Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể quan niệm đó là một tổ chức tài chính đầu tư cổ phần vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa niêm yết. Và ở mức độ nào đó, đại diện của quỹ đầu tư mạo hiểm có thể tham gia vào hoạt động quản lý công ty mà họ là cổ đông. Cũng có thể hiểu Quỹ đầu tư mạo hiểm là một tổ chức tài chính sẵn sàng cung cấp vốn (có thể là cả nhân lực) thông qua việc tham gia mua cổ phần của các doanh nghiệp mà họ thấy có tiềm năng phát triển mạnh, với hy vọng sẽ thu được những khoản lợi cao.
Tại Việt Nam, vào những năm 1990 có tới 6 Quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập với số vốn trên 4000 triệu USD: Laza Việt Nam Fund (Pháp); Beta Việt Nam (Anh); Việt Nam Frontier Fund (Mĩ - Pháp); Templeton Việt Nam Coppoturnites Fund (Mĩ); Việt Nam Fund (Singapore) và Việt Nam Enterprise Investment Ltd (Dragon Capital quản lý ). Nhưng chỉ mấy năm sau đó thì các quỹ dừng hoạt động đầu tư mới hoặc bán đi toàn bộ danh mục các khoản đầu tư ở Việt Nam và chỉ còn lại 4 quỹ.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2101 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động các quỹ đầu tư tại Việt Nam xu hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Johnson Buisse Asia
Sản xuất
2.070.891
2.070.891
Công ty Việt Hoa
Xây dựng
3.544.456
2.231.956
Hàng văn phòng
Tài chính
2.270.000
2.270.000
Cộng
27.176.247
15.035.427
Như vậy tổng số các dự án đầu tư đang thực hiện của VF chỉ chiếm đến 44% (27.176.247 USD) trong tổng số vốn huy động của quỹ là 61,3 triệu. Quá trình đầu tư vốn thực sự chỉ mới là 55,3% (15.035.427USD), số vốn dự định đầu tư chỉ chiếm 24,32% số quỹ hiện có.
Hoạt động của VF đã có những thuận lợi ban đầu, đó là việc chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép ngân hàng VO Bank phát hành cổ phiếu cho quỹ đã đánh dấu thời kỳ cho phép các pháp nhân nước ngoài trực tiếp mua cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.1.2.Templeton Việt Nam Opportunities Fund (TVDF).
Danh mục đầu tư theo tài sản của TVDF
+Thương mại và cho vay ngắn hạn: 45,8%
+Đã đầu tư cổ phiếu : 54,2%
Danh mục đầu tư theo lĩnh vực của quỹ:
Lĩnh vực
Tỷ trọng
Sản xuất hàng tiêu dùng
14,1%
Tài chính
13,7%
Công nghiệp hỗn hợp
8,2%
Vật liệu
7,3%
Dịch vụ
7,3%
Tài trợ vốn
3,6%
Tổng
54,2%
Các doanh nghiệp mà TVOF nắm giữ cổ phần 9/1994: Công ty thép Nat Steel, Công ty Swire Pacific, Tập đoàn New World Development, Công ty American Standard Sanitaly Ware, Bangkok Bank, Ngân hàng quân sự Thái Lan, Tập đoàn First Pacific, Peregrine Investment Holdings, Luk Industrial, Công ty Siam Syntech.
2.1.3.Việt Nam Frontier Fund (VFF).
Danh mục đầu tư của VFF:
+ Thương mại : 3,05%
+ Trái phiếu : 39,57%
+ Tín Dụng : 11,33%
+ Đầu tư cổ phiếu : 46,05%
Các loại dự án đầu tư:
Dự án
Số vốn đầu tư
Dự án
Số vốn đầu tư
IndoChina Goldfields
5,00
NH thương mại cổ phần hàng hải
1,20
Barlile Corporation
1,35
Việt Nam Industrial Investment
2,00
Lukraxi(Ciment)
5,26
NH thương mại cổ phần á Châu
4,90
North Bridge Communities
5,00
Vina Cafê
Công ty xây dựng Thuỷ điện Quảng Nam-Đà Nẵng
1,50
TN Vina Thai (Tuk tuk VN).
