưa đạt được những chỉ tiêu này,cđặc biệt là năm 2000, cả hai kế hoạch đều không được thực hiện tốt. Điều đó có nghĩa là dường như vai trò quản lý của chính quyền phường trong lĩnh vực y tế nói chung và công tác DS - KHHGĐ nói riêng đang giảm sút trong những năm gần đây. Như đã trình bày, vai trò của chính quyền phường trong công tác quản lý văn hoá, y tế, giáo dục rất hạn chế và ít có những con số định lượng cụ thể để ta có thể đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động của chính quyền phường. Do đó, cũng như trong lĩnh vực kinh tế, ta không thể có những kết luận cụ thể về hoạt động của chính quyền phường trong những lĩnh vực này. 4. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo Là chính quyền cơ sở hàng ngày tiếp xúc với dân, những thắc mắc, khiếu kiện của người dân đều được phản ánh với chính quyền phường sở tại. Công tác tư pháp, giải quyết khiếu nại, tố cáo của chính quyền phường bao gồm : Tiến hành các hoạt động giáo dục pháp luật cho nhân dân thông qua các cuộc họp tổ dân phố, các hoạt động đoàn thể quần chúng hoặc các phương tiện truyền thanh phường. Hoà giải các bất hoà trong các tổ dân phố theo Luật dân sự. Phối hợp với cơ quan hành pháp của nhà nước để thi hành án ở cơ sở. Tiếp nhận và giải quyết các đơn thư tố cáo, khiếu nại của công dân trên địa bàn theo thẩm quyền đã được quy định. Xử phạt vi phạm hành chính theo pháp lệnh. Trong các hoạt động trên đây, hoạt động tiếp nhận và giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của nhân dân là hoạt động rất khó khăn và cũng hết sức quan trọng . Để có thể giải quyết hết, giải quyết tốt các vụ việc từ những tranh chấp nhỏ đến các vụ khiếu kiện, khiếu nại của công dân trên địa bàn, cán bộ chính quyền phường cần có trình độ và năng lực nhất định để có khả năng phân tích sâu bản chất gốc rễ sự việc và hoà giải hay giải thích đủ sức thuyết phục, hơn nữa cần phải có tinh thần trách nhiệm cao, cần tỏ ra mẫn cán với công việc và phải giải quyết thật công minh. Bảng 10 : Tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo của phường thuộc quận Ba Đình giai đoạn 1997 - 2000 ( Đơn vị tính : vụ việc ) STT Năm Tiếp nhận Giải quyết 1 1997 88 82 2 1998 155 147 3 1999 19 14 4 2000 22 19 5 Tổng số 284 262 6 Phần trăm 100 92,3 ( Nguồn : Tổng hợp từ Báo cáo tình hình công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các phường thuộc quận Ba Đình giai đoạn 1997 – 2000 ) Những số liệu ở bảng trên chỉ cho ta thấy con số định lượng về thực trạng việc giải quyết khiếu nại tố cáo trên địa bàn các phường thuộc quận Ba Đình mà chưa cho thấy chất lượng của hoạt động giải quyết này. Tuy nhiên, các con số định lượng cũng nói lên một khía cạnh nhất định của thực trạng này. Như ta thấy, trong suốt 4 năm từ 1997 đến 2000 không có năm nào các phường giải quyết được hết các vụ việc khiếu nại tố cáo của dân, trung bình trong bốn năm chính quyền phường chỉ giải quyết hơn 90 % các vụ việc thuộc thẩm quyền của cấp mình, cao điểm nhất như năm 1998 cấp phường chỉ giải quyết 73,7 % vụ việc đã tiếp nhận. Theo báo cáo về tình hình giải quyết khiếu nại tố cáo năm 2000 - 2001 của toàn quận Ba Đình, tình hình khiếu nại, tố cáo của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn các phường trong quận vẫn có xu hướng gia tăng, những vụ việc mới phát sinh không nhiều mà chủ yếu là các vụ việc bị tồn đọng , giải quyết chưa dứt điểm. Nội dung khiếu nại ,tố cáo tập trung vào các vấn đề : 70 % các vụ việc khiếu kiện về xây dựng không phép, sai phép, tranh chấp lối đi, diện tích khu phụ...... Các vụ tố cáo tập trung chủ yếu vào cán bộ phường có biểu hiện lạm dụng chức quyền, tiêu cực trong quản lý, thiếu dân chủ, công khai. Chưa đề cập đến chất lượng giải quyết khiếu nại tố cáo, chỉ phần trăm các vụ việc được giải quyết đã nói lên