Đề tài Thực trạng hoạt động của kinh tế Nhà nước trong thời gian qua

Mục lục

Trang

Mở đầu 1

B. Nội dung 2

1. Kinh tế Nhà nước 2

1.1. Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế Nhà nước. 2

1.2. Khái niệm kinh tế Nhà nước. 2

1.3. Hoạt động, chức năng và nhiệm vụ của một số bộ phận hợp thành của kinh tế Nhà nước. 3

1.3.1. Doanh nghiệp Nhà nước. 3

1.3.2. Ngân sách Nhà nước. 3

1.3.3. Ngân hàng Nhà nước. 3

1.3.4. Các quỹ Quốc gia. 3

1.3.5. Hệ thống bảo hiểm. 4

2. Vai trò của kinh tế Nhà nước. 4

2.1. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 4

2.1.1. Kinh tế Nhà nước có tác dụng mở đường cho sự phát triển các thành phần kinh tế khác. 4

2.1.2. Kinh tế Nhà nước nêu gương, tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển. 5

2.1.3. Vai trò hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế khác phát triển: 5

2.1.4. Kinh tế Nhà nước tạo nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 6

2.2. Tính tất yếu khách quan của việc: “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo” trong nền Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 6

3. Thực trạng hoạt động của kinh tế Nhà nước trong thời gian qua 8

3.1. Những mặt làm được và tiến bộ của Kinh tế Nhà nước 8

3.2. Những tồn tại và yếu kém của kinh tế Nhà nước. 10

3.3. Nguyên nhân của những tồn tại và yếu kém 11

4. Giải pháp 12

Kết luận 15

Tài liệu tham khảo 15

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1713 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động của kinh tế Nhà nước trong thời gian qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là các xí nghiệp Quốc doanh thì “kinh tế Nhà nước” có phạm vi rộng hơn, ngoài khu vực kinh doanh của Nhà nước còn bao gồm cả khu vực khác (phi kinh doanh) như: tài nguyên thiên nhiên, các quỹ hỗ trợ… 1.2. Khái niệm kinh tế Nhà nước. Sau Đại hội VIII của Đảng, tuy thuật ngữ “kinh tế Nhà nước” đã được sử dụng tương đối rộng rãi, phổ biến nhưng trong tất cả các văn kiện Đại hội, khái niệm “kinh tế Nhà nước”chưa được xác định rõ, do vậy chưa có cách hiểu thống nhất về kinh tế Nhà nước. Một số ý kiến đồng nhất kinh tế Nhà nước với khu vực doanh nghiệp Nhà nước, một số khác cho rằng kinh tế Nhà nước bao gồm cả bộ máy Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức xã hội hoạt động chủ yếu bằng nguồn ngân sách Nhà nước. Khái niệm “kinh tế Nhà nước” cũng được đưa ra trong nhiều đề tài nghiên cứu, báo cáo, tham luận… trong đó đáng lưu ý nhất về kinh tế Nhà nước là: “Kinh tế Nhà nước là loại hình kinh tế do Nhà nước nắm giữ, bao gồm quyền sở hữu, quyền quản lý, quyền sử dụng hiệu quả kinh doanh do lực lượng vật chất đó mang lại” Kinh tế Nhà nước phải là những hoạt động kinh tế mà Nhà nước là người chủ sở hữu, có quyền tổ chức, chi phối hoạt động theo hướng đã định. Kinh tế Nhà nước được biểu hiện dưới hình thức nhất định đó là doanh nghiệp Nhà nước, ngân sách Nhà nước, ngân hàng Nhà nước, quỹ dự trữ Quốc gia, hệ thống bảo hiểm… Nghĩa là kinh tế Nhà nước có nhiều bộ phận hợp thành và tất cả những bộ phận đó đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, kể cả vốn góp của Nhà nước đưa vào doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. 1.3. Hoạt động, chức năng và nhiệm vụ của một số bộ phận hợp thành của kinh tế Nhà nước. 1.3.1. Doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Như vậy doanh nghiệp Nhà nước có hai loại: một loại hoạt động kinh doanh vì mục đích lợi nhuận và một loại khác hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì phúc lợi xã hội. 1.3.2. Ngân sách Nhà nước. Là bộ phận kinh tế Nhà nước, thực hiện chức năng thu, chi ngân sách và có tác dụng điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước và các thành phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế - xã hội đã định. 1.3.3. Ngân hàng Nhà nước. Là một bộ phận của kinh tế Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước có tác dụng điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp Nhà nước và các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là xây dựng và tổ chức hệ thống chính sách tiền tệ để phát triển kinh tế - xã hội. 1.3.4. Các quỹ Quốc gia. Là một bộ phận của kinh tế Nhà nước, nhằm đảm bảo cho kinh tế Nhà nước, kinh tế Quốc dân hoạt động bình thường trong mọi tình huống; các quỹ Quốc gia dùng lực lượng vật chất của mình để điều tiết, quản lý, bình ổn giá cả thị trường, đảm bảo cho tình hình kinh tế, xã hội ổn định để phát triển. 