3,50
2.1.4.Beta Việt Nam Fund (BVF)
Danh mục đầu tư
+Thương mại và trái phiếu : 69%
+Cho vay : 19%
+Đầu tư vào cổ phần ở Việt Nam : 12%
Các dự án hoạt động tại Việt Nam
Dự án
Giá trị đầu tư
Pegasus Leisure
37,62% cổ phần
Apex Dalat
1.000.000USD (51% cổ phần)
Iddson Group
1.000.000USD
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VietcomBank)
6.700.000USD
Việt Nam Industrial Investments
6.100.000USD (6,2% cổ phần)
2.1.5.Lazard Việt Nam Fund (LVF):
Các dự án hoạt động
+Khách sạn Metropol Hotel - Pullman - Hà Nội
+Khu nhà ở, Văn phòng cao ốc New Age Office Complex - Hà Nội
+Khu nhà cao cấp SaiGon Village - TpHCM
+Khu du lịch Golden Ladge Resors - Hà Nội
+Công ty liên doanh sản xuất gỗ cao cấp Bình Thuận.
Chiến lược của quỹ là đầu tư vào các dịch vụ tiêu dùng, khách sạn, Công nghiệp xây dựng và ngành nhựa với giá trị từ 3 đến 10 triệu USD đầu tư vào một dự án.
2.1.6.Việt Nam Enterprise Investment Keppel. (VAIK)
Danh mục đầu tư
+Thương mại và Trái phiếu: 75%
+Đầu tư cổ phần : 25%
Các dự án:
+International Grammar School - TpHCM
+Ba son - Keppel -Sửa chữa tàu biển
+Các dự án về khách sạn, văn phòng và viễn thông.
VIEK đầu tư 20 Triệu USD(25%) vào các dự án trên.
2.2.Giai đoạn 1997 - 2000
Tên
10/1997
8/2000
Quỹ
Nguồn vốn
Giá (Cent /chứng chỉ)
NAV(Cent/chứng chỉ)
Nguồn vốn
Giá (Cent /chứng chỉ)
NAV(Cent/ chứng chỉ)
BVF
47,2
7,25
10,16
8,98
1,38
3,11
VF
42,0
8,25
11,29
12,44
4,00
8,41
VFF
38,8
7,75
10,64
15,93
3,75
8,05
TVF
90,6
11,25
12,70
VEI
16,5
1,01
0,99
21,87
0,71
0,81
Đến năm 2000 khi thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động với Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên tại TP HCM thì ở Việt Nam còn tồn tại 5 Quỹ đầu tư nước ngoài. Tình hình hoạt động của chúng tại thời điểm đó được phản ánh qua bảng trên
Trong quá trình hoạt động các quỹ này đều gặp nhiều khó khăn: khó khăn trong điều kiện pháp lý thiếu đồng bộ và ngặt nghèo, cộng thêm với một môi trường tài chính chưa phát triển. Hầu hết các quỹ đều không đạt mục đích, vốn huy động và giá chứng chỉ Quỹ đầu tư đều giảm, có quỹ đã bỏ cuộc, chỉ duy nhất có Dragon Capital (VEI) có vốn huy động tăng từ 16,5 triệu USD lên 21,87 triệu USD trong tháng 8/2000. Đây là quỹ hoạt động thành công nhất ở Việt Nam, đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau và đã mang lại những kết quả nhất định.
3.Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động của các Quỹ đầu tư nước ngoài
3.1.Những thuận lợi
Thứ nhất, chính sách của Nhà nước Việt Nam ủng hộ sự hoạt động của các Quỹ đầu tư, các Bộ ngành đã phối hợp để ban hành quy chế hoạt động cho sự hoạt động của quỹ, đặc biệt là cải cách pháp luật, đưa ra chính sách ưu đãi đầu tư.
Thứ hai, các tổ chức như Ngân hàng, bảo hiểm, Tổng công ty Nhà nước và các cá nhân có thu nhập cao đều có nhu cầu đầu tư .
Thứ ba, Việt Nam đã luôn đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, góp phần tạo môi trường cho Quỹ đầu tư.
Thứ tư, đó là sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, đây là một thuận lợi có tính chất bước ngoặt giúp cho Quỹ đầu tư đẩy mạnh đầu tư vào các công ty cổ phần giúp các doanh nghiệp này niêm yết và giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. Qua đó, các Quỹ đầu tư dễ dàng tháo lui vốn thông qua chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán.