một mặt yếu kém khác của chính quyền cấp phường. Về chất lượng, đánh giá của Văn phòng thành uỷ Hà Nội cho biết " Việc giải quyết khiếu nại tố cáo ở cấp phường nhìn chung chưa đúng luật định, ngại ra quyết định, xử lý thiếu kiên quyết, còn biểu hiện sự đùn đẩy, né tránh trong việc thực hiện các quyết định, kết luận của cấp trên " ( Báo cáo về tình hình tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo năm 2000 - 2001 của Phòng Nội chính - Tiếp dân, Văn phòng thành uỷ Hà Nội ) Như vậy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn nhiều bất cập, chưa đủ sức thuyết phục, còn né tránh, bỏ sót hoặc giải quyết chưa công minh sẽ gây mất lòng tin của nhân dân, giảm hiệu lực hiệu quả quản lý của chính quyền cấp phường hiện nay. 5. Quản lý đất đai, đô thị Những vấn đề về quản lý đất đai đô thị dang là một trong những điểm nóng của công tác quản lý kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Do tốc độ đô thị hoá của thủ đô nhanh, những dự án mở rộng đường giao thông, xây dựng các công trình phúc lợi công cộng, xây dựng nhà ở, chung cư..... được triển khai đồng loạt ở nhiều nơi; trong khi đó, chế độ chính sách lại luôn thay đổi, nhiều điều lệ quy định trong các văn bản luật và dưới luật chưa đồng bộ nên công tác quản lý đất đai đô thị của các cấp chính quyền nói chung và cấp phường nói riêng đang là một lĩnh vực trọng tâm và bức xúc. Nội dung công việc cụ thể về quản lý đất đai đô thị mà chính quyền cấp phường đang thực hiện là : Tuyên truyền, phổ biến các quy đinh của nhà nước và UBND thành phố về quản lý xây dựng, quản lý nhà và các công trình đô thị. Kiểm tra phát hiện, lập biên bản đình chỉ, xử lý vi phạm trong thẩm quyền hoặc đề xuất quận xử lý nếu các trường hợp vi phạm vượt quá thẩm quyền xử lý. Hoà giải các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp trong xây dựng. Xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo Nghị định của Chính phủ. Mặt mạnh của chính quyền phường trong công tác quản lý này là đã nắm chắc số lượng nhà ở và diện tích đất đai của các hộ dân trên địa bàn, tham gia quản lý các công trình hạ tầng cơ sở trong địa bàn phường, thực hiện hoà giải có hiệu quả nhiều vụ tranh chấp và giải quyết khiếu nại tố cáo về xây dựng các công trình dân dụng, nhà ở. Tuy nhiên, công tác quản lý đất đai đô thị của chính quyền phường cũng còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Hiện tượng xây dựng nhà ở không phép, sai phép, trái phép còn rất phổ biến, chiếm tỷ lệ khoảng hơn 80 %, trong đó chính quyền cấp phường mới chỉ xử lý cưỡng chế khoảng 10 %, số vụ phạt tiền chiếm tỷ lệ khoảng 30 %, còn lại 60 % chỉ bị lập biên bản và không bị xử lý vì nhiều nguyên nhân. Bảng 11 : Tình hình xây dựng không phép trên địa bàn các phường thuộc quận Ba Đình từ năm 1998 - 2000 STT Tên phường Tổng công trình Không phép Tỷ lệ ( % ) 98 99 00 98 99 00 98 99 00 1 Kim Mã 98 43 60 73 30 38 74.5 69.8 63.3 2 Giảng Võ 116 44 95 109 36 89 94 81.8 93.7 3 Thành Công 48 38 35 44 35 28 91.7 92.1 80 4 Điện Biên 19 14 23 18 8 9 94.7 57.1 39.1 5 N. Trung Trực 14 7 22 9 2 11 64.3 28.6 50 6 Phúc Xá 88 91 56 44 45 56 50 49.5 100 7 Trúc Bạch 54 31 40 45 13 24 83.3 41.9 60 8 Ngọc Hà 174 72 168 158 62 162 90.8 86.1 96.4 9 Quán Thánh 79 61 37 69 41 17 87.3 67.2 45.9 10 Đội Cấn 146 55 60 124 37 41 84.9 67.3 68.3 11 Cống Vị 311 234 158 266 202 134 85.5 86.3 84.8 12 Ngọc Khánh 236 79 143 211 61 104 89.4 77.2 72.7 Tổng cộng 1383 769 879 1240 572 713 89.7 74.4 81.1 ( Nguồn : Báo cáo tình hình công tác quản lý đất đai , nhà ở của các phường thuộc quận Ba Đình giai đoạn 1998 – 2000 ) Như vậy, trong những năm gần đây tại tất cả các phường của quận Ba Đình hiện tượng xây dựng không phép đều diễn ra hết sức phổ biến. Năm 98 tỷ lệ xây dựng không phép chung của các phường là gần 90 %, năm 