A.Phần mở đầu
1.1.Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3.Giới hạn đề tài
2.Phương pháp nghiên cứu
3.Tóm tắt đề tài
B.Phần nội dung
Chương 1.Cơ sở lý luận
Chương 2.Thực trạng
Chương 3. Giải pháp
C.Phần kết luận
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3225 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng lúa gạo Việt Nam sau khi ra nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hời gian chưa lâu nhưng kết quả đã cho thấy tốc độ phát triển nhanh, đạt hiệu quả cao và cùng lúc đạt được nhiều mục tiêu như cải thiện đời sống nông thôn, tạo nguồn thu ngoại tệ.
2.2.1. Nhưng thành tựu ngành lúa gạo Việt Nam đạt được trong nhưng năm qua.
Trong các mặt hàng nông sản thì gạo chiếm tỷ trọng cao nhất (23,8%), gạo không những góp phần ổn định tình hình lương thực trong nước mà còn chiếm tỷ lệ cao trong
sản lượng lương thực thế giới. Mặt hàng này đã đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nguồn ngoại tệ tương đối cao đồng thời góp phần làm tăng vị thế của Việt Nam trong thị trường thế giới. Điều đó cho thấy mặt hàng lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống người dân Việt Nam cũng như trong công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam.
Trong nhiều năm, Việt Nam luôn là nước xuất khẩu gạo lớn đứng thứ 2 trên thế giới, có sức cạnh tranh mạnh mẽ với các cường quốc sản xuất lúa gạo như Thái Lan và Ấn Độ. Năm 2007, gạo Việt Nam đã tăng gần 10% về giá so với năm trước, từng bước theo kịp Thái Lan và dần thâm nhập vào các thị trường có giá cả cao như Nhật Bản.
Trong giai đoạn năm 2000 đến năm 2007, năm 2005 là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu vượt con số 5 triệu tấn, với mức giá xuất khẩu khá cao bình quân từ 245-275
USD/tấn (xuất khẩu 5,2 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,4 tỷ USD, tăng 28% về lượng và 58% về giá trị). Hiện nay, gạo Việt Nam có mặt trên 100 nước chiếm 20% thị phần gạo thế giới. Bên cạnh đó, giá trị gạo của ta cũng ngày càng được đánh giá cao hơn. Nếu so sánh năm 2006 và năm 2007 ta thấy, lượng gạo xuất khẩu hai năm đều như nhau, nhưng giá bình quân xuất khẩu năm 2007 cao hơn, do đó đưa giá trị xuất khẩu năm 2007 tăng 16,7%. Trong xu thế hội nhập, nếu bỏ hết rào cản, lượng gạo giao dịch sẽ tăng thêm 10-15%/năm và giá gạo tăng 25-35%/năm.
Nhìn chung, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam từng bước được đẩy mạnh qua các năm. Song, so với các nước xuất khẩu gạo trên thế giới, giá gạo của ta luôn bị hạ mức thấp hơn.
Thành tựu sau một năm gia nhập WTO
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 1.455 triệu USD, tăng 16,7%, giá gạo bình quân là 300 USD, đạt giá trị cao nhất từ năm 2000 đến nay, thể hiện chất lượng hạt gạo của ta đã được nâng cao rõ nét. Đạt được vậy là do tác động của nhiều nhân tố như: thị trường nông sản thế giới biến động thuận lợi cho xuất khẩu, giá đồng USD giảm sút và đặc biệt là Việt Nam đã tranh thủ được cơ hội khi là thành viên của WTO.
