Đề tài Thực trạng lạm phát ở Việt Nam và giải pháp kiềm chế lạm phát

Lời mở đầu 1

Chương 1:Tổng quan chung về lạm phát 2

1.1.Khái quát chung về lạm phát 2

1.1.1.Khái niệm 2

1.1.2.Nguyên nhân gây ra lạm phát 4

1.1.2.1.Lạm phát do cầu kéo 4

1.1.2.2.lạm phát do chi phí đẩy 5

1.1.2.3.Lạm phát do thâm hụt ngân sách 7

1.2.Tác động của lạm phát 8

1.2.1.Tác động phân lại của cải và thu nhập 8

1.2.2.Tác động đến tổng sản lượng và hiệu quả kinh tế. 8

Chương 2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 10

2.1.Thực trang lạm phát ở Việ Nam 10

2.1.1.Thời kì trước đổi mới(trước 1986) 10

2.1.2.Thời kì bắt đầu đổi mới(1986-1990 10

2.1.3.Thời kì kinh tế đi vào ổn định(1991-1995) 10

2.1.4.Thời kì nền kinh tế có dấu hiệu trì trệ(1996-2000). 10

2.1.5.Thời kì nền kinh tế có bước phát triển mới(2001-2004). 10

2.1.6.Lạm phát trong năm 2004,2005 11

2.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát 11

Chương 3:Các biện pháp kiềm chế lạm phát 13

3.1.Các biện pháp kinh tế chung 13

3.2.Chính sách tài khóa. 13

3.2.Chính sách tiền tệ, tín dụng 13

3.3.1.Kiểm soát cung tiền 14

3.3.2.Kiểm soát quá trình tạo tiền của ngân hàng trung ương 14

Kết Luận 17

Tài liệu tham khảo

doc19 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng lạm phát ở Việt Nam và giải pháp kiềm chế lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tiền tệ cao nhất và tỷ lệ lạm phát bình quân cao nhất trên 10.000%. Việc tỷ lệ lạm phát cao trong mọi trường hợp trong đó tỷ lệ tăng trưởng tiền cao có thể được coi là một sự kiện ngoại sinh là một chứng cứ vững chắc rằng tăng trưởng tiền tệ cao gây nên lạm phát cao. Tuy nhiên ý kiến của Friedman thực tế cho rằng những biến động tăng lên trong mức giá cả là một hiện tượng tiền tệ chỉ khi nào những biến động tăng lên đó từ một quá trình kéo dài với định nghĩa lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài thì đa số các nhà kinh tế phái tiền tệ hay phái Keynes đều đồng ý với ý kiến của Friedman. Phái tiền tệ tin rằng một mức giá cả tăng kéo dài không thể là do bất kỳ nguyên nhân nào khác ngoài việc tăng cung tiền tệ gây nên.Trong cách phân tích của phái tiền tệ, cung tiền tệ được coi là nguyên nhân duy nhất làm dịch chuyển đường tổng cầu, cũng chính là nguyên nhân làm nền kinh tế chuyển dịch. Tổng mức giá P P1 P2 P3 P4 1’ 2 3 4 Y Yn AD1 AD2 AD3 AD4 AS4 AS3 AS2 AS1 Y’ 1 2’ 3’ Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1 với sản phẩm ở mức tỷ lệ tự nhiên, giá cả tại P1. Nếu cung tiền tệ tăng lên đều đặn dần dần trong suốt cả năm thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trước tiên trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động đến điểm 1’, sản phẩm có thể tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên Y’. Nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ làm lượng tăng lên, đường tổng cung nhanh chóng di chuyển vào. Nó sẽ dừng di chuyển khi nào đạt đến AS2. Tại đó nền kinh tế quay trở lại mức tự nhiên của sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn. Tại điểm thăng bằng nối (điểm 2), mức gia tăng từ P1 lên P2. Nếu năm sau đó cung tiền tệ tăng lên, đường tổng cầu sẽ lại di chuyển sang phải đến AD3, đường tổng cung di chuyển vào từ AS2 đến AS3, nền kinh tế sẽ chuyển động sang điểm 2’ sau đó sang 3, mức gia tăng lên P3. Cứ như vậy nếu cung tiền tệ tiếp tục tăng thì nền kinh tế sẽ tiếp tục chuyển động đến những mức giá càng cao hơn nữa. Khi cung tiền tệ còn tăng thì quá trình này sẽ tiếp tục và lạm phát sẽ.1 xảy ra. 1.1.2.Nguyên nhân gây ra lạm phát. 1.1.2.1.Lạm phát do cầu kéo. Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận thấy lượng tiền không lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hóa. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng. Chính sách tiền tệ lạm phát có thể xảy ra khi mục tiêu công ăn việc làm cao. Ngay khi công ăn việc làm đẩy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại do những xung đột trên thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp khi có công ăn việc làm đẩy đủ (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) sẽ lớn hơn 0. Nếu ấn định một chỉ tiêu thất nghiệp thấp dưới tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ tạo ra một địa bàn cho một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn và lạm phát phát sinh. Tổng mức giá cả P4 P3 P2 P1 1 2 3 4 1’ 2’ 3’ AD1 AD2 AD3 AD4 AS4 AS3 AS2 AS1 Y Y’ Yn Nếu những nhà hoạch định chính sách có chỉ tiêu thất nghiệp (giả sử 4%) thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (6%) thì họ sẽ cố gắng đạt được một chỉ tiêu sản phẩm lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm ký hiệu Y1. Giả sử ban đầu ở điểm 1, nền kinh tế ở mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm nhưng dưới mức chỉ tiêu sản phẩm Y1. Để đạt chỉ tiêu thất nghiệp 4%, các nhà hoạch định chính sách ban hành các chinh sách để tăng tổng cầu làm đường tổng cầu di chuyển đến AD2, nền kinh tế chuyển đến điểm 1’, sản phẩm ở tại Y1 và đạt mục tiêu thất nghiệp 4%. Vì tại Y1 tỷ lệ 4% thất nghiệp là dưới mức tỷ lệ tự nhiên nên lương sẽ tăng lên và đường tổng cung di chuyển vào đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang điểm 2. Nền kinh tế lại sẽ tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 6% nhưng ở mức giá cả P2 cao hơn. Do thất nghiệp lại cao hơn mức chỉ tiêu, các nhà hoạch định chính sách sẽ di chuyển đường tổng cầu đến AD3 để đạt chỉ tiêu sản phẩm đến điểm 2’, toàn bộ quá trính ẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa hơn. Kết quả là mức giá cả tăng đều dần và lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách không thể tiếp tục di chuyển đường tổng cầu thông qua chính sách tài chính do những giới hạn trong việc chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Do đó họ phải áp dụng chính sách tiền tệ bành trướng, do đó gây nên tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. Như vậy theo đuổi một chỉ tiêu sản phẩm quá cao hay tương đương là một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp là nguồn gốc sinh ra chính sách tiền tệ lạm phát. 1.1.2.2.Lạm phát do chi phí đẩy Ngay cả khi sản lượng chưa đạt mức tiềm năng nhưng vẫn có thể xảy ra lạm phát ở nhiều nước, kể cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện tại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng gọi là “lạm phát đình trệ”. Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản: xăng, dầu, điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả lại tăng lên và sản lượng giảm xuống. Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân như thiên tại, chiến tranh, biến động chính trị kinh tế... Lạm phát chi phí cũng có thể là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao. Nó xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên. Tổng mức giá cả P1 P2 P3 P4 1’ 2 3 4 Y Yn AD1 AD2 AD3 AD4 AS4 AS3 AS2 AS1 Y’ 1 2’ 3’ Lúc đầu nền kinh tế ở tại điểm 1. Giả định công nhân đòi tăng lương do họ muốn tăng lương thực tế hoặc do họ dự đoán lạm phát sẽ lên cao nên đòi tăng lương để khớp với mức lạm phát. ảnh hưởng của việc tăng đó tương tự như một cú sốc cung tiêu cực làm đường tổng cung di chuyển vào đến AS2. Nếu chính sách tài chính, tiền tệ không thay đổi thì nền kinh tế chuyển tới điểm 1’ sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên trong khi giá cả tăng lên. Khi đó do sản phẩm giảm, thất nghiệp tăng, các nhà hoạch định chính sách sẽ thức hiện chính sách nhằm tăng đường tổng cầu đến AD2, quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm tại điểm 2 và mức giá cả P2. Nếu việc tăng lương lại tiếp tục thì đường tổng cung lại di chuyển vào đến AS3, thất nghiệp lại phát triển khi chuyển đến điểm 2’, các chính sách năng động lại được sử dụng để di chuyển đường tổng cầu đến AD3 và đưa nền kinh tế trở lại tình hình công ăn việc làm đầy đủ với mức giá cả P3. Nếu quá trình này tiếp tục thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả, nghĩa là gây lạm phát. Nếu lạm phát cầu kéo đi liền với thời kỳ mà thất nghiệp thấp hơn mức tỷ lệ tự nhiên thì lạm phát chi phí đấy lại lại đi liền với những thời kỳ mà thất nghiệp cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên. Khi lạm phát cầu kéo gây nên tỷ lệ lạm phát cao hơn thì lạm phát dự tính cuối cùng sẽ tăng lên làm cho công nhân đòi tăng lương, nên tiền lương thực tế của họ không giảm xuống. Vì vậy cuối cùng lạm phát cầu kéo có thể gây nên lạm phát phí đẩy. 1.1.2.3. Lạm phát do thâm hụt Ngân sách: Chính phủ có thể trang trải thâm hụt ngân sách bằng cách bán trái khoản cho công chúng hoặc tạo ra tiền tệ (hay in tiền). Bán trái khoán cho công chúng không có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở tiền tệ và do đó đến cung tiền tệ, vì vậy nó sẽ không có ảnh hưởng rõ ràng đến tổng cầu và sẽ không có lạm phát. Ngược lại việc tạo ra tiền tệ có ảnh hưởng đến tổng cầu và có thể gây ra lạm phát. Thâm hụt ngân sách được trang trải bằng in tiền sẽ gây ra lạm phát nếu ngân sách thâm hụt trong một thời kỳ khá dài. Trong thời kỳ đầu nếu thiếu hụt được trang trải bằng tạo ra tiền tệ thì cung tiền tệ sẽ tăng làm đường tổng cầu dịch sang phải và mức giá cả tăng lên. Nếu thâm hụt ngân sách vẫn xảy ra trong thời kỳ sau, cung tiền tệ sẽ lại tăng lên và đường tổng cầu lại di chuyển sang phải làm mức giá cả tăng hơn nữa. Khi thâm hụt còn dai dẳng và chính phủ phải tin tiền để trang trải thâm hụt đó thì quá trình này sẽ tiếp tục và đưa đến lạm phát kéo dài. Tuy nhiên nếu là thâm hụt tạm thời thì nó sẽ không gây nên lạm phát trong thời kỳ thâm hụt xảy ra, tiền tệ sẽ tăng lên để trang trải thâm hụt. Việc di chuyển ra của đường cầu sẽ làm mức giá cả tăng lên trong thời kỳ sau không còn thâm hụt thì không còn nhu cầu in tiền nữa. Đường tổng cầu sẽ không di chuyển nữa, mức giá cả sẽ không tiếp tục tăng. Như vậy sự tăng lên một đợt trong cung tiền tệ do thâm hụt tạm thời chỉ gây nên sự tăng lên một đợt trong mức giá cả và lạm phát không mở rộng. Mặc dù kết quả là lạm phát nhưng chính phủ vẫn thường xuyên trang trải thâm hụt dai dẳng bằng tạo thêm tiền. Nếu các nước đang phát