Lời nói đầu 1
Và danh mục tài liệu tham khảo. 1
Phần I 2
Khái niệm và tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. 2
1-/ Khái niệm: 2
2-/ Tính tất yếu khách quan của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. 2
a) Bản chất. 2
Phần II 8
Thực trạng liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. 8
1-/ Vài nét về quá trình phát triển các quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại ở nước ta. 8
2-/ Thực trạng liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại hiện nay. 9
Phần III 13
Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại. 13
1 -/ Xây dựng cơ chế giải quyết thoả đáng lợi ích kinh tế. 13
2 -/ Mở rộng các doanh nghiệp tư nhân. 13
3 -/ Tăng cường quyền tự chủ cho các doanh nghiệp. 14
4 -/ Phát triển khoa học công nghệ, đẩy mạnh liên kết khoa với sản xuất và thương mại. 15
5 -/ Định hướng phát triển kinh tế chiến lược các địa phương, vùng và ngành. 15
22 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quá trình phát triển lâu dài.
Liên kết kinh tế nói chung, liên kết giữa sản xuất và thương mại nói riêng là một hiện tượng khách quan, dù chúng ta biết hay không biết đến sự tồn tại của các liên hệ liên kết kinh tế thì các quan hệ đó vẫn ngày càng được mở rộng và phong phú hơn. Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất, các quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại ngày càng được tăng cường.
Vào cuối thế kỷ 19, các hình thức liên kết kinh tế theo chiều ngang như Cacten, Xanh đi ca, Tờ rớt chiếm ưu thế. Các doanh nghiệp tham gia vào Cacten vẫn hoàn toàn độc lập trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, họ thoả thuận với nhau về giá cả, thị trường tiêu thụ và khối lượng sản xuất ra. Trong Xanh đi ca thì sản xuất là hoạt động độc lập của các doanh nghiệp, còn tiêu thụ do một ban quản trị của tổ chức đảm nhiệm. So với Cac ten, nó là hình thức liên kết cao hơn. Tờ rớt là hình thức liên kết cao nhất vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Nó liên kết toàn bộ các hoạt động sản xuất, tiêu thụ và tài chính của các doanh nghiệp thành viên.
Cuối những năm 20 thế kỷ 20, ở Mỹ và một số nước Tư bản khác thì liên kết kinh tế theo chiều dọc chiếm ưu thế. Những liên minh kinh tế giữa sản xuất và tiêu thụ của một loạt ngành khác nhau, kế tiếp nhau vào một tổ chức kinh tế lớn, vào một công ty cổ phần. Nó thống nhất từ khâu khai thác, chế biến sản xuất thành phẩm và tổ chức tiêu thụ được tập trung vào một công ty cổ phần.
Vào giữa thế kỷ 20, xu hướng liên kết kinh tế phát triển mạnh mẽ. Hàng ngàn công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia như SONY, HONDA, TOYOTA... đang nắm quyền kiểm soát đại bộ phận sản xuất công nghiệp và thương mại thế giới.
Quá trình sản xuất, xã hội là một quá trình thống nhất nhưng do sự phân công lao động xã hội mà quá trình đó bị chia cắt thành những bộ phận tách rời, vì thế để đảm bảo tính thống nhất cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh cần có sự kết hợp trở lại các bộ phận đó. Các doanh nghiệp sản xuất và thương mại cần đến nhau. Ban đầu do muốn chủ động các nguồn hàng phục vụ cho việc kinh doanh của mình, các doanh nghiệp thương mại thường tiến hành các hoạt động liên kết lâu dài với các doanh nghiệp sản xuất. Các doanh nghiệp thương mại giữ vai trò chủ động trong quá trình tiến tới liên kết. Các doanh nghiệp thương mại có thể đầu tư ứng trước vốn (trong đó bao gồm cả vật tư, thiết bị, phụ tùng...) cho các doanh nghiệp sản xuất. Sau đó tiến hành mua lại sản phẩm theo giá thoả thuận để tiêu thụ trên thị trường.
