Mục lục
Phần 1. Lý thuyết chung vềthị trường mở
1. Khái niệm chung vềthị trường mở
2. Hàng hoá và chủthểtham gia NVTTM
2.1. Hàng hoá
2.1.1 Phạm vi hàng hoá được giao dị ch trên thị trường mở.
2.1.2. Một sốhàng hoá được giao dị ch trên TTM ởViệtNam.
2.2. Chủthểtham gia NVTM
2.2.1. Phạm vi thành viên tham gia NVTM
2.2.2. Điều kiện tham gia TTM ởViệt Nam
3. Nội dung hoạt động TTM
3.1. Phương thức mua bán trên thị trường mở
3.1.1. Phương thức mua bán hẳn
3.1.2 Phương thức mua bán lại
3.2. Phươngthức đấu thầu trên TTM
3.2.1. Phương thức đấu thầu khối lượng
3.2.2. Phương thức đấu thầu lãi suất
4. Cơ chếtác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM
4.1. Khái niệm cơ sốti ền tệvà lượng tiên cung ứng
4.2. Cơ chếtác động của NVTTM
5. Ưu điểm của NVTTM so với các công cụkhác
5.1.Ưu điểm nổi bật của NVTTM
5.2.Hạn chếcủa công cụchiết khấu và tái chiết khấu
5.2.1. Cơ chếhoạt động
5.2.2. Hạn chế
5.3. Dựtrữbắt buộc
5.3.1. Cơ chếhoạt động
5.3.2. Hạn ch6. Thực trạng hoạt động của một sốnước trên thế giới.
Phần 2. Thực trạng hoạt động TTM ởViệt Nam hiện nay
1. Sựcần thiết ra đời hoạt động TTM ởViệt Nam
2. Thực trạng hoạt động TTM ởViệt Nam
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
Phần 3: Định hướng và giải pháp phát tri ển NVTTM ởViệt Nam
1. Các định hướng cơbản
2. Giải pháp
2.2. Đa dạng hoá hàng hoá trên TTM
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5022 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động thị trường mở ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng dự trữ tạm thời NHTW tham gia trực
tiếp vào việc ký hợp đồng mua lại chứng khoán của nhà môi giới, tức là NHTW mua chứng
khoán của nhà môi giới; còn nhà môi giới đồng ý mua lại chứng khoán đó vào một ngày
nhất định với một mức giá nhất định. Vì dự trữ bổ sung này sẽ dừng lại một cách tự động
khi hợp đồng mua lại đến hạn nên nghiệp vụ này chỉ là cách bơm thêm dự trữ vào hệ thống
tiền gửi tạm thời mà thôi. Thời gian thực hiện hợp đồng mua lại thường là 7 ngày.
+ Bán- mua đảo ngược: khi cần giảm khối lượng tiền tệ NHTW thực hiện giao
dịch theo hình thức bán- mua đảo ngược với các nhà môi giới, bằng một hợp đồng bán
ngay chứng khoán cho nhà môi giới và một hợp đồng đảo ngược để mua lại tiếp theo các
chứng khoán từ nhà môi giới đó. Thời hạn thực hiện hợp đồng thường là 7 ngày.
3.2.Phương thức đấu thầu trên thị trường mở
Các hình thức mua bán trên thị trường mở là mua bán hẳn và mua bán có thời hạn
đều được thực hiện trên phòng giao dịch thông qua phương thức đấu thầu. Có hai phương
thức mà NHTW áp dụng để đấu thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng .
3.2.1 Phương thức đấu thầu khối lượng
Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ
TTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá
mua hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau :
- NHTW thông báo cho các TCTD mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá cần
mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần mua hoặc cần bán).
- Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần mua hoặc cần
bán theo mức lãi suất do NHTW công bố
Sau khi mở thầu, NHTW xác định khối lượng trúng thầu của các đơn vị tham gia dự
thầu theo nguyên tắc sau :
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHTW
cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính là khồi lượng dự thầu.
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng NHTW cần mua
hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của các TCTD sẽ được phân bổ theo tỷ lệ thuận với
khối lượng dự thầu của các TCTD.