1.3.5. Hệ thống bảo hiểm. Cũng là một bộ phận không thể thiếu của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chịu trách nhiệm thực hiện chế độ bảo hiểm do Nhà nước quy định để phục vụ cho kinh tế Nhà nước và các thành phần kinh tế khác, nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh tế - xã hội bình thường trong những điều kiện bị tổn thất do rủi ro khách quan. 2. Vai trò của kinh tế Nhà nước. 2.1. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là quan điểm lý luận và được các nước XHCN thừa nhận rộng rãi trong hoạt động lãnh đạo của nền kinh tế quốc dân coi đó là một đặc trưng cơ bản để phân biệt kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN. 2.1.1. Kinh tế Nhà nước có tác dụng mở đường cho sự phát triển các thành phần kinh tế khác. Điều đó được thể hiện ở chỗ: - Kinh tế Nhà nước thúc đẩy việc xây dựng quy hoạch, chiến lược, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển các thành phần kinh tế khác theo con đường XHCN; chính quyết định này là để mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. - Kinh tế Nhà nước đảm nhận phát triển cơ cấu hạ tầng và công trình công cộng khác để tạo điều kiện, mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. - Kinh tế Nhà nước được tiến hành cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, liên doanh liên kết với tư nhân trong và ngoài nước với các thành kinh tế khác; việc làm này chính là mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Ở đây cần chú ý: chúng ta cổ phần hoá chứ không phải tư nhân hóa, cổ phần hoá nhưng Nhà nước phải giữ một tỷ lệ cổ phần khống chế và chỉ cổ phần hoá những doanh nghiệp Nhà nước không giữ những vị trí quan trọng yết hầu của nền kinh tế. Việc cổ phần hoá, liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác là nhằm mục đích mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Song phải chú ý một điều là kinh tế Nhà nước luôn luôn giữ vai trò quyết định xu hướng phát triển, vai trò trung tâm cuốn hút, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác đi vào quỹ đạo XHCN, nếu rời bỏ vai trò này sẽ chệch hướng XHCN. 2.1.2. Kinh tế Nhà nước nêu gương, tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển. -Điều này được thể hiện ở chỗ Kinh tế Nhà nước và các thành phần khác đều bình đẳng trong kinh doanh, bình đẳng trong cạnh tranh, những doanh nghiệp đi đầu trong việc thực hiện pháp luật, chế độ, gương mẫu trong việc nộp thuế…đã nêu gương và tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. 2.1.3. Vai trò hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế khác phát triển: Kinh tế Nhà nước luôn luôn có một bộ phận là doanh nghiệp Nhà nước trực tiếp làm kinh tế, trực tiếp kinh doanh nhằm can thiệp sâu hơn, chủ động hơn, mạnh mẽ hơn vào các hoạt động kinh tế. Chính thông qua những hoạt động này, doanh nghiệp Nhà nước phát triển quan hệ hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế khác phát triển. Chẳng hạn như doanh nghiệp Nhà nước đảm nhận những lĩnh vực vốn lớn, thu hồi vốn chậm, mạo hiểm mà tư nhân không giám hoặc không đủ sức làm như việc xây dựng kết cấu hạ tầng, đường xá, điện nước… Chính việc phát triển các lĩnh vực này mới tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Mặt khác, kinh tế Nhà nước thông qua chủ sở hữu của mình là Nhà nước để hoạch định các chính sách quản lý vĩ mô, vừa hỗ trợ, vừa giúp đỡ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Chẳng hạn như chính sách tài chính, thực hiện cho vay với lãi suất ưu đãi, thuế, chính sách mậu dịch, hải quan để bảo vệ sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước…Nhà nước còn cung cấp, đảm bảo thông tin, đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế khác phát triển kinh doanh. 