Đồng thời mỗi doanh nghiệp sản xuất và thương mại đều là tế bào của nền kinh tế, hoạt động và phát triển dưới sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó có quy luật tích tụ và tập trung hoá. Các doanh nghiệp sản xuất liên kết với các doanh nghiệp thương mại để tích tụ và tập trung hoá. Các doanh nghiệp sản xuất liên kết với các doanh nghiệp thương mại để tích luỹ vốn, tăng khả năng sản xuất mua nguyên vật liệu đầu vào và tiêu thụ đàu ra. Nâng cao trình độ xã hội hoá của nền sản xuất là xu thế khách quan hợp quy luật. Quy luật phổ biến từng diễn ra trong lịch sử là: Thông thường buổi ban đầu khi bước vào kinh doanh với một số vốn ít ỏi, họ thường nhảy vào lưu thông mà chủ yếu là buôn bán nhỏ. Vì lĩnh vực này chỉ cần ít vốn, vòng quay đồng vốn nhanh, nếu giỏi có thể tăng nhanh vòng quay và hiệu quả đồng vốn cho nên đại đa số các doanh nghiệp Nhà nước trước hết nhảy vào đó. Sau một thời gian kinh doanh bán lẻ, quy mô nhỏ phát đạt, tích luỹ được nhiều vốn, anh ta bắt đầu tiến sang lĩnh vực với quy mô lớn hơn hoặc vừa sản xuất và kinh doanh thương mại. Như vậy các doanh nghiệp thương mại phình ra, mở rộng quy mô, phạm vi kinh doanh bằng việc thành lập, thu hút sát nhập một số doanh nghiệp sản xuất. Các doanh nghiệp thương mại từ chỗ vươn lên nắm lấy khâu sản xuất bằng các hình thức hợp tác đầu tư ứng trước vốn, bao tiêu sản phẩm, tiến lên liên doanh và liên hợp, hợp nhất các doanh nghiệp, các khâu sản xuất vào trong nó.
Cũng do tác động của quy luật tích tụ, tập trung hoá sự chuyển hoá các tổ chức, tập đoàn kinh tế lớn theo hướng liên kết các doanh nghiệp sản xuất với thương mại, dịch vụ vào trong một tập đoàn theo hướng đa dạng hoá các lĩnh vực kinh doanh và các hình thức sở hữu tập đoàn, cùng nhau góp vốn. Những hoạt động chung của tập đoàn chủ yếu thông qua lĩnh vực tài chính, đầu tư, nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, vật tư, nguyên liệu và đặc biệt là tiến hành tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Do tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật tối đa hoá lợi nhuận. Cạnh tranh để giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là quy luật vốn có của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Liên kết để cạnh trnah trong nước cũng như quốc tế. Sự hợp tác, liên kết giữa các nhà sản xuất và tiêu thụ trong nước thông qua các hiệp hội và các hình thức khác sẽ tạo thành một khối thống nhất khi tiến hành đàm phán với đối tác, bạn hàng nước ngoài. Do đó, không bị khách hàng nước ngoài ép giá, dìm giá xuất khẩu và nâng giá nhập khẩu.
Mặt khác việc liên kết sẽ đảm bảo có được nguồn hàng ổn định, chắc chắn, tránh được sự biến động của thị trường. Đồng thời hạn chế tình trạng thiếu, thừa vật tư, ứ đọng vốn. Ngày nay trong cơ chế thị trường, không một doanh nghiệp sản xuất hay thương mại nào có thể độc lập kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay độc lập đồng nghĩa với không có khả năng cạnh tranh và phá sản là điều tất yếu. Nhận thức rõ ràng vấn đề này càng thúc đẩy sự xích lại gần nhau hơn giữa sản xuất và thương mại và kết quả là sự hình thành các tổ chức liên minh kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại nhằm xúc tiến phát triển và điều hoà các mối quan hệ liên kết, tạo ra sự gắn bó mật thiết giữa các nhà sản xuất và tiêu thụ, nhằm hạn chế những cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp sản xuất và thương mại.
Bản thân các doanh nghiệp đều mong muốn đạt được lợi ích tối đa trong phạm vi khả năng vốn có, mà mong muốn đó có thể đạt được bằng liên kết kinh tế bởi vì thông qua liên kết cho phép doanh nghiệp bù đắp những mặt còn yếu kém của mình nhờ kết hợp mặt mạnh của các doanh nghiệp khác.