3.2.2.Phương thức đấu thầu lãi suất
Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ sở khối
lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng giấy tờ có giá mà NHTW cần mua hoặc cần bán.
- NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc cần
bán.
- Các đơn vị thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng giấy tờ có giá cần mua
hoặc cần bán ứng với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ phần trăm và
được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. Lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự lãi suất dự
thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự
tăng dần nếu NHTW là người bán.
- Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất (trường hợp NHTW bán) và lãi suất dự
thầu thấp nhất (trường hợp NHTW mua) mà tại đó đạt được khối lượng giấy tờ có giá
NHTW cần mua hoặc cần bán.
Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất hoặc
theo lãi suất riêng lẻ:
+ Lãi suất thống nhất : là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một mức lãi
suất trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán.
+ Lãi suất riêng lẻ : khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức lãi
suất dự thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán.
Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc :
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà
NHTW cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng dự thầu chính là khối lượng trúng thầu.
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng mà NHTW cần mua
hoặc cần bán thì khôí lượng trúng thầu của các TCTD được tính tỷ lệ thuận với khối lượng
dự thầu của các TCTD đó.
4. Cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM
4.1. Khái niệm cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng
Nghiệp vụ TTM được coi là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất, có hiệu quả
nhất vì nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ
số tiền tệ và là nguồn chính gây nên những biến động trong lượng tiền cung ứng. Việc
NHTW mua trên TTM làm tăng cơ số tiền tệ và do đó làm tăng lượng tiền cung ứng, còn
việc bán trên TTM thì thu hẹp cơ số tiền tệ và làm giảm lượng tiền cung ứng. Vậy để hiểu
rõ cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM chúng ta cần lắm chắc các khái
niệm về cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng :
- Cơ số tiền tệ ( hay lượng tiền cơ bản (MB-Money Base) bao gồm lượng tiền trong
lưu thông (C) cộng với lượng tiền dự trữ trong hệ thống các ngân hàng (R ) (bao gồm cả
tiền dự trữ bắt buộc mà các NHTM gửi tại NHTW (RR) và dự trữ vượt quá nằm trong két
của các NHTM(ER)
MB= C +R (1)
R = RR + ER (2)
- Lượng tiền cung ứng( hay mức cung tiền (MS) là tổng số tiền có khả năng thanh
toán. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kì hạn tại các
NHTM(D).
Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ bản bởi do hoạt động “tạo ra
tiền” của các NHTM.
MS = C + D = ( 1+ C/D) D (4)
Để đảm bảo khả năng thanh toán, tránh sự sụp đổ, phá sản của các ngân hàng,
NHTW quy định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhất định (rr). Đó là số tiền bắt buộc mà mỗi
NHTW phải gửi ở NHTW trên tổng số tiền gửi của NHTM
RR = rr * D (3)
Từ (1),(2)và (3) suy ra: MB = rr* D + ER + C
MB = D (rr + ER/D +C/D ) (5)
Từ (4) và (5) suy ra : MS = )1(
D
C
.
D
C
D
ERrr
1 . MB
Số nhân tiền tệ :Mm
Như vậy lượng tiền cung ứng ở trên chỉ gồm tiền mặt và tiền gửi không kì hạn (M1).
Ở các quốc gia phát triển người ta còn có thêm một số thành phần khác vào lượng tiền
cung ứng.
Ta có thể biểu diễn MB và MS theo mô hình sau:
4.2. Cơ chế tác động của NVTTM
NVTTM tác động lên cung tiền và lãi suất trên thị trường bằng việc mua bán các giấy
tờ có giá trên TTM.