triển bị thâm hụt ngân sách, họ không thể trang trải bằng phát hành trái khoán do không có một thị trường vốn phát triển nên phải dùng đến cách in tiền. Kết quả là khi bị thâm hụt nghiêm trọng so với GNP của họ thì cung tiền tệ tăng trưởng với tỷ lệ cao và gây nên lạm phát. Ngược lại ở những nước phát triển đặc biệt là Mỹ do có thị trường chứng khoán nhà nước phát triển tốt nên có thể phát hành nhiều trái khoán để tài trợ thâm hụt. Tuy nhiên không phải thâm hụt tại Mỹ không có nguy cơ lạm phát bởi Fed có thể có mục tiêu ngăn chặn lãi suất cao. Khi chính phủ phát hành trái khoán để tài trợ thâm hụt có thể gây nên áp lực với lãi suất. Khi đó Fed có thể mua trái khoán để nâng giá trái khoán và ngăn chặn lãi suất tăng, kết quả là cung tiền tăng lên và gây phát sinh lạm phát. 1.2.Tác động của lạm phát. 1.2.1. Tác động phân lại của cải và thu nhập. Tác động đầu tiên của lạm phát lên đời sống kinh tế là làm thay đổi lãi suất. Và vì lãi suất này tác động nhiều mặt đến thu nhập, tiêu dùng và đầu tư, cho nên thông qua lãi suất, lạm phát tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế vĩ mô và vi mô. Khi giá cả tăng lên một cách bất thường, người mất là những người đang nắm các tài sản danh nghĩa, còn người được là những người có các khoản nợ tính theo các giá trị danh nghĩa. Các điều khoản của hợp đồng danh nghĩa ban trong việc mua hoặc bán, cho vay hoặc đi vay,đều có thể được viết ra có tính đầy đủ tới lạm phát thông thường, nhưng chúng không thể tính tính tới lạm phát bất thường. 1.2.2.Tác động đến tổng sản lượng và hiệu quả kinh tế. Lạm phát có hại đến hiệu quả kinh tế do nó làm sai lệch những tín hiệu giá. Nếu lạm phát ở mức thông thường, giá thị trường của một hàng hóa tăng lên thì cả người mua và người bán sẽ biết là đã có một sự thay đổi thực sự trong tình hình cung hoặc cầu đối với hàng hóa đó và họ có phản ứng thích hợp. Ngược lại, nếu lạm phát cao, tốc độ tăng giá tiêu dùng không ngừng thay đổi, các cửa hàng sẽ liên tục thay đổi giá niêm yết, điều này đến lượt nó, sẽ làm cho những thay đổi trong giá tương đối không thể nhận ra được nữa. Nền kinh tế sẽ rối loạn, ảnh hưởng lớn đến sản lượng và việc làm. Khi có lạm phát cao, chi phí cơ hoojicuar việc giữ tiền ca buộc dân chúng giảm bớt lượng tiền thực tế đang giữ. Xã hội phải dùng một số lượng nguồn lực lớn hơn vào việc thực hiện các hoạt động giao dịch kinh doanh và do đó còn ít nguồn lực hơn dành cho việc sản xuất và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Mọi người sẽ đi đến ngân hàng nhiều hơn, sẽ “mòn giày’’ và tiêu tốn thời gian quý giá. Chúng ta gọi hiện tượng này là chi phí giày da của lạm phát cao. Nhưng đây không phải là những chi phí duy nhất do lạm phát gây ra. Chi phí thực đơn của lạm phát là một ví dụ điển hình. Chi phí thực đơn của lạm phát chính là nguồn vật chát cần thiết để in lại các biểu giá khi giá cả thay đổi. Chẳng hạn, các nhà hàng phải làm lại thực đơn, các công ty du lịch phải làm lại bảng giá, các hãng vận tải cần phải điều chỉnh lại giá cước... Đấy là chưa kể đến việc giá trị thực tế của các quá trình lương bổng và phúc lợi của nhà nước bị xói mòn nặng nề khi lạm phát tăng lên. Giá trị thực tế của các bậc lương, các khoản tiền hưu trí, tiền trợ cấp suy giảm nghiêm trọng khi mà giá của mọi hàng hóa bị đội lên hàng ngày. Ngoài những hậu quả do lạm phát gây ra, thì lạm phát