Ngoài ra, trong những thập kỷ gần đây, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ có bước phát triển mới sâu rộng chưa từng có, trực tiếp tác động vào mọi ngành kinh tế quốc dân. Yêu cầu về vốn lớn đã kéo các doanh nghiệp sản xuất và thương mại lại với nhau để đủ năng lực sản xuất ra sản phẩm mới, tiêu thụ nhanh. Thực tế nhiều ngành nghề sản xuất không đủ vốn vì yêu cầu quá lớn và việc liên kết lại với nhau là điều dễ hiểu.
Nói tóm lại, sự kết hợp nói trên của các doanh nghiệp sản xuất với thương mại có thể thực hiện bằng nhiều cách nhưng thông qua liên kết kinh tế mang tính chặt chẽ cao hơn. Chính vì những lý do nêu trên mà liên kết kinh tế giữa sản xuất với thương mại đã có quá trình phát triển lâu dài và phạm vi ứng dụng ngày càng mở rộng.
Phần II
Thực trạng liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường.
1-/ Vài nét về quá trình phát triển các quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại ở nước ta.
Giai đoạn trước năm 1980, quan hệ giữa công nghiệp (kể cả thủ công nghiệp) và thương nghiệp thời kỳ này có đặc điểm nổi bật là hình thức gia công thương nghiệp mang tính phổ biến. Các xí nghiệp công nghiệp chủ yếu sản xuất hàng gia công trên cơ sở định mức tiêu hao nguyên vật liệu, tiền công do các cửa hàng, công ty thương nghiệp định ra và giao cho theo từng tháng, từng quý và theo lô sản phẩm. Thực chất của mối quan hệ này là sự phụ thuộc một chiều của các doanh nghiệp sản xuất vào các doanh nghiệp thương mại. Hình thức này đã tồn tại lâu dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Nó được thể hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh và tiến hành tiêu thụ mà thực chất là giao nộp sản phẩm cho các công ty thương mại định trước của kế hoạch Nhà nước. Trong mối quan hệ đó lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất bị xâm phạm đáng kể. Quan hệ liên kết kinh tế mang tính chất gò bó, cường ép từ trên xuống.
Cơ chế quản lý kiểu đó là dẫn đến thủ tiêu tính chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đến với nhau không phải dựa trên tinh thần tự nguyện, lợi ích của hai bên mà hoàn toàn phụ thuộc vào kế hoạch Nhà nước. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì sản xuất cái gì, bao nhiêu, như thế nào không dựa vào yêu cầu của thị trường mà do kế hoạch từ trên giao xuống. Doanh nghiệp chỉ quan tâm đến việc sản xuất còn tiêu thụ do các doanh nghiệp, công ty thương mại đảm nhận. Và kết quả là đã triệt tiêu hoàn toàn sự cạnh tranh lành mạnh, là điều kiện sống còn của bất kỳ nền kinh tế nào, thủ tiêu cạnh tranh tức đồng nghĩa với thủ tiêu sự phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất và thương mại hoàn toàn bị động, lợi ích không được đảm bảo. Từ đó các doanh nghiệp sản xuất không quan tâm tới việc cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Sản xuất đình đốn, làm ăn thua lỗ, kinh tế suy sụp không có tích luỹ, sản xuất không đủ tiêu dùng. Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội trầm trọng.
Giai đoạn từ cuối những năm 1980 trở đi, nhìn chung cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta từ hoạt động vận vành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cùng với việc xác lập, mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, kiện toàn tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, kinh doanh theo cơ chế thị trường “lời ăn lỗ chịu” đã làm cho hoạt động liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại ngày càng được mở rộng. Sự mau bán, trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại trở nên thường xuyên, liên tục, có hợp đồng kế hoạch định trước va ổn định bạn hàng trong một thời gian tương đối dài. Rõ ràng vào thời điểm này quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất với thương mại đã có chuyển biến về chất, nâng tầm quan hệ lên một trình độ cao hơn, thường xuyên, ổn định và cố kết hơn, có sự hợp tác lâu dài và bền vững hơn.