- Khi NHTW thay mặt chính phủ đưa chứng khoán ra thị trường thứ nhất để phát
hành, nhân dân và các tổ chức đem tiền mặt đến mua nck. Đó là nghiệp vụ bán trên TTM
của NHTW. Như vậy với nghiệp vụ này NHTW đã hút bớt một lượng tiền ra khỏi lưu
thông hoặc làm cho dự trữ của các TCTD giảm làm giảm khối lượng cho vay tín dụng của
các TCTD; qua đó ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ, số nhân tiền tệ làm lượng tiền cung ứng MS
giảm và lãi suất trên thị trường tăng
- Dĩ nhiên không phải đợi đến khi chính phủ nhờ phát hành, bản thân NHTW cũng
có chứng khoán riêng của nó do tích luỹ hoặc do các đơn vị khắc thế chấp . Khi cần thu hẹp
lượng tiền mặt ngoài lơu thông NHTW vẫn trực tiếp thực hiện nghiệp vụ bán như một hoạt
động bình thường.
Ngược lại với nghiệp vụ bán là nghiệp vụ mua, nếu NHTW muốn phát hành tiền vào
lưu thông quaTTM, nó đơn giản dùng tiền mặt mua chứng khoán trên thị trường thứ cấp
hoặc của các TCTD. Khi cá nhân hay tổ chức bán chứng khoán cho NHTW, chứng khoán
về tay NHTW ngược lại tiền mặt trong nền kinh tế tăng. Như vậy khi mua chứng khoán
trên TTM, NHTW đã thêm một lượng tiền vào lưu thông làm tăng lượng tiền cung ứng và
làm lãi suất thị trường giảm.
Phát hành tiền trên nghiệp vụ TTM cũng được coi là nghiệp vụ phát hành thanh
khiết. Bởi vì tiền mặt tăng thêm trong lưu thông đã được cân đối bởi lượng chứng khoán,
một dạng hàng hoá hay sản vật tăng thêm trong taì sản của NHTW. Đây là cách phát hành
tiền ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
SƠ ĐỒ HOẠT ĐỘNG CỦA NHTW TRÊN TTM
NHTW NHTW bán
100tỷ đôla chứng khoán
Người kinh doanh chứng
khoán Chính phủ
Lệnh thanh
toán cho
NHTW
Ngân hàng phục vụ người kinh doanh
Cụ thể thông qua nghiệp vụ ghi chép cuả kế toán
Cách tốt nhất để nắm được các hoạt động TTM tác động thế nào đến việc thực hiện
CSTT, hay cụ thể là cơ số tiền tệ là dùng các tài khoản T:
Mua trên TTM từ một ngân hàng
Khi NHTW mua 100 đô la chứng khoán từ một ngân hàng và thanh toán các chứng
khoán ấy bằng một séc 100 đô la. Ngân hàng bán chứng khoán đó sẽ gưỉ tờ séc đó vào tài
khoản của nó ở NHTW hoặc sử dụng tờ séc đó để lĩnh tiền mặt từ NHTW. Dù hành động
theo cách nào ngân hàng bán chứng khoán sẽ thấy bản thân nó có thêm 100 đô la tiền dự
trữ và giảm 100 đô la tài sản chứng khoán. tài khoản T cho hệ thống ngân hàng đó là:
Tài sản Có Hệ thống ngân hàng Tài sản Nợ
Chứng khoán : -100 đô la
Tiền dự trữ : +100 đô la
Tại NHTW, Tài sản Nợ tăng lên 100 đô la tiền dự trữ, đồng thời tài sản Có cũng tăng
thêm 100 đô la chứng khoán. Taì khoản T của ngân hàng lúc này là:
Tài sản Có NHTW Tài sản Nợ
Chứng khoán : +100 đô la Tiền dự trữ : +100 đô la
Kết quả mua trên TTM làm tiền dự trữ ngân hàng tăng thêm 100 đô la
nhưng không ảnh hưởng đến lượng tiền lưu hành làm cơ số tiền tệ tăng
thêm 100 đô la.
Mua trên TTM từ giới phi ngân hàng
*1) Trường hợp tổ chức, cá nhân bán 100 tỷ đôla chứng khoán cho NHTW rồi gửi tấm
séc của NHTW vào một NHTM .