2.1.4. Kinh tế Nhà nước tạo nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Kinh tế Nhà nước thông qua chủ sở hữu của mình là Nhà nước đề ra các chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý cụ thể, đồng bộ, có tác dụng phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các bộ phận cấu thành kinh tế Nhà nước, tạo thành một lực lượng kinh tế hùng mạnh chi phối các thành phần kinh tế khác, đi đầu trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ tiến bộ, hiện đại, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH, là lực lượng đóng góp xứng đáng vào ngân sách Nhà nước, là công cụ và là lực lượng vật chất để Nhà nước điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường, chăm lo các chính sách xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vững bước đi lên CNXH. Tất cả những việc làm đó là nhằm tạo ra nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới. Đây là một nội dung để khẳng định vai trò chỉ đạo của Kinh tế Nhà nước. 2.2. Tính tất yếu khách quan của việc: “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo” trong nền Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Qua quan niệm về vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước tại các kỳ đại hội, có thể rút ra nhận định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế có nghĩa là: + Kinh tế Nhà nước phải mạnh và có khả năng chi phối nền kinh tế. + Là công cụ hữu hiệu để đảm bảo sự ổn định xã hội và ổn định nền kinh tế. + Là lực lượng vật chất để tạo nên môi trường hoạt động thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác. Khi nói đến “chủ đạo” và “vai trò chủ đạo của nền kinh tế” của một bộ phận kinh tế nào đó, tức là nói đến tầm quan trọng của nó và tính chất quyết định của nó đối với một chế độ xã hội nào đó, bộ phận kinh tế chủ đạo phải chi phối và dẫn dắt các bộ phận kinh tế khác. Một câu hỏi đặt ra là hầu hết các nước trên thế giới đều có kinh tế Nhà nước và Nhà nước đều có vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế, tại sao chỉ ở Việt Nam mới xác định: “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo” và điều đó có thực sự cần thiết không? Có đúng không? Có thể khẳng định rằng, việc xác định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Việt Nam là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ không củng cố và tăng cường Kinh tế Nhà nước thì không thể nói tới CNXH, không thực hiện tốt vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước thì cũng không thể nói đến định hướng XHCN, nói tới con đường đi lên XHCN. Từ nhận định này chúng ta có thể trao đổi thêm một số khía cạnh: + Một là: “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN” là một luận điểm phát triển quan trọng và đúng đắn của Đảng ta. Điều này không phải là sản phẩm tư duy chủ quan của một số người mà có tính tất yếu khách quan, xuất phát từ lý luận về tính giai cấp của Nhà nước. Nhà nước ta là Nhà nước XHCN, nhà nước công nông, nhà nước của những người lao động. Nhìn chung thì những người lao động không có tư liệu sản xuất riêng, mà chỉ đồng sở hữu toàn dân đã giao cho Nhà nước quản lý. Vì vậy, khu vực Kinh tế Nhà nước phải ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Khu vực này có phát triển thì mới có quyền lực để chủ động giải quyết tốt các vấn đề xã hội. + Hai là khu vực doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận cấu thành của kinh tế Nhà nước, là công cụ quan trọng để thông qua đó Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế khi cần thiết. Chi phối, dẫn dắt và tạo môi trường hoạt động