Cùng với việc đổi mới và giải thể các liên hiệp trước đây làm nhiệm vụ quản lý ngành không hiệu quả, các hiệp hội những nhà sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm, ngành hàng cũng đang được thành lập. Hiệp hội là một hình thức liên kết kinh tế, là một tổ chức liên minh kinh tế giữa những nhà sản xuất và tiêu thụ nhằm giúp nhau giải quyết những khó khăn về vốn, vật tư, thiết bị côngnghệ, kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm. Đặc biện, nó là một tổ chức liên minh kinh tế nhằm đảm bảo quyền lợi của các nhà sản xuất và kinh doanh trong nước, chống lại sự cạnh tranh và tiến hành cạnh tranh tập thể với các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường trong và ngoài nước.
2-/ Thực trạng liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại hiện nay.
Thành tựu của những năm đổi mới đánh giá chính xác nhất bước đi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Ngược lại trong thời kỳ bao cấp, giờ đây các doanh nghiệp sản xuất cũng như thương mại được trao quyền độc lập, tự chủ trong việc liên doanh, liên kết theo tinh thần tự nguyện của các bên. Các doanh nghiệp đi từ làm ăn thua lỗ, kinh doanh hiệu quả thấp đến ổn định và có lãi. Việc hạch toán kinh tế độc lập đã tạo cho doanh nghiệp quyền chủ động, sáng tạo, bắt kịp với sự biến động của thị trường, tạo thế cân bằng cho các doanh nghiệp sản xuất với các doanh nghiệp thương mại. Không như trước đây các doanh nghiệp sản xuất luôn phải chịu thiệt khi liên kết với các doanh nghiệp thương mại. Việc có quyền lựa chọn đối tác liên kết theo sự thoả thuận của các bên, không có sự can thiệp của Nhà nước đã thúc đẩy mạnh mẽ sự liên kết giữa sản xuất với thương mại. Việc có quyền lựa chọn đối tác liên kết giữa sản xuất với thương mại.
Sự liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất với các doanh nghiệp thương mại hoàn toàn độc lập thông qua nhiều hình thức, tên gọi phong phú như hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu, đầu tư ứng trước vốn, nhận bao tiêu sản phẩm lâu dài, gia công và cả liên doanh... Sự liên kết này góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng sản xuất kinh doanh của từng đơn vị nói riêng, của cả ngành nói chung.
Đầu những năm 1990, khi còn đan xen, giằng co những mảng sáng tối của hai cơ chế cũ và mới thì cũng có lúc ngành than đang đứng trên bờ vực thẳm. Quy mô khai thác manh mún, phân tán, năng suất chất lượng thấp, lại tranh giành tiêu thụ, kinh doanh vờ tổ chức ở thị trường nội địa và thị trường nước ngoài nên luôn bị ép cấp, ép giá. Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp dẫn đến ngành than không nuôi sống được chính mình. Hàng chục ngàn thợ mỏ thiếu việc làm, nhiều ngàn tỷ đồng vật tư thiết bị máy móc bị đắp đốc. Chỉ một chút xíu nữa ngành công nghiệp lâu đời này sẽ rơi vào lãng quên thảm hại.
Từ một thực tế không lấy gì sáng sủa, ngành than đã bứt lên bằng cách nào?. Trước tiên Tổng Công ty sắp xếp lại tổ chức. Hậu quả của thời tập trung quan liêu bao cấp đã để lại một cơ cấu tổ chức hoàn toàn bất hợp lý. Mỗi mở than là một “vương quốc” riêng, bộ máy điều hành cồng kềnh, vừa chặt lại vừa lỏng. Tổng công ty đã tổ chức lại trong 50 đơn vị thành viên trong đó 30 đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh, đối mặt với thị trường.
Nhằm kiểm soát thị trường, đưa hòn than về đúng giá trị đích thực của nó, hạn chế trình trạng ba bốn mỏ cùng tìm đến một khách hàng, hạ giá để tranh bán, gây rối loạn thị trường, đồng thời tạo nên lá chắn hữu hiệu ngăn chặn kinh doanh than có nguồn gốc trái phép, việc thống nhất kinh doanh than của Tổng công ty là một quyết sách đúng đắn. Không chỉ nắm đầu mối tiêu thụ, Tổng công ty còn thống nhất giá bán chưa thị trường, từ đó quy định giá đối với từng mỏ trên cơ sở sản lượng, chất lượng thực tế và quy mô vay vốn đầu tư. Cải tiến phương thức tiêu thụ, Tổng công ty tổ chức tiêu thụ bằng cách đưa than đến tận nơi tiêu dùng, trong đó có các trọng điểm tiêu thụ như ngành điện, phân bón, xi măng, giấy...