Khi mua chứng khoán, tài khoản T của nó được ghi như sau:
Tài sản Có Giới phi ngân hàng Tài sản Nợ
Chứng khoán : - 100 tỷ đôla
Tiền gửi có : +100 tỷ đôla
thể phát séc
Sau khi ngân hàng này nhận tờ séc ấy, nó ghi Có vào tài khoản tiền gửi của khách hàng
100 tỷ đôla và sau đấy gửi séc ấy vào tài khoản của nó ở NHTW do thế có thêm tiền dự trữ:
Tài sản Có Hệ thống ngân hàng Tài sản Nợ
Tiền dự trữ : +100 đôla Tiền gửi có thểphát séc : +100 đôla
NHTW , tài khoản T của ngân hàng như sau:
Tài sản Có NHTW Tài sản Nợ
Chứng khoán :+100 tỷ đôla Tiền dự trữ : +100 tỷ đôla
Như vậy, ta thấy nghiệp vụ mua từ giới phi ngân hàng trên TTM cũng tương tự như
mua từ một ngân hàng trên TTM.
*2) Nếu tổ chức, cá nhân ấy bán chứng khoán cho NHTW lấy séc nhưng đổi séc ấy
thành tiền mặt tại một NHTM thì tác động tới tiền dự trữ là khác nhau:
Cá nhân hay tổ chức đó sẽ nhận 100tỷ đôla tiền mặt trong khi tài sản chứng khoán của
nó giảm 100 tỷ đô la:
Tài sản Có Giới phi ngân hàng Tài sản Nợ
Chứng khoán :-100 tỷ đôla
Tiền mặt : +100 tỷ đôla
Tại NHTW, tài sản Có là chứng khoán tăng 100 tỷ đô la, trong khi tài sản Nợ là tiền lưu
hành tăng 100 tỷ đô la
Tài sản Có NHTW Tài sản Nợ
Chứng khoán : +100 tỷ đôla Đồng tiền lưu hành :+100 tỷ đôla
Kết quả trong trường hợp này là đồng tiền lưu hành tăng 100 tỷ đô la, dự trữ không tăng
làm cơ số tiền tệ tăng 100 tỷ đôla .
Vậy tác động việc mua chứng khoán trên TTM đối với cơ số tiền tệ là như nhau dù tiền
thu được từ vụ bán đó được giữ lại ở trạng thái tiền dự trữ hay tiền mặt.
* Bán chứng khoán trên TTM
Trường hợp này sẽ ngược với trường hợp mua chứng khoán trên TTM. ậ đây chỉ xin
nêu lại vắn tắt như sau:
Khi NHTW bán ra 100 tỷ đôla chứng khoán cho ngân hàng hoặc công chúng thì cơ số
tiền tệ lập tức giảm 100 tỷ đô la . Ví dụ : NHTW bán cho cá nhân 100 tỷ đôla chứng khoán .
Tài sản Có Khách hàng- người mua Tài sản Nợ
Chứng khoán :+100 tỷ đôla
Tiền mặt : -100 tỷ đôla
Tại NHTW , giảm đi 100 tỷ đôla chứng khoán đã bán cho khách hàng, đồng thời cũng
giảm 100 tỷ đôla tiền lưu hành do khách hàng rút tiền mặt để thanh toán chứng khoán.
Tài sản Có NHTW Tài sản Nợ
Chứng khoán : -100 tỷ đôla Tiền mặt lưu thông: -100 tỷ đôla
Cách biểu thịbằng ghi chép tài khoản chữ T cho ta thấy rõ hơn giao dịch mua (bán )với
giá trị 100 tỷ đôla chứng khoán trên TTM không phân biệt chủ thể giao dịch với NHTW
hay giới phi ngân hàng , là cá nhân hay tổ chức; thanh toán chứng khoán bằng séc hay bằng
tiền mặt đều cho ta một kết quả là tăng (hay giảm) tương ứng 100 tỷ đôla trong cơ số tiền tệ.
*Phân tích ảnh hưởng của việc mua bán chứng khoán trên TTM qua
mô hình MD-MS:
Ta có công thức : MS= Mm * MB
Trong đó : MS : Cung tiền tệ của nền kinh tế
Mm : Số nhân tiền tệ
MB : Cơ số tiền tệ
Việc tăng (giảm) MB làm tăng (giảm) cung tiền tệ. Sự thay đổi MS dẫn đến sự thay đổi
tương quan cung cầu trên thị trường tiền; làm tác động đến giá cả của nó là lãi suất.