ở những mức thấp nhất định nào đó lại trở thành cần thiết đối với những nước đang phát triển.Tác động phân bổ lại nguồn lực.Tác động phân bổ lại nguồn lực của lạm phát liên quan đến sự mất cân đối trong cơ cấu của nền kinh tế khi muốn tăng trưởng cao nhưng lại tồn tại nhiều khiếm khuyết, hạn chế, và yếu kém. Tình trạng mất cân đối lớn thường xuất hiện là mất cân đối giữa cầu và cung lương thực-thực phẩm (cung thì nhỏ hơn cầu). giữa xuất khẩu-nhập khẩu(ngoại tệ có hạn do nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu), ngân sách thâm hụt và bị hạn chế do thu được ít nhưng nhu cầu chi tiêu cao. Để kiểm soát lạm phát cần phải loại bỏ được những mất cân đối trên,.Bằng cách này lạm phát đã góp phần điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế, phân bổ lại nguồn lực một cách hợp lí hơn, tăng hiệu quả của sản xuất của nền kinh tế. Chương 2:Thực trạng lạm phát ở Việt Nam. 2.1.Thực trạng lạm phát ở Việt Nam. 2.1.1.Thời kì trước đổi mới.(trước 1986) Nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp nên vấn đề giá cả chưa chịu tác động của qui luật thị trường và do đố lạm phát không xuất hiện. Tuy nhiên, giai đoạn 1976-1985, nền kinh tế có nhiều biểu hiện suy thoái, khủng hoảng va lạm phát. Thời kì này, vay nợ từ nước ngoài chiếm 38,2% tổng số thu ngân sách nhà nước và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Bội chi ngân sách nhà nước vào năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% so với GDP. Đây là tình trạng đất nước làm không đủ ăn, tình hình kinh tế, xã hội khó khăn không kể xiết. 2.1.2.Thời kì bắt đầu đổi mới(1986-1990) Bước sang thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. sau ĐH Đảng 6 cuộc đổi mới đã đạt được những kết quả đầu bước đầu rất đáng khích lệ nhất là từ năm 1989. Tuy nhiên, đây vẫn là thời kì khủng hoảng kinh tế-xã hội, kinh tế phát triển chậm và bất ổn định. Trong giai đoạn này hầu hết các cân đối lớn đều căng thẳng:Thâm hụt ngân sách ở mức 8% so với GDP, lạm phát phi mã đã được đẩy lùi song vẫn còn rất cao. 2.1.3.Thời kì kinh tế đi vào ổn địng(1991-1995) Giai đoạn 1991-1995, tình hình kinh tế-xã hội nước ta có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, liên tục và toàn diện, nền kinh tế bắt đầu vượt qua khủng hoảng và đi vào ổn định. Tổng sản phẩm trong nước và ngoài nước tăng hơn 8,2% , vượt trội hơn so với tất cả các giai đoạn trước đó, ổn định và liên tục, tăng trưởng từ bản thân nền kinh tế ít dựa vào bao cấp và trợ lực từ nước ngoài. Lạm phát bắt đầu được đẩy lùi. 2.1.4.Thời kì nền kinh tế có dấu hiệu trì trệ.(1996-2000) Bước sang giai đoạn 1996-2000, tình hình kinh tế xã hội đi vào thế ổn định và phát triển. Tuy nhiên khủng hoảng kinh tế khu vực đã có tác động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế phải đói mặt với những thách thức quyết liệt từ những yếu tố không thuận lợi từ bên ngoài và thiên tai liên tiếp ở trong nước. Điểm đặc biệt trong thời kì này là đi cùng với tốc độ tăng trưởng nền kinh tế có chiều hướng chững lại và đi xuống thì tỉ lệ lạm phát dưới mức kiểm soát và chuyển sang xu thế thiểu phát. 2.1.5.Thời kì nền kinh tế có bước phát triển mới(2001-204) Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và ổn định, trong bốn năm 2001-2004, nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu khả quan. Tốc độ tăng trưởng tương đối cao, mọi mặt của đời sống xã hội được cải thiện và phát triển:Tỉ lệ lạm phát các năm giai đoạn này cũng tăng dần lên từ 0,6% năm 2000 lên 9,5% năm 2004 (năm 2001, chỉ số giá ở mức 0,8%, 2002 là 4%, năm 2003 là 3,0%). Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển mạn của nền kinh tế, năm 2004, chỉ số giá tiêu dùng là 9,5%, mức tăng cao nhất trong 9 năm qua và cũng là năm đầu tiên kể từ năm 1999, tỉ lệ lạm phát vượt ngưỡng do quốc hội đề ra(5%). 2.1.6.Lạm phát trong năm 2004, 2005 Câu chuyện lạm phát trở lại trở vào năm 2004, chỉ mới tháng 2 thì nó bắt đầu tăng vọt một cách không ngờ lên 4,2%sau hơn 10 nưm yên ắng, lạm phát tiếp tục tăng cho đến những tháng cuối cùng của năm rồi dừng lại đột ngột ở mức 9,5%.Và lạm phát không chỉ như cơn gió thoảng qua, năm 2005, tỉ lệ lạm phát ở mức 8,5%.Nguyên nhân gây nên lạm phát không chỉ do ảnh hưởng của giá cả thế giới tăng, giá dầu thô vẫn không ngừng gia tăng và dịch cúm gia cầm vẫn chưa được giải trừ. Lí lẽ thứ hai cho rằng lạm phát bắt nguồn từ tiền tệ, nghĩa là sự tăng cung tiền một cách quá mức. ở cách lí giải này, dù bất cứ giá cả của loại hàng hóa nào có tăng thì giá cả của hàng hóa nào đó phải giảm xuống nếu lượng tiền trong nền kinh tế là không đổi. Và bất cứ trường hợp nào gây tăng giá đều bắt nguồn từ nguyên nhân tiền tệ.Bằng cả hai cách đo cơ bản bổ sung cho nhau là khối lượng tền mạn và khối lượng tiền tệ bơm ra cho nền kinh tế đều cho thấy tốc độ tăng hàng năm là quá cao và tro ng một thời gian dài. Lập luận này còn thuyết phục hơn khi đặt câu hỏi so sánh lạm phát Việt Nam so với các nước có hòa cảnh tương tự. 2.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát. Lạm phát có xu hướng thấp xuống, sau 4 tháng mới có 3%, thấp hơn cùng kì 2 năm trước. Đứng trước tình hình này, nhiều người đã cho rằng không có gì phải phàn nàn về mức lạm phát hiện nay và có thể yên tâm về mức lạm phát nưm 2006.Quan điểm này không phải không có cơ sở khi xem xét các yếu tố tác động đến lạm phát trong thời gian qua.Tốc độ tăng vốn huy động tiếp tục cao hơn tốc độ tăng dư nợ tín dụng, có nghĩa là tiền trong lưu thông vào ngân hàng thương mại nhiều hơn tiền trong ngân hàng thương mại ra lưu thông, làm giảm sức ép đối với việc tăng giá tiêu dùng. Do thuế suất thuế nhập khẩu được cắt giảm theo cam kết hội nhập với các nước trong khu vực, nên hàng hóa từ các nước này nhập khẩu vào nước ta sẽ tăng lên về mặt lượng và giá cả giảm xuống, làm giảm sức ép đối với việc tăng giá tiêu dùng. Do có một lượng tiền không nhỏ trong lưu thông trong thời gian qua được thi hút vào các loại hàng hóa dịch vụ không phải là hoàng hóa, dịch vụ tiêu dùng mà giá cả những mặt hàng này có tốc độ tăng phi mã nên cũng làm giảm sức ép đối với việc tăng giá các loại hàng hóa dịch vụ tiêu dùng. Tuy tăng thấp hơn cùng kì, nhưng lạm phát vẫn không thể coi thường. Cơ sở cảnh báo trên là diễn biến của những yếu tố tác động đến giá cả trong thời gian tới. Một là một lượng tiền quá lớn vừa qua đã được dồn vào các cơn số giá vàng, giá cả cổ phiếu sẽ chuyển sang chi dùng cho đời sống khi những cơn sốt này giảm thiệt hoặc bong bóng bị xì hơi. Giá vàng dù sẽ còn diễn biến phức tạp theo sự biến động giá trên thị trường thế giới, theo chiều hướng răng cưa lúc tăng lúc giảm, sẽ làm cho các nhà đầu tư mua vào lúc giá thấp, bán vào lúc giá cao, nhưng cú đầu tư vừa qua đã làm cho nhà đầu tư