Và kết quả là năm 1997, Tổng công ty khai thác được 10,5 triệu tấn, xuất khẩu 3,7 triệu tấn, đạt doanh thu 4000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 1996.
Từ ví dụ trên ta thấy vai trò đầu mối liên kết của các công ty xuất nhập khẩu trong từng ngành, cũng như thấy rõ vai trò to lớn của việc liên kết sản xuất và tiêu thụ, gắn bó các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu, nâng cao sự phát triển và hiệu quả kinh tế của từng ngành, đồng thời hạn chế sự cạnh tranh trong nội bộ không cần thiết ở thị trường nước ngoài.
Như vậy trong cơ chế thị trường, liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại đã phát huy được sở trường của nó, có tác dụng thiết thực đối với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đối với sự ổn định và phát triển của các ngành, lĩnh vực của cả nền kinh tế quốc dân. Chỉ trong cơ chế thị trường liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại mới được hiểu theo đúng nghĩa của liên kết. Sự gắn bó giữa sản xuất và lưu thông ngày càng chặt chẽ. Liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại xoá đi hiện tượng tranh mua, tranh bán làm giá tăng không đáng có trên thị trường, cơn sốt về giá cả và dìm giá trên thị trường ngoài nước. Sản xuất ngày càng đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Trong cơ chế bao cấp việc tìm đầu vào như nguyên vật liệu và giải quyết đầu ra là một vấn đề nan giải. Các doanh nghiệp sản xuất và thương mại trì trệ vì không giải quyết tốt hai khâu này. Cơ chế thị trường thì vấn đề này không được đặt ra vì bất cứ hình thức liên kết nào cũng đều có chung kết quả là có sự ổn định “đầu vào” và khai thông được đầu ra một cách nhanh chóng. Từ đó góp phần làm cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ổn định, phát triển và hiệu quả ngày càng tăng.
Sự liên kết giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ khác nhau cùng ngành hoặc khác ngành đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế, trong đó giữ vững được vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Từ mô hình của tổng công ty than ta thấy rằng sự liên kết giữa sản xuất và thương mại nằm trong một tổ chức là hình thức đảm bảo giải quyết thoả đáng, không mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các thành viên.
Tuy đạt được nhiều thành tựu trong những năm đầu đổi mới nhưng trên thực tế còn có nhiều vấn đề tồn đọng cần giải quyết. Vẫn còn không ít doanh nghiệp Nhà nước chưa chuyển biến kịp tình hình, không nhận thức được xu thế khách quan, chưa tạo ra được thế mạnh để liên kết với nhau, cho nên sản xuất bị đình đón, cầm chừng, sản phẩm khó tiêu thụ. Hàng loạt công ty, chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ đi đến giải thể và phá sản. Đổi mới cơ chế phải đổi mới về tư duy. Đây là một vấn đề nan giải nhất. Chúng ta đã có 15 năm cơ chế thị trường nhưng dường như nó còn quá ít ỏi đối với nhiều nhà quản lý chưa thể quen và bắt kịp lối tư duy và cách làm ăn trong thị trường với đúng nghĩa của nó. Phải nói rằng chính lối tư duy kiểu cũ thời bao cấp hoàn toàn không thể phù hợp và vận dụng trong cơ chế mới. Sự liên kết giữa các khâu, các lĩnh vực sản xuất thương mại trong một tổ chức đang vấp phải những khó khăn về hình thức tổ chức chưa rõ ràng, bộ máy điều hành và phương tiện để điều hành còn quá thấp và lạc hậu. Nó đã hạn chế rất nhiều đến việc hình thành và tác dụng của các tổ chức liên kết kinh tế trong điều kiện của cơ chế thị trường.