+ Khi MB giảm làm cho MS giảm (cung tiền tệ dịch chuỷên sang trái, lên trên tử MSo
đến MS1). Giá cả (lãi suất) trên thị trường tăng lên (từ io đến i1).
i
Q1
i1
i0 MD
0 Q2 Lượng tiền thực tế
MS1 MS0
+ Khi MB tăng làm cho MS giảm (cung tiêng dịch chuyển sang phải, xuống dưới từ
MSo đến MS1). Giá cả (lãi suất) trên thị trường giảm xuống(từ io đến i1).
5. Ưu điểm của TTM so với các công cụ khác
NHTW điều hành CSTT bằng các công cụ trực tiếp như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất
chiết khấu và tái chiết khấu, hạn mức tín dụng, tỷ giá hối đoái, tỷ giá ngoại hối… và
công cụ trực tiếp quan trọng nhất là NVTTM .
Trong đó NVTTM là công cụ có hiệu quả nhất của NHTW trong việc điều hành CSTT
của mình.
5.1. Ưu điểm nổi bật của NVTTM
Sở dĩ NVTTM được coi là quan trọng nhất trong điều hành CSTT của NHTW bởi vì nó
là nhân tố quyết định đầu tiên có thể làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở tiền tệ-nguồn gốc
chính làm thay đổi việc cung ứng tiền tệ của NHTW . Ngoài lý do trên nghiệp vụ TTM
còn 5 ưu điểm nổi bật như sau:
- Nghiệp vụ TTM phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTW, trong đó NHTW hoàn toàn
kiểm soát được khối lượng giao dịch. Tuy nhiên việc kiểm soát này là gián tiếp không
nhận thấy được.Ví dụ trong nghiệp vụ chiết khấu NHTW có thể khuyến khích hoặc
không khuyến khích các NHTM, chỉ thông báo lãi suất chiết khấu , mà không kiểm soát
trực tiếp khối lượng cho vay chiết khâú.
- Nghiệp vụ TTM vừa linh hoạt nhưng vừa chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô
nào. Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ, dù ở mức nào đi nữa,
NVTTM cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán.
ngược lại, nếu có yêu cầu thay đổi dự trữ với qui mô lớn, NHTW cũng có đủ khả năng
thực hiện thông qua việc mua hoặc bán một khối lượng lớn tương ứng các chứng khoán.
Q1
i1
i0 MD
0 Q2 Lượng tiền thực tế
MS1 MS0 i
- Nghiệp vụ TTM dễ dàng đảo chiều : nếu NHTW có mắc sai sót nào trong quá trình thực
hiện nghiệp vụ TTM, thì có thể ngay tức khắc sửa sai sót đó bằng các nghiệp vụ
bán(nếu như trước đó mua vào quá nhiều) hay mua (nếu như lúc đó bán ra quá nhiều ).
- Nghiệp vụ TTM có tính an toàn cao: giao dịch trênTTM hầu như không gặp rủi ro, xét
trên cả góc độ của NHTW hay NHTM; vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên TTM
đều là những giấy tờ có gi, có tính thanh khoản cao, không rủi ro tài chính.
- Nghiệp vụ TTM có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ
của các thủ tục hành chính: khi NHTW muốn thay đổi lượng tiền cungứng thì chỉ cần
đưa ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán và sau đó việc mua bán sẽ được thực
hiện ngay.
5.2. hạn chế của công cụ chiết khấu và tái chiết khấu
5.2.1. Cơ chế tác động
Đây là công cụ ảnh hưởng đến khả năng vay nợ của các NHTM, mà bản chất của
nó là lãi suất ngân hàng. NHTW cấp tín dụng dưới nhiều hình thức thông qua đó tác
động đến cung tiền tệ, thông dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và tái
chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu các thương
phiếu của các NHTM là NHTW đã làm tăng khối lượng tiền tệ. Đây là hình thức phát
hành tiền được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá và khi các giấy tờ có giá đáo hạn
NHTW sẽ đòi được các món nợ cho vay.