Trong năm đầu gia nhập WTO, gạo Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực xuất khẩu tại các thị trường mới như:
Tại Nhật Bản: Việt Nam trúng thầu xuất khẩu 45.050 tấn gạo. Hai lần liên tiếp Việt Nam đã trúng thầu tổng cộng 28.000 tấn gạo (14.000 tấn/lần). Giá gạo trung bình của đợt thầu này là trên 63.433 Yên/tấn (khoảng 528,6 USD/tấn). Lần thứ 3 là 17.050 tấn với giá trung bình là 52.804 Yên/tấn (tương đương 459,16 USD/tấn). Các chuyên gia nhận định, chất lượng gạo Việt Nam ngày càng được nâng cao đồng thời có giá cả phù hợp với những yêu cầu và quy định khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản (đây là thị trường rất khó tính). Do vậy, Việt Nam là một trong ba nước (cùng với Thái Lan và Mỹ) đã trúng thầu cung cấp gạo sang thị trường Nhật Bản năm 2007. Tại Indonexia: năm 2007, nước này nhập khẩu 1 triệu tấn gạo Việt Nam. Các Bộ trưởng Thương mại Việt Nam và Indonexia đã ký biên bản ghi nhớ về việc Việt Nam sẽ xuất khẩu 1 triệu tấn gạo sang Indonexia. Đầu năm ngoái, nước này đã nhập 25.000 tấn gạo Việt Nam. Tại Irag, Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) cho biết: trong tổng số 200.000 tấn gạo 5% tấm được gọi thầu tại Irag, Việt Nam trúng thầu cung cấp 50.000 tấn gạo, với giá trúng thầu cao lên tới 270 USD/tấn FOB. Nhiều khả năng Việt Nam sẽ được cung cấp số lượng thầu còn lại 1à 150.000 tấn.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc sản xuất và kinh doanh mặt hàng gạo. Mặt hàng này không chỉ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế trong nước mà nó còn có sức ảnh hưởng rất lớn đến thị trường lương thực thế giới. Song bên cạnh đó, gạo Việt Nam cũng đứng trước nhiều thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể 1à: chưa quan tâm đến xây dựng và phát triển thương hiệu gạo; khả năng phòng chống thiên tai, dịch bệnh còn thấp kém; chưa chú trọng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; chất lượng sản phẩm kém, không ổn định; khâu chế biến chưa đạt hiệu quả. .. Chính vì vậy, một trong những biện pháp hữu ích hiện nay nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh gạo của các doanh nghiệp cũng như nâng cao mức sống cho người nông dân 1à phải xây dựng và phát triển thương hiệu gạo Việt Nam. Thương hiệu gạo được xây dựng thành công sẽ đem lại những lợi ích vô cùng to lớn cho người dân, cho doanh nghiệp, cho sự phát triển của địa phương và sự tăng trưởng của nền kinh tế việt Nam.
Xuất khẩu gạo năm 2008
Trong những tháng đầu năm 2008, tình hình thế giới có nhiều biến động, đồng đôla mất giá làm ảnh hưởng đến việc xuất khẩu nhiều mặt hàng trong đó có mặt hàng gạo. Lạm phát tác động đến hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế. Giá cả, chi phí tăng cao sẽ ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu gạo, đồng thời làm giảm năng lực cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới. Từ đầu năm đến nay, giá gạo xuất khẩu của ta luôn có xu hướng tăng mạnh, tháng 2/2008, gạo 5% tấm có giá 400USD/tấn, đến tháng 3 thì giá lên là 410/USD/tấn. Nguồn cung gạo hạn chế vừa do thiên tai, vừa do yếu tố tâm lý của nông dân chờ giá cao mới bán đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo đã ký.
Hiện nay, vụ lúa đông xuân ở hai miền Bắc Nam cũng đã đạt năng suất khá cao (trung bình 60 tạ/ha). Mục tiêu năm 2008 đề ra lượng lúa cả năm đạt 35-36 triệu tấn. Song vấn đề đặt ra trong điều hành xuất khẩu gạo là cần phải điều tiết sao cho vừa đảm bảo lượng gạo xuất khẩu hợp lý, vừa đảm bảo an ninh lương thực trong nước: Việc điều hành xuất khẩu gạo đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo: lượng lúa, gạo xuất khẩu trong năm 2008 dự kiến khoảng từ 4 triệu đến 4,5 triệu tấn quy gạo các loại Dự báo giá bán gạo xuất khẩu năm 2008 vẫn sẽ ở mức cao: trong đó gạo 25% tấm đạt trên 320 USD/tấn, gạo 5% tấm ở mức khoảng 340 USD/tấn trở lên.