ít vốn mà lại chạy theo phong trào nên thua lỗ nặng. Hai là giá xăng dầu thế giới hiện ở mức 70USD một thùng, đã có lúc vượt qua mức 75USD một thùng cao nhất tính từ 1983 đến nay, nếu tình hình hạt nhân ở Iran diễn biến phức tạp hơn thì có thể còn tăng cao hơn nữa,. Sau khi đã giảm thuế suất thuế nhập khẩu xăng dầu xuống còn 0%, nhưng hiện nay giá xăng dầu của nước ta đã tăng ở mức khá cao. Xăng dầu là đầu vào của hầu hết các ngành sản xuất kinh doanh và chi tiêu của các hộ gia đình. Khi xăng dầu tăng sẽ có tác động dây chuyền đến mặt bằng giá cả hàng hóa dịch vụ nói chung và mặt hàng tiêu dùng nói riêng. Ba là tiền lương doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tă ng lên, tiếp đén sẽ là khu vực doanh nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, rồi đến khu vực hành chính....sẽ tạo lên sức ép lên giá tiêu dùng. Chương 3:Các biện pháp kiềm chế lạm phát . 3.1. Các biện pháp kinh tế chung. -Tiếp tục hoàn thành các nhân tố trong quan hệ của nền kinh tế( cải cách doanh nghiệp, ngân sách, thuế, hệ thống ngân hàng) với mục tiêu hình thành các quan hệ thị trường minh bạch và bình đẳng. -Cần có sự điều chỉnh định hướng chính sách kinh tế một cách hợp lí-đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát trong dài hạn lên trên mục tiêu tăng trưởng kinh tế.. -Một biện pháp chống lạm phát hàng đầu là huy động triệt để cơ sở vật chất và lao động hiện có, phục hồi quá trình đầu tư, tập trung nguồn vốn vào các dự án ưu tiên.. 3.2.Chính sách tài khóa. Chính sách tài khóa cũng đặc biệt quan trọng đối với ổn định và phát triển kinh tế cũng như kiềm chế lạm phát. Về phía chính phủ, có thể điều tiết bằng cách giảm thuế nhập khẩu. Ví dụ cắt giảm thuế nhập khẩu một số mặt hàng, thuế xuất bằng 0%, hoặc xuất Quỹ dự trữ quốc gia để ổn định giá cả. Tuy nhiên đay chỉ là biện pháp tình thế, nếu về lâu dài cứ tiếp tục xuất ngân sách ra bù lỗ thế này sẽ càng làm méo mó giá cả trong nước, tạo điều kiện xuất lậu qua biên giới tác động tiêu cực đến ngân sách quốc gia, tác động tiềm ẩn gây nguy cơ lạm phát. Do đố nhà nước phải có biện pháp thắt chặt tài chính, hạn chế những khoản chi bù lỗ để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Kiên quyết giữ vững mức bội chi ngân sách nhà nước ở mức hợp lí so với GDP trên cơ sở phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi, nâng cao hiệu quả đầu tư, tránh lãng phí, chống thất thoát tro ng xây dựng cơ bản, chống tham nhũng một cách quyết liệt. Tăng tỷ lệ thu ngân sách nhà nước bằng các biện pháp khai thác các nguồn thu, tích cực chống thất thu. Triệt để thực hiện tốt các pháp leejnhveef thực hành tiết kiệm chống lãng phí và chống tham nhũng, kiểm soát chặt chẽ chi thường xuyên, cắt bỏ các khoản chi chưa thật cần thiết. 3.3.Chính sach tiền tệ tín dụng. 3.3.1.Kiểm soát cung tiền. Ngân hàng trung ương để ổn định sức mua của đồng tiền, chống và kiểm soát lạm phát do sử dụng các chính sách tiền tệ để quản lý việc cung ứng tiền tệ phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Do đố chính phủ phải thực thi các chính sách tiền tệ thận trọng, hợp lí, song phải điều chỉnh kịp thời linh hoạt theo tín hiệu thị trường, góp phần kiềm chế lạm phát khi giá cả biến động. Trong giải pháp này chính phủ quan tâm đến các vấn đề sau: 3.3.1.1.Cung ứng tiền của chính phủ. Việc phát hành tiền của chính phủ phải dựa trên cơ sở về tổng phương tiện thanh toán ở mức độ hợp lí. Vì vậy hoạt động cung ứng tiền tệ của ngân hàng trung ương phải phần nào độc lập với các hoạt động tài chính của chính phủ, và không được cung ứng tiền tệ quá nhiều để chi cho ngân sách nhà nước, có như vậy thì hoạt động của ngân hàng trung ương mới đem lại hiệu quả phát triển kinh tế, kiểm soát lạm phát. Để thực hiện tốt quá trình cung ứng cho nền kinh kinh tế, ngân hàng trung ương sử dụng linh hoạt các công cụ sau: 3.3.1.2.Thị trường mở:Điều chỉnh cung tiền hợp lí thông qua mua bán trái phiếu, trái khoán của chính phủ. Khi xảy ra lạm phát, chính phủ muốn giảm cung tiền thì chính phủ có thể bán trái khoán để giảm cung tiền trong dân cư, giảm cung tiền trong nền kinh tế. 3.3.1.3.Hoạt động cho vay và tái cấp vốn tại các ngân hàng thương mại: Hệ thống ngân hàng thương mại là một công cụ rất quan trọng của chính phủ để chính phủ cung ứng vốn ra nền kinh tế nhờ vào hệ số nhân tiền tệ. Do đó chính phủ muốn giảm cung ứng tiền trong nền kinh tế thì phả thắt chặt việc cho vaycuar các ngân hàng thương mại và hoạt động tái cấp vốn cho nó. 3.3.2.Kiểm soát quá trình tạo tiền của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại có vai trò quyết định trong quá trình cung ứng tiền. Do đó chính phủ phải kiểm soát hoạt động của ngân hàng thương mại để tạo ra được mức cung ứng tiền hợp lí, qua việc sử dụng các công cụ sau: 3.3.2.1.Ap dụng lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu. Việc sử dụng lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu hợp lý sẽ điều chỉnh được lượng tiền mà ngân hàng thương mại sẽ đi vay của ngân hàng trung ương để cung ứng trong nền kinh tế. Muốn kiểm soát lạm phát ngân hàng trung ương có thể tăng lãi suất này để hạn chế lượng tiền cho vay. Đồng thời lãi suất này được thực hiện góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng và làm cơ sở để điều hành lãi suất thị trường. 3.3.2.2.Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại các ngân hàng thương mại. Chúng ta có thể giảm lượng tiền cung ứng bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ tại các ngân hàng thương mại. 3.3.2.3.Quy định hạn mức tín dụng cho ngân hàng thương mại. Để kiểm soát được lượng vốn cung ứng trong nền kinh tế một cách hiệu quả ngân hàng trung ương buộc phải kiểm soát ngân hàng thương mại.Và do đó ngoài các chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương yêu cầu các ngân hàng thương mại thực hiện các biện pháp về tín dụng để cung ứng vốn hiệu quả cho nền kinh tế tránh gây ra tình trạn “tín dụng nóng” là nguyên nhân dẫn đến lạm phát.Ngân hàng thương mại phải thực hiện các giải pháp sau: -Ngân hàng thương mại huy động vố từ thị trường trong nước và khai thác hiệu quả nguồn vốn tài trợ của nước ngoài một cách có hiệu quả. Ngân hàng thương mại phải thực hiện đồng thời việc cho vay sao cho vốn được sử dụng hợp lý, tập trung cho vay các dự án trọng điểm, khả thi. -Thực hiện hoạt động cho vay có hiệu quả thông qua các biện pháp quản trị rủi ro trong hoàn trả vốn của người đi vay, phải xem xét và đưa ra các quy định hợp lý về người đi vay thế chấp tài sản, số dư bù, xem xét quy mô của các doanh nghiệp. -NHTW quy định mức tín dụng mà ngân hàng thương mại được phép cung ứng tối đa trong nền kinh tế tránh tình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0581.doc
Tài liệu liên quan