99 có giảm nhưng đến năm 2000 lại gia tăng. Cá biệt như trường hợp phường Phúc Xá năm 2000 có 100% các trường hợp xây dựng đều không có phép, hay như các phường Giảng Võ, Ngọc Hà năm 2000 cũng có tỷ lệ trên 90 %. Đây quả thực là một con số đáng lo ngại và nói lên rất rõ về sự yếu kém trong hiệu quả quản lý nhà nước của chínhh quyền cấp phường trong lĩnh vực đất đai đô thị. Bảng 12 : Tình hình duyệt hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà trên địa bàn các phường thuộc quận Ba Đình năm 2001 ( Đơn vị tính : Hồ sơ ) STT Tên phường Chỉ tiêu kế hoạch Thực hiện 1 Kim Mã 190 208 2 Giảng Võ 400 420 3 Thành Công 200 68 4 Điện Biên 34 29 5 N. Trung Trực 168 130 6 Phúc Xá 500 556 7 Trúc Bạch 200 101 8 Ngọc Hà 500 516 9 Quán Thánh 23 12 0 Đội Cấn 300 324 11 Cống Vị 1000 1065 12 Ngọc Khánh 350 304 Tổng cộng 3865 3207 ( Nguồn : Báo cáo tình hình công tác quản lý đất đai, nhà ở của các phường thuộc quận Ba Đình năm 2001 ) Công tác duyệt hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà là một trong những nhiệm vụ của phường trong lĩnh vực quản lý đất đai, đô thị. Trong tình hình tốc độ đô thị hoá về nhà ở và công tác quy hoạch đô thị đang phát triển nhanh như hiện nay thì nhiệm vụ này của chính quyền cấp phường lại càng trở nên quan trọng. Bảng 12 cho thấy nhìn chung công tác duyệt hồ sơ nhà đất của chính quyền các phường đã thu được những kết quả nhất định, nhiều phường đã thực hiện vượt kế hoạch chỉ tiêu đề ra ( như phường Giảng Võ, Kim Mã, Phúc Xá, Cống Vị.......) Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều phường lại không hoàn thành chỉ tiêu ( 50 % số phường ) trong đó có những phường chỉ tiêu đã rất thấp mà vẫn không hoàn thành ( Điện Biên, Quán Thánh ) hay đạt được con số thực tế quá thấp so với chỉ tiêu ( Thành Công, Trúc Bạch ) . Tính trung bình thì các phường trong quận Ba Đình đã không hoàn thành kế hoạch, chỉ tiêu trong năm 2001 về công tác duyệt hồ sơ sử dụng đất và sở hữu nhà trên địa bàn phường. Việc quản lý đất đai, nhà ở do những biến động về đội ngũ cán bộ, công chức phường ( qua các kì bầu cử hoặc theo điều động của cấp trên ) làm thất lạc hồ sơ cũng gây những khó khăn nhất định cho việc cập nhật thường xuyên những biến động của đất đai nhà ở trên địa bàn. Một số cán bộ, công chức phường do không nắm vững các quy định và thẩm quyền quản lý đất đai, nhà ở hoặc do những lợi ích cá nhân mà cố tình vi phạm, ban hành những quyết định thiếu chính xác, vi phạm nguyên tắc quản lý. Chỉ riêng những trường hợp xây dựng không phép đã chiếm tới gần 90 %, ngoài ra còn các trường hợp vi phạm khác như sai phép, trái phép, vi phạm quy hoạch ảnh hưởng đến các công trình công cộng dân sinh.... Như vậy, có thể nói rằng vai trò của chính quyền cấp phường trong khía cạnh này của công tác quản lý đất đai, nhà ở hầu như không được triển khai và phát huy. Phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp phường hiện nay cho thấy chính quyền cấp phường đã phần nào khẳng định được vị trí của nó trong hệ thống chính quyền bốn cấp ở nước ta cũng như đã khẳng định được vai trò thiết yếu của nó đối với đời sống xã hội . Chính quyền cấp phường có những đóng góp quan trọng góp phần thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng....... góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá thì chính quyền cấp phường hiện nay cũng còn bộc lộ những mặt yếu kém trong tổ chức và hoạt động, làm giảm lòng tin của nhân dân, cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với tất cả các con số minh hoạ nêu trên, chúng ta có thể nói rằng hiệu quả quản lý của chính quyền cấp phường hiện nay còn hạn chế về nhiều mặt. Tuy đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cải thiện đời sống của nhân dân nhưng trên thực tế cơ cấu tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp phường vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp này, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình phát triển chung của quận và thành phố. Nói tóm lại, để có thể nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền các cấp nói chung và chính quyền cấp cơ sở nói riêng, phát huy tối đa vai trò của chính quyền cơ sở trong hệ thống chính quyền nhằm tạo dựng một nền hành chính nhà nước vững mạnh vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, chúng ta cần sớm đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp phường. Đó là một trong những vấn đề bức xúc và cũng là mục tiêu cơ bản của chương trình cải cách nền hành chính quốc gia của nước ta hiện nay. Đánh giá của quần chúng nhân dân về hoạt động của chính quyền cấp phường. Quán triệt quan điểm của chủ nghiã Mác - Lênin " Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng ", từ ngày ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn chăm lo tăng cường mối liên hệ chặt chẽ vơi quần chúng và coi đó là nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của cách mạng. Tổng kết kinh nghiệm những năm qua, Đảng chỉ rõ : những thành công cũng như những sai lầm, khuyết điểm đều có liên quan chặt chẽ với việc có tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân hay không. Để thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phải bảo đảm cho quần chúng có quyền hạn và nghĩa vụ " Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra " Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là một chủ trương tiếp tục cụ thể hoá phương châm trên. Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của việc thực hiện quy chế này là sự thay đổi phương thức và lề lối làm việc của chính quyền cơ sở theo hướng dân chủ hoá, công khai hoá. Thông qua đó quần chúng nhân dân có thể nắm được các hoạt động, công việc liên quan đến lợi ích của mình, giám sát, kiểm tra hoạt động của chính quyền nhằm đảm bảo cho chính quyền hoạt động có hiệu quả hơn. Như đã trình bày trong phần khái niệm quản lý, mô hình hoạt động quản lý bao gồm chủ thể và đối tượng quản lý thông qua mối liên hệ trực tiếp là những hoạt động, những lệnh quản lý từ phía chủ thể. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có mối liên hệ ngược hay còn gọi là thông tin phản hồi. Đây là những phản ứng, những tác động trở lại của đối tượng quản lý đối với chủ thể quản lý. Thông qua những thông tin phản hồi này, chủ thể quản lý có thể thấy được hiệu quả của những tác động của mình đến đối tượng quản lý, trên cơ sở đó điều chỉnh hoạt động quản lý sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao hơn. Có nhiều tiêu chí để nhìn nhận hiệu quả quản lý trong đó đánh giá của bản thân đối tượng quản lý về hoạt động của chủ thể quản lý là một tiêu chí quan trọng, tương đối khách quan và chính xác. Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền phường cũng là mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý, do đó những đánh giá của quần chúng nhân dân về chất lượng của đội ngũ này cũng hết sức quan trọng, thông qua đó chúng ta sẽ có một cái nhìn khách quan về hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức phường. Bên cạnh đó, những tiêu chí đánh giá về độ tuổi, trình độ học vấn cũng như các trình độ được đào tạo khác chưa thể phản ánh đầy đủ và khách quan chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức. Trình độ và năng lực là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, trình độ có thể cao nhưng không có nghĩa là năng lực đã tốt. Vì thế, muốn đánh giá chính xác và khách quan chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức phường, không thể chỉ căn cứ vào tiêu chí trình độ đào tạo mà còn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2.doc
Tài liệu liên quan