Hy vọng rằng, trong năm 2008, mặc dù phải đối mặt với những tác động bất lợi của nền kinh tế, gạo Việt Nam sẽ đạt được những thành tựu về sản lượng sản xuất cũng như về kim ngạch xuất khẩu, tạo thế đứng vững vàng trong hội nhập kinh tế thếgiới.
Theo TC Kinh tế & Dự báo 5/2008
2.2.2.Thuận lợi của ngành luá gạo Việt Nam
- Hệ thống cơ chế, chính sách của nhà nứoc khuyến khích và tạo điều kiện phát triển sản xuất lúa.- Nhu cầu phát triển sản xuất lúa ngày càng tăng để đảm bảo cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, do dân số Việt Nam dự kiến đến năm 2020 sẽ vào khoảng 100 triệu, dân số thế giới sẽ tăng lên gấp rưỡi.- Điều kiện tự nhiên của Việt Nam hoàn toàn thích hợp cho sản xuất lúa.Nông dân Việt Nam có kinh nghiệm trồng lúa từ lâu đời.- Đầu tư cho khoa học công nghệ nông nghiệp ngày càng tăng, kết hợp với tiếp thu ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ về lúa của các nước trong khu vực và thế giới- Năng suất, sản lượng lúa ngày càng tăng do ngày càng có nhièu giống mới chụi thâm canh, năng suất, chất lượng cao, có khả năng thích ứng rộng và chống chụi sâu bệnh.- Xuất khẩu gạo ngày càng tăng về số lượng và chất lượng góp phần ổn định đời sống cho nông dân là lực lượng chiếm đại đa số trong tổng số 80 triệu dân Việt Nam.- Việt Nam đã gia nhập WTO, đây là cơ hội lớn tạo điều kiện thuận lợi cho lúa gạo và các loại sản phẩm nông nghiệp khác có quyền bình đẳng tham gia vào thị trường thương mại nông sản của thế giới.
2.2.3 Khó khăn của ngành lúa gạo Việt Nam
- Quá trình đô thị hoá tăng, diện tích đất trồng lúa ngày càng bị thu hẹp- Nhiều vùng sản xuất lúa được nông dân sở hữu rất manh mún, khó cơ giới hóa.Quá trình áp dụng giống mới chịu thâm canh, phát triển thành những vùng sản xuất hàng hóa là điều kiện thuận lợi để các loại dịch hại mới nguy hiểm, khó phòng trừ.- Sử dụng thuốc Bảo vệ thực vật có xu hướng tăng, ảnh hưởng đến chất lượng nông sản.
- Thị trường thiếu ổn định, còn nhiều yếu tố bất ổn trong quá trình sản xuất, tiêu thụ đặc biệt là vấn đề giá cả. Bên cạnh những yếu tố rủi ro về thời tiết, mùa vụ, trong một nền nông nghiệp hàng hóa thì người nông dân lại phải đối mặt nhiều hơn với các rủi ro về thị trường giá cả, cung cầu cả đầu vào và đầu ra. Do các yếu tố về cung cầu không ổn định, dẫn đến sự biến động về giá trở nên phức tạp và khó đoán trước, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người nông dân. Đặc biệt là đối với trường hợp của Việt Nam, khi các mặt hàng nông sản của chúng ta chưa làm chủ được thị trường thì sự thụ động về mặt cung cầu càng tăng lên, đồng nghĩa với việc rủi ro về giá cả càng trở nên nghiêm trọng đối với người nông dân. Sự khó khăn về vốn, sự yếu kém về kỹ thuật trong các khâu phơi sấy, bảo quản dẫn đến người nông dân không làm chủ được thời điểm tiêu thụ, buộc phải bán ngay cả vào thời điểm giá thấp. Sự bất ổn về giá còn có nguyên nhân xuất phát từ chính người nông dân. Khi giá một loại nông sản tăng lên trong một năm thì ngay mùa vụ sau, người nông dân lại đổ xô đi trồng hoặc chăn nuôi loại nông sản đó, dẫn đến nguồn cung tăng đột biến, giá thành lập tức hạ xuống.