Thông qua lãi suất tái chiết khấu NHTW có thể khuyến khích giảm hay tăng mức
cung tín dụng đối với nền kinh tế ; đồng thời giảm hoặc tăng mức cung tiền tệ. Khi thực
hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, NHTW sẽ tăng lãi suất chiết khấu. Khi đó các NHTM
sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt cơ hội cho vayvà ngược lại.
Sơ đồ đơn giản như sau:
Hàng hoá
Thương phiếu
Tiền Chiết khấu
mặtthương phiếu
Người sản
xuất
Người
kinh doanh
NHTM
Tiền Tái chiết khấu
mặtthương phiếu
Đây là công cụ đã được nhiều ngân hàng áp dụng từ lâu nhưng hiệu quả thấp thậm
chí có lúc không có tác dụnghoặc có tác dụng ngược chiều.
5.2.2. Hạn chế của công cụ
- Thứ nhất : Công cụ chiết khấu và tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW vì yếu
tố chủ động vay và không vay nằm ở NHTM tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần
vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu đến để xin “tái cấp vốn”. Trong khi đó nghiệp vụ TTM
là công cụ chủ động của NHTW để điều khiển cung tiền tệ bằng cách tác động vào giá
và lãi suất của giấy tờ có giá. Khi mua giấy tờ có giá , người mua cần mua loại có giá
thấp ,lãi suất cao; ngược lại người bán muốn bán với gía cao tức lãi suất thấp. Giá của
giấy tờ có giá hay lãi suất trên TTM là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi
suất trên thị trường. Đó là việc NHTW cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu
thầu trên TTM. Nếu NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu
khối lượng, ở đó lãi suất là cố định do NHTW chỉ đạo.Khi mục tiêu nghiêng về giác độ
bơm rút tiền theo một khối lượng mong muốn thì NHTW thực hiện đấu thầu lãi suất,
ơ’đó lãi suất được thả nổi theo cung cầu của thị trường, còn lãi suất trúng thầu sẽ đạt
được xác đinh tại điểm đạt được khối lượng tiền cần bơm hoặc rút bớt ra khỏi lưu thông.
- Thứ hai : Trong trường hợp NHTW muốn hạn chế cho vay qua cửa khẩu chiết khấu thì
nó sẽ phải tăng lãi suất chiết khấu để hạn chế việc các NHTM đem thương phiếu, kỳ
phiếu đến xin chiết khấu và do vậy mà các ngân hàng cũng hạn chế việc cho vay của
mình làm số nhân tiền tệ giảm. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập
quốc tế nếu NHTW tăng lãi xuất chiết khấu quá caothì các NHTM có thể tìm đến các
nguồn vay khác với lãi suất thấp hơn như tại các ngân hàng khác của nước ngoài.Vì vậy
việc tăng lãi suất chiết khấu là không có hiệu quả . NHTW cũng có thể áp dụng mức lãi
suất phạt để hạn chế cho vaybằng ‘cánh cửa’ chiết khấu. Một vài quốc gia như ở Đức
đã áp dụng hai đường lãi suất song hành, một là lãi suất cơ bản và một là lãi suất phạt
để hạn chế việc lạm dụng cửa sổ chiết khấu ở NHTW. Tuy vậy việc hạn chế sử dụng
công cụ chiết khấu cần được thực hiện một cách thận trọng. Nếu lãi suất phạt quá cao
so với lãi suất thị trường thì hoạt động ngân hàng sẽ không kịp phản ứng khi có nhu cầu
thanh toán. Việc hạn chế mức cho vay và tiếp cận đến cánh cửa chiết khấu nên được
điều chỉnh hợp lý khi thiêú hụt dự trữ trong hệ thống.