3.2.Những khó khăn
Thứ nhất, môi trường pháp lý của Việt Nam chưa có những quy định rõ ràng cho các Quỹ đầu tư nước ngoài dẫn đến quá trình đầu tư vào các doanh nghiệp gặp khó khăn. Mặc dù hành lang pháp lý của Việt Nam đang được xúc tiến cải tổ nhưng thực tế trong nhiều năm qua cho thấy nó luôn không theo kịp nhịp đập của thị trường.
Chẳng hạn như quy định về tỷ lệ vốn: luật đầu tư nước ngoài Việt Nam và Luật doanh nghiệp chỉ cho phép các đối tác nước ngoài được nắm giữ tối đa 30% cổ phiếu của một công ty trong khi mục tiêu của Quỹ đầu tư là kinh doanh chênh lệch giá, mục tiêu này cũng sẽ không thể thực hiện được khi tính lỏng của thị trường chứng khoán trước năm 2000 là bằng không.
Thủ tục xin phép đầu tư vào chứng khoán còn phức tạp và mất nhiều thời gian. Thông thường để tham gia mua cổ phần phải mất từ 3 đến 6 tháng để thẩm định dự án, nhưng cần từ 6 đến 12 tháng để nhận được giấy phép.
Chưa có quy định điều chỉnh cho mọi tổ chức và cá nhân phải tuân theo, có nhiều tổ chức và cá nhân đã tự phát kinh doanh bất động sản và mua bán chứng từ.
Nghị định 48/1998 NĐ-Chính phủ, ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán có quy định về hoạt động của Quỹ đầu tư song khi áp dụng vào Quỹ đầu tư nước ngoài thì gặp phải nhiều bất cập: Đó là, điều 3 NĐ có quy định Quỹ đầu tư được đầu tư vào chứng khoán tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ, nhưng lại không quy định tỷ lệ đầu tư vào chứng khoán niêm yết hay không. Khoản 2 điều 14 quy định công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ để đầu tư quá 15% tổng giá trị chứng khoán lưu hành. Khoản 3 điều 14 quy định công ty quản lý quỹ không được dùng vốn của quỹ mình quản lý để mua quá 49% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành.
Những điều này làm cho những doanh nghiệp có mức vốn nhỏ hơn 10 tỷ đồng có tỷ lệ vốn đầu tư trên tổng nguồn vốn cuả quỹ là quá thấp nên hạn chế trong hoạt động đầu tư. Hơn nữa nó cũng làm cho các doanh nghiệp đầu tư vào các doanh nghiệp khác nhau dẫn đến chi phí quản lý cao làm cho hầu hết các công ty đều chưa có lãi tại thời điểm đó.
Thứ hai, môi trường và nền văn hoá của giới kinh doanh trong nước cũng là nguyên nhân dẫn đến sự không thành công của các Quỹ đầu tư ở Việt Nam. ở Việt Nam các quỹ này tìm được rất ít cơ hội góp vốn có ý nghĩa vào các công ty có sẵn (các doanh nghiệp cổ phần) mà lý do là ở chỗ cá công ty trong nước luôn e dè khả năng bị đối tác nước ngoài thôn tính. Mặt khác số công ty được niêm yết còn ít nên các quỹ gặp nhiều khó khăn trong việc tháo lui vốn, khi chuyển nhượng bị giảm giá trị.
Thứ ba, lỗi cũng không hoàn toàn từ phía bên ngoài mà có cả từ phái các Quỹ đầu tư nước ngoài, chiến lược hoạt động trong thời gian đầu của các Quỹ đầu tư cũng có nhiều điểm không tương thích với môi trường kinh tế Việt Nam. Trong thực tế vốn trung bình của một dự án Việt Nam trước đây chỉ khoảng 10 triệu USD, gần đây có các dự án cao hơn nhưng không đáng kể, trong khi đó hầu hết các quỹ lại chỉ tập trung vào các dự án có quy mô lớn, các quỹ còn lại còn đòi hỏi khắt khe về tỷ suất lợi nhuận của các dự án, làm như thế là các quỹ đã tự trói buộc thị trường đầu tư của chính mình.