Sự liên kết giữa sản xuất và thương mại nằm trong một tổ chức thì vấn đề lợi ích giữa các thành viên được xác định rõ ràng và hợp lý. Nhưng đối với hình thức liên kết của các doanh nghiệp độc lập nổi lên vấn đề hết sức quan trọng là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế khá lớn, trong đó các doanh nghiệp thương mại được hưởng phần lợi nhiều hơn so với các doanh nghiệp sản xuất, do chủ động tạo ra mối liên kết, nắm thị trường... Hơn thế nữa, ở hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ thì tính chất bình đẳng giữa các thành viên là không có, các doanh nghiệp nhỏ bị phụ thuộc và vì vậy cũng bị xâm phạm về mặt lợi ích. Lý do cơ bản bản nhất là các doanh nghiệp nhỏ cảm thấy không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp lớn, muốn tồn tại thì phải liên kết. Trong quá trình ký kết hợp đồng liên kết việc chịu thiệt là điều hiển nhiên. Từ thực trạng trên, việc đề ra những giải pháp để thúc đẩy mạnh mẽ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại là rất cần thiết, là yêu cầu trước mắt và lâu dài.
Phần III
Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển quan hệ liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại.
1 -/ Xây dựng cơ chế giải quyết thoả đáng lợi ích kinh tế.
Như đã phân tích ở trên, các doanh nghiệp sản xuất cũng như thương mại khi tiến hành liên kết đều phải xem xét cái lợi mà họ nhận được so với hoạt động độc lập và lợi ích của các bên liên kết với nhau. Cùng góp vốn, góp sức trên tinh thần tự nguyện thì kết quả thu được phải tương xứng với cái bỏ ra. Ngược lại họ không thể tiến hành liên kết khi lợi ích của mình bị xâm phạm vì vậy xây dựng cơ chế giải quyết thoả đáng lợi ích giữa các bên tham gia liên kết. Để có một phương án giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi phải đi vào nhiều chi tiết cụ thể, từ việc tính toán các loại định mức kinh tế kỹ thuật cho đến việc tính toán sự đóng góp cụ thể của các bên tham gia, từ đó mới có cơ sở để phân chia lợi nhuận, quyền hạn và nghĩa vụ của các bên một cách chính xác nhất. Ai cũng hài lòng với cái mình thu được so với cái bỏ ra. Đây là một vấn đề quan trọng nhất thúc đẩy liên kết giữa sản xuất và thương mại hơn bao giờ hết.
Như vậy các bên tham gia liên kết phải thật sự bình đẳng, có tư cách pháp nhân như nhau. Các đơn vị tham gia liên kết phải trên tinh thần hợp tác thật sự, tôn trọng lợi ích của nhau, không bên nào có ý định xâm phạm lợi ích của bên kia. Những mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất và thương mại không phát triển tiến tới hợp tác, liên kết làm ăn với nhau lâu dài được, chính là do các doanh nghiệp thương mại, nhất là những doanh nghiệp được Nhà nước cho phép độc quyền xuất - nhập khẩu, thường hay ép cấp, ép giá người sản xuất.
Tuy nhiên, hiểu giải quyết một cách hài hoà phải trên cơ sở tuân theo nguyên tắc “phần thu được phải tương xứng với cái bỏ ra, những doanh nghiệp năng động hơn sẽ thu được phần lợi nhiều hơn”. Nghĩa là trong đó chứa đựng yếu tố cạnh tranh. Chính vì vậy việc giải quyết hài hoà lợi ích phải có sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành viên liên kết. Chính điều này góp phần thúc đẩy sự liên kết sản xuất với thương mại hơn nữa.
2 -/ Mở rộng các doanh nghiệp tư nhân.
Có thể nói rằng thương nghiệp tư nhân chiếm một vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vì khi mà giao lưu kinh tế không bị ràng buộc và hạn chế thì nó có thể đi đến tận hang cùng ngõ hẻm để mở rộng phạm vi ảnh hưởng, thị trường bán và mua của nó, thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển khắp mọi nơi. Thêm vào đó chúng ta thấy rằng, phần lớn các cửa hàng đại lý, giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp sản xuất ở khắp mọi miền đất nước không ai khác chính là thương nghiệp tư nhân. Các hãng lớn như SONY, DAEWOO, TOYOTA, HONDA... đều có các cửa hàng đại lý do tư nhân đảm nhận. Cho nên phát triển mạnh kinh tế tư nhân, đặc biệt là thương nghiệp tư nhân là một biện pháp thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ liên kết sản xuất với thương mại, gắn bó hơn nữa lĩnh vực sản xuất với lĩnh vực thương mại, phát triển mạnh kinh tế hàng hoá ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, làm cho nền kinh tế quốc dân năng động hơn. Để có kết quả như vậy Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, ưu đãi về thuế cũng như vay vốn của các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt đối với các doanh nghiệp thương mại.
3 -/ Tăng cường quyền tự chủ cho các doanh nghiệp.
Liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp được hình thành dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện này được thực hiện thuận lợi, có hiệu quả chỉ khi các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước được hoàn toàn tự chủ trong hoạt động kinh tế, được hoàn toàn tự quyết định cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình. Chỉ khi đó họ mới có thể tự do tìm bạn hàng, đối tác hợp tác, liên doanh làm ăn lâu dài với nhau. Cho nên việc duy trì đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và thương mại là cần thiết. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào các doanh nghiệp cũng là một điều kiện không thể thiếu để thúc đẩy liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại.
Một khi mà các doanh nghiệp được toàn quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Từ phương hướng chiến lược mặt hàng, công nghệ đến thị trường, bạn hàng, đối tác liên doanh liên kết, kể các tính toán đối thủ và phương thức, chiến lược cạnh tranh ... đến con đường phát triển và tồn tại của doanh nghiệp thì vai trò của đội ngũ quản lý, đặc biệt là giám đốc đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp trên thương trường và lẽ dĩ nhiên có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển các mối quan hệ liên kết kinh tế. Chính giám đốc chứ không ai khác đặt bút ký hợp đồng liên kết. Hoặc có thể rút khỏi liên kết.
Việt Nam chúng ta hiện nay thừa nhận rằng quản lý chính là khâu yếu kém nhất. Nó dẫn doanh nghiệp tới thành công hay thất bại là tuỳ thuộc vào trình độ của đội ngũ quản lý. Đứng trước thực tế như vậy thì vấn đề đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ quản lý và lựa chọn kỹ càng đội ngũ quản lý phải hết sức được quan tâm.
4 -/ Phát triển khoa học công nghệ, đẩy mạnh liên kết khoa với sản xuất và thương mại.
Ngày nay khi khoa học - kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và ngày càng tiến bộ không ngừng thì một trong những điều kiện quan trọng của liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại chính là sự liên kết giữa khoa học và công nghệ với sản xuất và thương mại. Mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn bao giờ hết, những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao mới đủ sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng luôn biến đổi và nâng cao không ngừng.
Để đáp ứng được yêu cầu đó, không chỉ có khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật mới cần liên kết với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mà ngày nay khoa học xã hội, khoa học quản lý, khoa học kinh tế, khoa học pháp lý cũng cần phải liên kết chặt chẽ với sản xuất và kinh doanh. Tất cả các doanh nghiệp sản xuất và thương mại đều cần sự hợp tác chặt chẽ của các nhà khoa học tự nhiên, kỹ thuật và xã hội để tăng cường hàm lượng chất xám trong sản phẩm để có khả năng cạnh tranh.
Hơn nữa, ngày nay khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng, biến đổi từng ngày, từng giờ. Hàng loạt phát minh ra đời được đưa ra áp dụng phục vụ sản xuất và đời sống con người.
Vì vậy, việc thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ (thông qua các chính sách như đầu tư, đào tạo và sử dụng cán bộ, khuyến khích vật chất các công trình khoa học có giá trị thực tiễn, tập trung phát triển nghiên cứu ứng dụng... ) bao gồm cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội. Đồng thời tạo mọi điều kiện đẩy mạnh liên kết chúng với các doanh nghiệp sản xuất, thương mại - dịch vụ.
5 -/ Định hướng phát triển kinh tế chiến lược các địa phương, vùng và ngành.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải căn cứ vào chiến lược phát triển của Nhà nước về từng ngành, từng vùng, địa phương cụ thể. Từ đó doanh nghiệp mới xây dựng chiến lược phát triển riêng của mình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0682.doc