5.3. Dự trữ bắt buộc
5.3.1Cơ chế hoạt động
NHTW sẽ sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để nhằm tăng giảm quy mô tín dụng của
các NHTM bằng cách tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.( Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số
lượng phương tiện thanh toán bị vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, tức là NHTM
phải gửi tại NHTM một phần của tổng số tiền gửi mà NHTM nhận được từ dân cư và các
thành phần khác trong nền kinh tế theo một tỷ lệ nhất định). Nếu khả năng thanh toán qúa
lớn (NHTM dư thừa tiền) thì NHTW sẽ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm quy mô tín
dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các NHTM (tăng khối lượng tiền tệ)
5.3.2.Hạn chế
Dự trữ bắt buộc là phương pháp truyền thống của các NHTW trong
hoạt động kiểm soát tiền tệ . công cụ này đã được các nước áp dụng từ rất lâu
nhưng bản thân nó còn một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất : dự trữ bắt buộc là công cụ điều tiết quá mạnh và không ổn
định cho nên trong thực tế các NHTW ít thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Và
việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng và muốn
có hiệu quả vẫn phải đi kèm những biện pháp khác.
Theo mô hình cung ứng tiền tệ giản đơn
D= 1/rr *R
Giả sử khối lượng dự trữ là 100 với tỷ lệ dự trữ bằng 0,1 thì lượng tiền gửi là 1000.
Khi tỷ lệ dự trữ rr=0,2 thì khối lượng tiền gửi tăng lên là 50000. Như vậy khi tăng
tỷ lệ dự trữ lên gấp đôi thì lượng tiền gửi đãn tăng lên 5 lần và nó còn ảnh hưởng
nhiều đến số nhân tiền tệ.
Thứ hai : dự trữ bắt buộc là công cụ không mang tính công bằng vì mọi NHTM đều
phải chịu một tỷ lệ dự trữ bắt buộc là như nhau. Do đó nó là công cụ khá cứng nhắc.
Việc không ngừng thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác động mạnh tới hoạt độngcủa
các NHTM , gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý
khả năng thanh khoản của các ngân hàng đó khó khăn hơn.
Thứ ba : việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề về khả năng thanh khoản ngay
cả với ngân hàng có dự trữ quá mức thấp.
Với nhiều quốc gia công cụ này đã bị hạ thấp và một vài trường hợp đã bị loại bỏ, tuy
nhiên dự trữ bắt buộc vẫn có vai trò nhất định của mình trong việc điều hành CSTT .
Nhưng phải vận dụng nó một cách thận trọng và phải kết hợp với các phương pháp
khác.
Như vậy so với các công cụ khác thì NVTTM có ưu thế hơn hẳn. Nhờ các ưu điểm
của nó mà tới nay hầu hết các NHTW đều đề cao NVTTM như một công cụ đầu bảng
trong hệ thống các công cụ điều hành CSTT .
6. Thực trạng hoạt động tại một số nước trên thế giới
Ở Anh , NVTTM đã được sử dụng từ rất lâu và đã trở thành một công cụ linh hoạt
của CSTT của NHTW Anh. ở đây, các loại hàng hoá giao dịch trên thị trường
không bị giới hạn về thời gian và các chủ thể tham gia cũng không phân biệt là cá
nhân hay là tổ chức. Các loại trái phiếu dài hạn của chính phủ có đảm bảo và các tín
phiếu kho bạc, kỳ phiếu thương mại được giao dịch.Ở Anh các giao dịch về trái
phiếu dài hạn được coi là quan trọng hơn trong việc kiểm soát tín dụng, NHTW có
thể giảm phát hành tín phiếu kho bạc và tăng phát hành các tín phiếu trung và dài
hạn.các tín phiếu có thời hạn dài hơn có khả năng được các cá nhân hay các tổ chức
ngoài hệ thống tài chính mua hơn là trái phiếu kho bạc – loại này phần lớn nằm
trong các ngân hàng và TCTD vì đây được coi như là một khoản dự trữ để đảm bảo
khả năng thanh toán cho ngân hàng và các TCTD. VIệc tăng cường phát hành trái
phiếu dài hạn và hạn chế tín phiếu kho bạc có tác động kép.