4.Một số giải pháp nhằm tăng tính hiệu quả trong hoạt động của các Quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Một là, cần phải có sự điều hành trong hành lang pháp lý, cần phải ban hành ra một quy chế cho quỹ rõ ràng hơn, quy chế đó phải mang tính hợp lý, chính xác, cụ thể, tỉ mỉ. Quy định về tỷ lệ vốn đầu tư vào một doanh nghiệp ở mức làm sao đảm bảo chi phí trên một đồng vốn ở mức hợp lý; đồng thời cần phải quy định thuế vốn để các quỹ dự trù được chi phí.
Hai là, một số quy chế cần mở rộng hơn nữa tạo ra tính linh hoạt cho các quỹ để các quỹ đầu tư khai thác tối đa vốn của mình (NĐ 48 Chính phủ và thị trường chứng khoán sắp được điều chỉnh).
Ba là, chế độ ưu tiên ưu đãi của Quỹ đầu tư gián tiếp cũng nên được ưu tiên như quỹ đầu tư trực tiếp.
Bốn là, chúng ta cần thiết phải chủ động đưa ra các dự án đầu tư theo chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Thậm chí là có thể có những ưu đãi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước nếu họ thoả mãn các dự án mà chúng ta thấy cần thiết. Có như vậy thì sẽ thúc đẩy hoạt động đầu tư của các Quỹ đầu tư. Hơn nữa việc tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài mới mang lại những cơ sở tiền đề quan trọng thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế đất nước, tránh được sự thụ động trong qúa trình xét duyệt, chấp nhận các dự án do các nhà đầu tư nước ngoài đưa ra.
II.Quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
Vài nét về Quỹ đầu tư mạo hiểm
Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể quan niệm đó là một tổ chức tài chính đầu tư cổ phần vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa niêm yết. Và ở mức độ nào đó, đại diện của quỹ đầu tư mạo hiểm có thể tham gia vào hoạt động quản lý công ty mà họ là cổ đông. Cũng có thể hiểu Quỹ đầu tư mạo hiểm là một tổ chức tài chính sẵn sàng cung cấp vốn (có thể là cả nhân lực) thông qua việc tham gia mua cổ phần của các doanh nghiệp mà họ thấy có tiềm năng phát triển mạnh, với hy vọng sẽ thu được những khoản lợi cao.
Tại Việt Nam, vào những năm 1990 có tới 6 Quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập với số vốn trên 4000 triệu USD: Laza Việt Nam Fund (Pháp); Beta Việt Nam (Anh); Việt Nam Frontier Fund (Mĩ - Pháp); Templeton Việt Nam Coppoturnites Fund (Mĩ); Việt Nam Fund (Singapore) và Việt Nam Enterprise Investment Ltd (Dragon Capital quản lý ). Nhưng chỉ mấy năm sau đó thì các quỹ dừng hoạt động đầu tư mới hoặc bán đi toàn bộ danh mục các khoản đầu tư ở Việt Nam và chỉ còn lại 4 quỹ.
2.Vai trò của Quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam
Các quỹ này cung cấp nguồn vốn chủ yếu, quan trọng trong các hoạt động đầu tư ở Việt Nam.
Mối quan hệ giữa hoạt động đầu tư mạo hiểm và việc đầu tư trên thị trường chứng khoán có liên quan mật thiết với nhau. Hoạt động đầu tư mạo hiểm sẽ đóng vai trò thúc đẩy các doanh nghiệp chưa niêm yết mở rộng quy mô hoạt động đến mức có thể phát hành được cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn. Việc đầu tư của các Quỹ đầu tư mạo hiểm là động lực để các công ty cổ phần tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán.
3.Hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam và những khó khăn gặp phải
Từ khi mới xuất hiện Quỹ đầu tư mạo hiểm, ở Việt Nam có sáu quỹ nhưng sau đó thì còn lại bốn quỹ và các quỹ thu hẹp hoạt động đầu tư lại: dừng các hoạt động đầu tư mới hoặc bán đi toàn bộ các khoản danh mục đầu tư tại Việt Nam. Theo các chuyên gia tài chính thì nguyên nhân là hiệu quả đầu tư của các quỹ nói chung còn thấp (có rất ít các khoản đầu tư được thực hiện), các nhà đầu tư ngày càng thấy rõ những khó khăn (do trở ngại về mặt pháp lý), lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài bị giảm sút và một nguyên nhân rất quan trọng là mong muốn của các nhà đầu tư về việc thiết lập thị trường chứng khoán (dự dịnh thành lập vào năm 1994) đã không thực hiện được ..