cho các thành phần kinh tế khác, góp phần làm cho nền kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình. Phải phát triển và xây dựng khu vực doanh nghiệp mạnh, nắm giữ những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nhưng có chọn lọc, không nặng nề về tỷ trọng, số lượng doanh nghiệp mà phải chú trọng chất lượng của các doanh nghiệp Nhà nước. + Ba là: Các bộ phận phi doanh nghiệp của kinh tế Nhà nước phải được quản lý và sử dụng tốt để thực sự trở thành công cụ đắc lực của Nhà nước trong định hướng hỗ trợ phát triển cho doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế, là công cụ để giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế. Khu vực phi doanh nghiệp của kinh tế Nhà nước chỉ có thể phát huy hiệu quả vai trò của mình khi Nhà nước có một đội ngũ công chức, viên chức mẫn cán, kinh thông nghiệp vụ, có đạo đức. Vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào công cuộc cải cách hành chính theo hướng chuyên nghiệp hoá bộ máy Nhà nước. + Bốn là: Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế khác không ảnh hưởng đến vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, ngược lại, nó còn tác động đến sự phát triển của Kinh tế Nhà nước một cách tích cực để Kinh tế Nhà nước thực hiện tốt hơn vai trò chủ đạo của mình.. 3. Thực trạng hoạt động của kinh tế Nhà nước trong thời gian qua 3.1. Những mặt làm được và tiến bộ của Kinh tế Nhà nước Các thành phần kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua đều có những đóng góp nhất định vào kết quả tăng trưởng của nền kinh tế (xem bảng 1). Bảng 1: Cơ cấu GDP (giá thực tế) phân theo thành phần kinh tế. Đơn vị tính: % 2000 2001 2002 2003 Kinh tế nhà nước 38.53 38.4 38.31 38.22 Kinh tế tập thể 8.58 8.06 7.98 7.9 Kinh tế tư nhân 3.38 3.73 3.93 39.81** Kinh tế cá thể 32.31 31.84 31.42 Kinh tế hỗn hợp* 3.92 4.22 4.45 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 13.28 13.75 13.91 14.07 Chú thích: * Tương đương với khái niệm về Kinh tế tư bản Nhà nước ** Tổng của 3 khu vực kinh tế: Tư nhân, cá thể, hỗn hợp Nguồn: Tổng cục Thống kê, bộ kế hoạch và đầu tư. Qua bảng 1 ta thấy, kinh tế Nhà nước chiếm vị trí quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Khu vực kinh tế Nhà nước chiếm giữ phần lớn các nguồn lực tài sản, đất đai, nguồn vốn tài chính, vốn con người, đồng thời có đóng góp nhiều nhất cho tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2003, khu vực kinh tế Nhà nước hiện có khoảng 5175 doanh nghiệp, chiếm 56.5% tổng vốn đầu tư phát triển và đóng góp hơn 38% GDP (xem bảng 2). Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, thậm chí độc quyền trong nhiều ngành kinh tế, nhất là những ngành có vị trí then chốt như bưu chính - viễn thông, hàng không, điện lực…Khu này đã sản xuất ra 39.5% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu và 23.7% tổng thu ngân sách Nhà nước. Hầu hết các hoạt động sản xuất và dịch vụ công ích đều do doanh nghiệp nhà nước đảm nhiệm. Bảng 2: Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế. Đơn vị tính: % 2001 2002 2003 Đóng góp cho GDP (giá thực tế) 38.4 38.31 38.22 Đóng góp cho vốn đầu tư phát triển (giá thực tế) 58.1 56.2 56.5 Đóng góp cho tổng thu ngân sách 22.28 23.37 23.71 Tỷ trọng trong tổng lực lượng lao động - 4.8 - Nguồn: Tổng cục thống kê 2003. Nhìn chung, hệ thống kinh tế Nhà nước, mà chủ lực là hệ thống doanh nghiệp Nhà nước, đang được đổi mới, phát triển và ngày được hoàn thiện hơn. Điều này được biểu hiện ở chỗ hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đang phát triển, nắm giữ các lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế Quốc dân và chi phối các thành phần kinh tế khác. Các bộ phận của kinh tế Nhà nước như: Ngân sách Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đảm bảo được những cân đối lớn của kinh tế Quốc dân; hệ thống ngân hàng có nhiều hình thức mới phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống bảo hiểm được hình thành và phát triển khá đã bảo hiểm và giúp đỡ các thành phần kinh tế an tâm sản xuất; đât đai, hầm mỏ… được khai thác đạt hiệu quả nhiều hơn. Cả hệ thống kinh tế này cùng với những thể chế thồng nhất, đồng bộ của Nhà nước đang và có tác dụng thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Tóm lại, hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã được tổ chức sắp xếp lại theo một cơ cấu mới, tiến bộ hơn về chất, đã xoá bỏ được cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được xác định ngày càng rõ ràng và hoàn thiện hơn, vai trò tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính của các doanh nghiệp được xác lập và ngày càng mở rộng. Nhà nước từng bước quản lý doanh nghiệp và phát huy tính chủ động của doanh nghiệp. Với những kết quả tiến bộ trên, doanh nghiệp Nhà nước đã tạo ra được lực lượng vật chất cần thiết để tác động, chi phối và hợp tác trong việc thực hiện các cân đối chủ yếu của nền kinh tế, bước đầu phát huy vai trò mở đường và làm đòn bẩy trên một số mặt để thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, góp phần giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội hướng vào việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, làm cơ sở cho việc hình thành chế độ mới - chế độ XHCN. 3.2. Những tồn tại và yếu kém của kinh tế Nhà nước. - Tuy kinh tế Nhà nước đã đạt được những bước thành công như vậy nhưng vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước hiện nay chưa thực sự xuất phát từ thực lực vượt trội của khu vực này so với các thành phần kinh tế khác và so với các doanh nghiệp trên thế giới. Đặc điểm này được thể hiện rõ ở một số điểm như sau: Thứ nhất: năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp Nhà nước thấp kém, nhiều doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả. Nợ của khu vực doanh nghiệp Nhà nước quá lớn, nợ khó đòi chưa có dấu hiệu thuyên giảm (chiếm tới 74.8% trong số nợ quá hạn của ngân hàng thương mại quốc doanh). So với các doanh nghiệp trên thế giới, doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam có quy mô nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tạo ra giá trị gia tăng thấp, sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ ít có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thứ 2: So với các thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp Nhà nước được nhận nhiều hỗ trợ và hưởng những quyền lợi đặc biệt mà doanh nghiệp khác không thể có. Doanh nghiệp Nhà nước được vay vốn không cần thế chấp, được giao đất mà không phải thuê, được giao thực hiện các dự án lớn mà nắm chắc là thu lãi cao… Trong 4 năm 1997 – 2000, ngân sách Nhà nước đã đầu tư hơn 8200 tỷ đồng cho doanh nghiệp Nhà nước (trong đó 2216 tỷ đồng cung cấp, bổ sung vốn lưu động, 1464 tỷ đồng là bù lỗ giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về tài chính), miễn giảm thuế 1351 tỷ đồng, xoá nợ 1088 tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ, giãn nợ 540 tỷ và giảm trích khấu hao 200 tỷ. Hiện nay, Nhà nước vẫn đang tiếp tục cấp thêm nhiều tỷ đồng bổ sung vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước để trong 5 năm 2001 – 2005 cơ bản tạo đủ vốn cho doanh nghiệp. Thứ 3: Bên cạnh sự yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Nhà nước và các dịch vụ công khác, kể cả các dịch vụ công ích, vẫn còn thấp. Hệ thống ngân hàng chưa đảm bảo cung cấp nguồn vốn đầy đủ và thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Các dịch vụ công, nhất là dịch vụ phục vụ khu vực doanh nghiệp còn yếu kém, chi phí cao, chất lượng thấp. - Trong vấn đề vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước hiện nay chưa thực sự xuất phát từ thực lực vượt trội của khu vực này so với các thành phần kinh tế khác và so với các doanh nghiệp trên thế giới thì hệ thống doanh nghiệp Nhà nước cũng vấp phải những tồn tại và yếu kém đáng chú ý. 3.3. Nguyên nhân của