Trước hết, người mua trái phiếu là các tổ chức phi ngân hàng và các cá nhân
làm giảm lượng tiền gửi của các TCTD . Khiến cho các TCTD phải giảm việc cho
vay. Thứ hai Tín phiếu kho bạc trở nên khan hiếm , dự trữ của các TCTD giảm, từ
đó cũng làm giảm khả năng cho vay và làm giảm lượng tiền cung ứng.
ỞMỹ, hoạtđộng mua bán chứng khoán hầu hết là chứng khoán nợ của chính
phủ(trái phiếu, tín phiếu) nhằm mục đích điều chỉnh mức lãi suất và mức dự trữ
trong ngân hàng theo hướng mong muốn. Vì Mỹ có thị trường tài chính phát triển,
thị trường đối với chứng khoán chính phủ thoả mãn các điều kiện đòi hỏi của
NVTTM nên doanh số giao dịch bình quân một ngày rất lớn (100 $/ngày). đây là
khối lượng giao dịch ở mức rộng và mạnh nhất trên thị trường tài chính nước Mỹ.
Nó có thể đảm đương một khối lượng giao dịch rất lớn với tất cả các ngân hàng,
doanh nghiệp, cá nhân và các nhà môi giới… bằng điện thoại và các dịch vụ mạng
cáp kết nối giữa các giao dịch viên các khách hàng trên toàn nước Mỹ. Các giao
dịch mua, bán chứng khoán diễn ra hàng ngày thông qua phòng giao dịch đặt tại
ngân hàng dự trữ liên bang Newyork.
Vì NHTW bán chứng khoán có xu hướng giảm tốc độ tăng trưởng của tiền
gửi và tín dụng ngân hàng. Vì khi bán chứng khoán chính phủ cho người kinh
doanh, giá trị tài khoản tiền gửi dự trữ tại ngân hàng liên bang khu vực của ngân
hàng nơi người giao dịch đặt tài khoản sẽ giảm. theo đó khả năng thực hiện cho vay
và các hình thức tín dụng khác của ngân hàng sẽ giảm và ngược lại.
Ngày nay, Fed đặt mục tiêu gắn lãi suất quỹ liên bang với lãi suất cho vay
dự trữ qua đêm giữa các ngân hàng. Nếu Fed muốn tăng lãi suất quỹ liên bang nhằm
hạn chế cho vay và chi tiêu, nó thường bán chứng khoán trên TTM , giảm dự trữ mà
ngân hàng có thể sử dụng để cho vay, buộc ngân hàng phải vay thêm dự trữ.
Điều này, có xu hướng nâng cao lãi suất trên thị trường , hạn chế các quan hệ kinh
tế. Mặt khác nếu NHTW muốn hạ thấp lãi suất nhằm khuyến khích cho vay và chi tiêu
trong nền kinh tế, nó sẽ mua chứng khoán trên TTM mở rộng dự trữ của các ngân hàng, mở
rộng khả năng cho vay mới, làm giảm áp lực vay thêm dự trữ trên thị trường vốn liên bang.
Điều này có xu hướng hạ thấp lãi suất, đẩy nhanh các quá trình kinh tế.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG MỞ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Sự cần thiết phải ra đời hoạt động TTM ở Việt Nam
Với Việt Nam, NVTTM là một công cụ rất quan trọng và cần thiết trong việc điều
hành CSTT ở Việt Nam. Sự cần thiết đó thể hiện ở một số điểm sau đây:
Do hạn chế của công cụ trực tiếp trong việc điều hành CSTT. Qua thực trạng điều
hành CSTT ở Việt Nam trong thời gian qua, có thể thấyhạn chế của công cụ trực
tiếp là: thiếu chủ động, hiệu quả thấp, sự phối hợp chưa chặt chẽ, chưa thực sự phản
ánh tín hiệu thị trường. Do đó cần thiết phải có công cụ gián tiếp- NVTTM để có
thể điều hành CSTT một cách linh hoạt và chủ động.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với xu thế hội nhập quốc tế, Việt Nam phải
có thị trường tài chính phát triển mới có thể tham gia vào thị trường quốc tế. Công
cụ NVTTM sẽ góp phần phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA005.pdf