Cho đến nay theo các tổ chức tài chính đánh giá thì môi trường kinh doanh nói chung đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được cải thiện dáng kể song Quỹ đầu tư mạo hiểm vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn. Đó là:
Những điểm không thuận lợi, những điểm mâu thuẫn trong các luật như: quy định về thuế không rõ ràng, mức thuế thu nhập khá cao buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để đối phó như thực hiện chế độ kế toán không minh bạch, không phù hợp với chuẩn mực về giá trị công ty.
Quyết định 36/2003/QĐ-TTg về việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài với mức khống chế tỷ lệ tối đa là 30% tổng số cổ phần của một doanh nghiệp làm hạn chế việc mở rộng hoạt động của các Quỹ đầu tư mạo hiểm.
Thêm vào đó các Quỹ đầu tư này lại có những điểm yếu của nó, như
+Vốn nước ngoài không quan tâm nhiều đến Việt Nam .
+Rủi ro về ngoại hối khi đầu tư bằng đồng Việt Nam.
+Chỉ giữ được cổ phần thiếu số trong các công ty nội địa
+Hiểu biết về nước sở tại hạn chế
4.Giải pháp tăng tính hiệu quả trong hoạt động của các Quỹ đầu tư mạo hiểm
4.1.Thành lập quỹ nội địa:Có hai khả năng lựa chọn mô hình các quỹ hiện hoạt động sử dụng là: Quỹ đầu tư hải ngoại và Quỹ đầu tư nội địa, so sánh hai hình thức Quỹ đầu tư mạo hiểm này ta thấy.
Thứ nhất, Quỹ đầu tư hải ngoại có những điểm mạnh sau:
+Có khả năng thu hút được nhiều nguồn vốn nước ngoài.
+Môi trường điều tiết và thuế ổn định.
+Cơ cấu pháp lý đã được thử nghiệm và chấp nhận ở Việt Nam.
Thứ hai, Quỹ đầu tư nội địa có những điểm yếu đó là: không chắc chắn có được đủ vốn, cần có thời gian để thành lập, cần được cơ quan có thẩm quyền thông qua chính thức, cần “tiền làm giống” của IFI; cơ cấu pháp lý chưa được thử nghiệm. Song Quỹ đầu tư nội địa lại có những điểm mạnh khắc phục được những điểm yếu của Quỹ đầu tư Hải ngoại.
+Huy động vốn nội địa
+Tránh được rủi ro ngoại hối khi đầu tư trong nước.
+Phát triển năng lực trong nước
+Là công ty nội địa nên ít bị hạn chế hơn so với công ty nước ngoài
+Khả năng tiếp cận đến các dự án lớn hơn.
+Các công ty hoạt động tích cực trong giai đoạn tiền đầu tư trông qua mạng lưới các nhà quản lý cao cấp.
Chính vì vậy giải pháp đầu tiên ở đây là các cơ quan quản lý Nhà nước cần ban hành ngay quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động cho các Quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa.
4.2.Bên cạnh việc thành lập các Quỹ đầu tư mạo hiểm Nội địa, cần phải tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài tham gia đầu tư trực tiếp hoặc liên doanh, liên kết hành động tại Việt Nam. Đây là việc cần làm ngay bởi vì chính các Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ trở thành bước đệm để các công ty cổ phần sớm hội đủ các niêm yết trên thị trường chứng khoán.
4.3.Mặc dù môi trường hoạt động của Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể sẽ được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế: hạn chế trong việc thành lập Quỹ đầu tư Nội địa như chưa có khuôn khổ pháp lý, chưa có kinh nghiệm quản lý, việc xác định và phân tích các công ty là đối tượng đầu tư còn gặp nhiều khó khăn, khó khăn trong rút vốn...Chính vì vậy những vấn đề trên cần phải được tiếp cận thận trọng.
+Phải xác định được những nhà đầu tư Việt Nam quan tâm đến đầu tư dài hạn trong loại này.
+Xác định được một tổ chức quốc tế có thể hỗ trợ về kỹ thuật cho cả việc khởi xướng Quỹ đầu tư mạo hiểm bằng việc xây dựng và thực hiện chính sách.
+Xác định nhu cầu về vốn cũng như sự do dự phải chia sẻ quyền kiểm soát của các công ty.
+Phát hiện các nhà quản lý quỹ cao cấp người Việt Nam, vừa có kinh nghiệm lại vừa được đào tạo về tài chính.
5.Intel chuẩn bị đưa Quỹ đầu tư mạo hiểm vào Việt Nam
Tập đoàm Intel được thành lập vào năm 1968 bởi Robert Noyce, Gordon Moore và Andy Grore. Ngày 16/7/2003, tập đoàn kỷ niệm 35 năm thành lập. Intel khai trương cơ cở sản xuất đầu tiên vào năm 1972.
Theo ông Trịnh Thanh Lâm, Giám đốc phát triển kinh doanh của công ty Intel Việt Nam thì trong năm nay Intel sẽ triển khai Quỹ đầu tư mạo hiểm vào Việt Nam để kích thích sự sáng tạo khoa học và phát triển các doanh nghiệp Công nghệ thông tin trẻ. Quỹ Intel Capital hiện đã đầu tư hơn 600 triệu USD vào hơn 100 công ty tại khu vực Châu á - Thái Bình Dương.
(Theo tin ngày 17/07/2003)
III. Quỹ đầu tư rủi ro – Quỹ doanh nghiệp MeKông
Thông tin về quỹ doanh nghiệp MeKong
Quỹ doanh nghiệp Mêkong là một Quỹ đầu tư rủi ro đầu tiên tại Việt Nam. Quỹ chính thức ra mắt tại Tp HCM ngày 22/4/2002 để hỗ trợ cho các doanh nghiệp cổ phần vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Quỹ có số vốn đầu tư là 18,5 triệu USD
Mục đích của nguồn quỹ:
+Phát triển lâu dài giá trị của các đầu tư nguồn quỹ.
+Khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Đông Dương.
Quỹ dự tính có thời gian tồn tại là 10 năm nhưng chỉ có thể đầu tư mới trong vòng 5 năm. Nguồn quỹ dự tính nắm giữ đầu tư trung bình là 5 năm vì cũng giống như các quỹ khác, quỹ Mekong có thời gian nhất định và sau một thời gian đầu tư thì quỹ sẽ tính việc rút vốn ra vào một thời điểm nhất định.Số lượng vốn mà quỹ có thể đầu tư từ 100.000USD đến 2 triệu USD và mức đầu tư trung bình dự định khoảng 500.000USD
Quỹ đầu tư cổ phần có thể bao gồm: cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu tiên, trái phiếu có thể hoán đổi hoặc dưới dạng các laọi hình khác của chứng khoán.
Tỷ lệ tối đa cổ phần phát hành của các công ty mà nguồn quỹ có thể nắm giữ là 30%.
2.Nhà quản lý quỹ
Mekong Capital Ltd là nhà quản lý của quỹ doanh nghiệp Mekong, là một công ty quản lý Quỹ mạo hiểm chuyên đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân hàng đầu tại Việt Nam, Lào, CampuChia. Mekong Capital có một đội ngũ nhân sự mạnh, thế mạnh của Mekong chính là ở khả năng tạo điều kiện cho nhân viên liên tục phát triển kỹ năng và kiến thức để trở thành những nguồn tư vấn có giá trị cho các công ty mà Quỹ đầu tư Mekong Capital hợp tác chặt chẽ với nhà tư vấn đầu tư MPDF (chương trình phát triển dự án Mekong).
Nhiệm vụ của Mekong Capital là xác định và lựa chọn các đầu tư tiềm năng cho nguồn quỹ, tiến hành đầu tư , giám sát công tác đầu tư , hỗ trợ các công ty sau khi đã nhận đầu tư và bán lại đầu tư của nguồn quỹ.
3.Nhà tư vấn đầu tư của quỹ
Nhà tư vấn đầu tư của quỹ là chương trình phát triển dự án Mekong (MPDF). MPDF đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của quỹ.