những tồn tại và yếu kém Nguyên nhân chủ yếu, bao trùm của những tồn tại và yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước là do quan hệ sản xuất chưa phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhiều chủ trương chính sách thuộc về quản lý vĩ mô của Nhà nước còn bất cập, chưa đồng bộ, trình độ chuyên môn quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp Nhà nước chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Có thể phân tích những nguyên nhân này trên một số mặt cụ thể: Thứ nhất: chưa có quy hoạch, chiến lược kinh doanh và kế hoạch dài hạn về phát triển doanh nghiệp Nhà nước nên thiếu chủ động, còn lúng túng, sai sót trong đầu tư và phát triển kinh doanh, chưa tạo thị trường ổn định và rộng lớn. Từ đó dẫn đến đầu tư thiếu trọng tâm, kém hiệu quả, gây nhiều lãng phí và thất thoát. Thứ hai: công nghệ, phương tiện, phương pháp sản xuất kinh doanh và quản lý quá cũ kỹ và lạc hậu, hiệu quả sử dụng thấp. Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, có trên 50% tài sản cố định đã sử dụng hơn 18 năm trong đó có 3,2% sử dụng trên 33 năm, 5% mua mới từ năm 1990 – 1993. Đa số thiết bị lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ, thậm chí có thiết bị còn lạc hậu từ 3- 5 thế hệ như thiết bị trong ngành đường sắt, đóng tàu. Lao động thủ công còn chiếm tỷ lệ lớn: 41% đối với doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và 74% đối với doanh nghiệp Nhà nước địa phương. Năng suất lao động thấp, chất lượng hàng hoá kém, giá thành cao dẫn đến kết quả là khả năng cạnh tranh trên thị trường rất yếu ớt. Mặt khác, dù công nghệ lạc hậu nhưng chưa khai thác được hết công suất, ví dụ: công nghệ giấy chỉ sử dụng 80% công suất, Tổng công ty điện lực sử dụng 72,4% và nhà máy đóng tàu chỉ sử dụng 50% công suất. Thứ 3: Vốn sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp thiếu trầm trọng, nhưng việc sử dụng và quản lý lại kém hiệu quả, thêm vào đó, tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau trong kinh doanh càng làm cho vốn thiếu trầm trọng hơn. Thứ 4: Hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế quản lý chưa động bộ, tổ chức thực hiện chưa nghiêm nên hiệu lực còn thấp. Điều đáng quan tâm là mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp Nhà nước chưa được pháp luật của Nhà nước quy định rõ ràng nên tính tự chủ kinh daonh của doanh nghiệp Nhà nước không được đảm bảo. Những nguyên nhân trên đã gây trở ngại và khó khăn cho doanh nghiệp Nhà nước trong việc thực hiện vai trò chủ lức giúp kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 4. Giải pháp Để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, báo cáo của ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội lần thứ VIII đã nhấn mạnh: “Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác”. Kinh tế Nhà nước phải đạt được sự tăng trưởng không chỉ nhanh về tốc độ, mà còn phải đảm bảo cả về chất lượng để có thể đối trọng với các tổ chức kinh tế nước ngoài trong quá trình cạnh tranh. Do vậy, để xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế Nhà nước đáp ứng được nhu cầu mới, cần tập trung giải quyết những vấn đề sau: Một là: xác định rõ ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, vùng trọng điểm theo tiêu thức hợp lý để xây dựng và phát triển doanh nghiệp Nhà nước theo một cơ cấu hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước, tránh tràn lan, dàn đều. Do đó, chỉ nên phát triển những doanh nghiệp Nhà nước có quy mô vừa và lớn là chính, đồng thời phải có trình độ công nghệ, phương pháp, phương tiện hiện đại. Để xác định ngành then chốt, mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm, chúng ta có thể dựa vào các tiêu thức chủ yếu sau: những ngành, vùng kinh tế có tác dụng đẩy nhanh sự tiến bộ khoa học, công nghệ, đảm bảo an ninh quốc phòng, đạt hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao, đem lại GDP và tích luỹ lớn,có tỷ trọng chi phối nền kinh tế quốc dân, đảm bảo cân đối chủ yếu về kinh tế, xã hội của đất nước, những ngành, những vùng tạo ra nhiều công ăn việc làm để tăng thu nhập cho nhân dân, có tác dụng thúc đẩy lôi cuốn, tạo điều kiện thúc đẩy các ngành , các vùng phát triển. Với những tiêu thức trên, có thể tập trung vào các ngành sau: các ngành kết cấu hạ tầng và công trình công cộng, quân sự, an ninh; Các ngành than, chế tạo cơ khí, hoá chất, điện, sắt thép, xi măng, dầu khí, bưu chính viễn thông, hàng không để đảm bảo cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Các ngành đảm bảo nhu cầu một số mặt hàng thiết yếu của nhân dân như: công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; Các khâu trọng yếu nhất trong các lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các khâu thu mua, chế biến, xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thuỷ sản. Hai là: Trên cơ sở xác định các ngành, lĩnh vực trọng điểm, then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế, tiến hành phân loại doanh nghiệp Nhà nước để chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước theo hướng: Đối với doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh vì lợi nhuận mà ở những ngành then chốt, mũi nhọn thì Nhà nước cần tiếp tục đầu tư phát triển và giữ lấy vị trí độc quyền, không tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này. Đối với những ngành và lĩnh vực khác, tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp để nhằm mục đích thu hút vốn, công nghệ, giải quyết việc làm. Đồng thời, qua việc cổ phần hoá lôi cuốn các thành phần kinh tế khác đi theo con đường XHCN. Để làm được việc này, phải trên cơ sở phân loại doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước cần có một danh mục cho phép doanh nghiệp Nhà nước ở ngoài ngành nàom lĩnh vực nào được tiến hành cổ phần hoá đồng thời kèm theo đó là một cơ chế chính sách cụ thể, đồng bộ, quy định rõ tỉ lệ cổ phiếu khống chế, đối tượng được mua cổ phiếu đến đâu và số lượng bao nhiêu và phải tích cực chuẩn bị cho sự ra đời thị trường chứng khoán, Đối với các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá, cần xác định rõ mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền quản lý doanh nghiệp bằng những quy định cụ thể, rõ ràng, có tính pháp lý. Đồng thời có sự phân công, phân cấp rõ ràng về quyền sở hữu để khắc phục tình trạng quản lý đồng chất, vừa thắt chặt nhưng lại vừa buông lỏng như thời gian qua. Ba là: Tổng kết mô hình tổng công ty Nhà nước trên cơ sỏ đó là phương án xây dựng các tổng công ty thực sự trở thành những tập đoàn có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, thực sự là xương sống của nền kinh tế. Đối với các Tổng công ty, kể cả các tổng công ty được thành lập thep quyết định 90/TTg và quyết định 91/TTg đều phải được xem xét, sắp xếp lại để làm cho các tổng công ty không chỉ là cơ quan điều hoà, phối hợp, điều chỉnh, mà phải trở thành một tổ chức kinh doanh thống nhất với các thành viên có quan hệ chặt chẽ nhau, không được biến tổng công ty thành một tổ chức trung gian không cần thiết, thành một tổ chức để thu gom đầu mối quản lý. Bốn là: Về mặt nhà nước, cần có những chính sách, chủ trương đồng bộ, phù hợp để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động, nhất là các chính sách hỗ trợ về vốn, về kinh phí tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Năm là: Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ doanh nghiệp Nhà nước như cán bộ quản trị kinh doanh, giám đốc, bí thư, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, kế toán trưởng… Có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất cho người kinh doanh giỏi. Các khoản chi này có thể lấy từ nguồn đầu tư của ngân sách Nhà nước và cũng có thể trích một tỉ lệ nào đó từ lợi nhuận của doanh nghiệp. Sáu là: Cần làm tốt hơn công tác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35786.doc
Tài liệu liên quan