4.Nhà đầu tư của quỹ
Hiện nay, các nhà đầu tư của nguồn quỹ chủ yếu là các tổ chức phát triển tài chính và cá tổ chức được Chính phủ tài trợ hoặc các nguồn quỹ. Quỹ này chú trọng đến việc phối hợp chặt chẽ với các nhà đầu tư của mình, những người đại diện cho nguồn trợ giúp quan trọng cho các nước vùng Mekong. Các nhà đầu tư này có thể đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tạo điều kiện thuận lợi để cải thiện môi trường hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân tại vùng Mekong.
Các nhà đầu tư của Quỹ bao gồm:
+Ngân hàng phát triển Châu á(ADB).
+Quỹ phát triển Bắc Âu(NDF).
+Văn phòng vụ kinh tế Thuỵ Sỹ(SECO).
+Quỹ hợp tác công nghiệp Phần Lan.
+Công ty đầu tư vào các nước đang phát triển của Bỉ(BIO).
+Các nhà đầu tư tư nhân khác.
5.Mục tiêu của quỹ
Quỹ đầu tư vào các công ty tư nhân đầu tư quản lý có hiệu quả, đạt được những thành tựu đáng kể và có triển vọng tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng, đặc biệt với sự trợ giúp của quỹ. Quỹ chú trọng trong việc cung cấp các hỗ trợ đáng kể cho các công ty sau khi đầu tư mà không phải trực tiếp tham gia vào việc quản lý công ty. Đặc biệt, quỹ tập trung trợ giúp các công ty phát triển hệ thống quản lý và hệ thống quản trị doanh nghiệp dựa trên những thông lệ Quốc tế tốt nhất sao cho giá trị cổ đông được tạo một cách đáng kể từ việc tham gia của quỹ.
6.Lĩnh vực đầu tư của quỹ
Quỹ đầu tư vào các ngành như may mặc, giầy dép, phát triển phần mềm và là nhà thầu phụ, lắp ráp điện tử, thiết kế và sản xuất các bộ phận đặc trưng, thiết bị hay nguyên vật liệu thô được sử dụng trong sản xuất mặt hàng nội địa.Ngoài ra quỹ cũng quan tâm đầu tư cho các ngành như: chế biến nông sản, các dịch vụ tài chính như Ngân hàng, Công ty cho thuê tài chính và điều hành đầu tư, dịch vụ quảng cáo, luật, kế toán, kiểm toán và tư vấn.
IV.Quỹ đầu tư phát triển
1.Quỹ đầu tư phát triển
Là một tổ chức tài chính do Nhà nước thành lập, có tư cách pháp nhân với chức năng quản lý và huy động vốn nhàn rỗi thuộc các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế xã hội, tiếp nhận các nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước để đầu tư cho vay đối với các dự án, chương trình của Chính phủ.
2. Mục tiêu của Quỹ đầu tư phát triển
Đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu sản xuất đa dạng hoá ngành nghề, sản phẩm, qua đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Bên cạnh đó, quỹ đầu tư phát triển còn tham gia vào quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, sắp xếp lại các cơ sở sản xuất trên địa bàn; tiếp nhận và quản lý nguồn vốn ký thác từ các chủ đầu tư, từ ngân sách địa phương, thực hiện hợp tác đầu tư đối với Quỹ hỗ trợ phát triển của Chính phủ; cung cấp các dịch vụ tài chính, dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, tham gia hoạt động trên thị trường vốn theo các quy định của pháp luật.
3.Cơ sở pháp lý chi phối sự hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển
Quỹ đầu tư phát triển được Chính phủ thành lập đóng vai trò là một công cụ tài chính, hoạt động của Quỹ đầu tư hoàn toàn chạy theo mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, chính vì thế hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển được hưởng ưu đãi của luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi, nó không chịu sự chi phối của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển phải tuân thủ các quy định của Nhà nước về lãi suất, chế độ quản lý ngoại hối, chế độ thanh toán nhằm đảm bảo giá trị đồng tiền và tính an toàn của thị trường tiền tệ.
Trần lãi suất cho vay của Quỹ đầu tư phát triển do UBND tỉnh, thành phố quy định cho từng loại dự án theo đề nghị của hoạt động quản lý Quỹ đầu tư phát triển. Hiện nay Bộ tài chính và các Bộ ngành có liên quan đang nghiên cứu mô hình hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển xây dựng Nghị định về tài chính và hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển nhằm hoàn thiện về mô hình, xây dựng cơ chế nâng cao chất lượng hoạt động của quỹ.
4.Hoạt động hiện nay của các Quỹ đầu tư phát triển ở Việt Nam
Hiện nay trong cả nước có bốn Quỹ đầu tư phát triển địa phương được thành lập và đi vào hoạt động, đó là:
+Quỹ đầu tư phát triển đô thị Tp HCM (Thành lập 6/1997)
+Quỹ đầu tư phát triển Bình Định (Thành lập 7/1997)
+Quỹ đầu tư phát triển Hải Phòng (Thành lập 7/19980
+Quỹ đầu tư phát triển Bình Dương (Thành lập 5/1999)
Mức vốn điều lệ của các Quỹ được giới hạn trong quyết định thành lập từ 50 tỷ đến 500 tỷ đồng.
Hiện nay việc huy động vốn của các Quỹ đầu tư phát triển địa phương chỉ giới hạn trong phạm vi huy động các nguồn tạm thời nhàn rỗi của ngân sách địa phương, vốn 5% chờ quyết toán xây dựng cơ bản.
Riêng đối với Quỹ đầu tư phát triển địa phương thì Tp HCM đã triển khai phương thức hợp vốn với các ngân hàng để đầu tư cho các dự án trọng điểm của thành phố với tổng mức vốn 230 tỷ đồng.
Ngoài ra, các quỹ còn thực hiện việc tiếp nhận và quản lý vốn uỷ thác.
Quy mô, đối tượng và hình thức hoạt động đầu tư của cá Quỹ đầu tư tăng không ngừng, tính đến thời điểm hiện nay, thị phần đầu tư của các quỹ đã tăng đáng kể, tổng vốn đầu tư hàng năm của các quỹ khoảng 10 tỷ đồng.
Lĩnh vực đầu tư của quỹ: tập trung vào các lĩnh vực ngành nghề ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
5. Hiệu quả đầu tư và một số tồn tại của các Quỹ đầu tư phát triển trong thời gian qua
5.1.Hiệu quả đạt được
Quỹ đầu tư phát triển đã thực hiện việc cho vay gắn liền với dự án theo chủ trương của chính quyền địa phương. Vừa qua, hoạt động của Quỹ đầu tư phát triển Bình Định và Quỹ đầu tư phát triển Tp HCM đã bám sát việc phát triển cơ sở hạ tầng ở địa phương, góp phần phục hồi một số cơ sở sản xuất, bước đầu khẳng định tác dụng của mô hình. Quỹ đầu tư phát triển Tp HCM có kế hoạch mở thêm hướng đầu tư xây dựng cơ bản cơ sở hạ tầng và các khu công nghiệp thuộc địa bàn dưới hình thức đầu tư xây dựng nhà xưởng để cho thuê hoặc bán trả chậm
Quỹ đầu tư phát triển tham gia từng bước thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn thông qua việc tư vấn cổ phần hoá, đầu tư vào một số doanh nghiệp để hỗ trợ cổ phần hoá cho các doanh nghiệp, mua cổ phần một số Ngân hàng thương mại và công ty cổ phần hoạt động tốt, chuẩn bị lượng cổ phiếu hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
Các quỹ tiếp nhận và quản lý vốn uỷ thác từ Ngân sách địa phương chuyển sang. Quỹ đầu tư phát triển Tp HCM đã tiếp nhận , chuyển và quản lý một khối lượng lớn vốn uỷ thác từ UBND Thành phố với tiến độ giải ngân tương đối kịp thời. Kết quả giải ngân đến hết 1999 đạt hơn 600 tỷ đầu tư vào các dự án.
5.2.Tồn tại
Về vốn huy động: Vốn của quỹ được huy động từ hai nguồn đó là: vốn điều lệ từ ngân sách địa phương và dưới hình thức góp vốn hoặc vay vốn trung, dài hạn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Trong hai nguồn vốn này thì vốn điều lệ được xác định là nguồn vốn mới để thu hút các nguồn vốn khác cu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33796.doc