Chưa hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản và vật tư nông nghiệp. Tình trạng tồn đọng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh trong nông sản vẫn đang tồn tại phổ biến mà chưa có các biện pháp xử lý. Thiếu các biện pháp kiểm soát chất lượng dẫn đến chất lượng nông sản bị thả nổi, tỷ lệ sản phẩm có chất lượng thấp còn rất cao, không được phân loại dẫn tới giá thành sản phẩm thấp và khó chiếm lĩnh được thị trường. Đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay, khi các hàng rào thuế quan hầu như không còn được áp dụng theo các quy định về bảo hộ thương mại của WTO, các hàng rào về tiêu chuẩn chất lượng lần lượt được các nước dựng lên như một biện pháp bảo vệ hữu hiệu sản xuất nông nghiệp trong nước. Việc chưa hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng nông sản hiệu quả vừa gây khó quản lý và nâng cao chất lượng nông sản trong nước vừa gây thiệt thòi cho ngành nông nghiệp trong nước do không được áp dụng biện pháp bảo hộ hợp lý.
Khó khăn về vốn cho phát triển sản xuất. Trong khi đa số hộ nghèo tập trung ở nông thôn và hầu hết người dân sống ở nông thôn có thu nhập thấp thì vốn cho phát triển sản xuất là một vấn đề đặc biệt quan trọng. Do không có vốn, người nông dân không thể mở rộng sản xuất cũng như không thể đầu tư áp dụng các phương thức sản xuất tiên tiến, từ đó dẫn tới không thể nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất. Việc thiếu vốn cũng dẫn tới người nông dân bị thụ động trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, bị thương lái ép giá. Tính tới cuối năm 2008, tổng dư nợ tín dụng nông nghiệp, nông thôn đạt 248.000 tỷ đồng, tăng 15,1% so với năm 2007 nhưng chỉ chiếm 20% so với tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Người nông dân không tiếp cận được với nguồn vốn từ khu vực tài chính chính thức do thủ tục vay ngân hàng còn rườm rà trong khi giá trị khoản vay thấp, dẫn tới chi phí vay cao. Hơn nữa, các yêu cầu cho vay từ phía các ngân hàng là khá chặt chẽ, thông thường đòi hỏi có tài sản thế chấp (mà chủ yếu là bất động sản) nên người nông dân không thể vay được do không có tài sản thế chấp. Do đó, người nông dân thường phải chấp nhận vay từ khu vực phi chính thức với lãi suất cao hơn là tiếp cận các ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng của hệ thống ngân hàng cũng chưa có một hệ thống đánh giá rủi ro hợp lý để có thể tiến hành các hoạt động cho vay vi mô, bản thân các ngân hàng cũng không muốn mở rộng cho người nông dân vay do hoạt động sản xuất của họ mang nhiều yếu tố rủi ro dẫn tới nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Trình độ văn hóa và mặt bằng dân trí ở khu vực nông thôn còn thấp. Đây là một rào cả đáng lo ngại. Thực tế cho thấy tình trạng đói nghèo đi liền với trình độ dân trí thấp do đó một phần nguyên nhân hạn chế sản xuất nông nghiệp phát triển xuất phát từ chính người nông dân, do họ không chịu sử dụng các giống cây trồng vật nuôi mới, bảo thủ và chậm tiếp cận đối với các phương thức canh tác, chăn nuôi, chậm tiếp nhận các quy luật cung cầu thị trường dẫn tới sản xuất hàng hóa chất lượng thấp, không phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Mối liên hệ giữa sản xuất và tiêu thụ còn yếu. Gắn liền sản xuất với tiêu thụ chính là yêu cầu cơ bản của một nền sản xuất hàng hóa. Người nông dân hiện nay hầu hết vẫn thụ động trong khâu tiêu thụ sản phẩm mà phụ thuộc chủ yếu vào thương lái dẫn tới thường xuyên bị ép giá. Cũng do không có sự gắn kết giữa sản xuất và tiêu thụ, dẫn tới khâu sản xuất không nhận được các tín hiệu về nhu cầu của thị trường mà thông thường do quá trình tiêu thụ mang lại nên sản xuất không đúng cái thị trường cần, quá trình tiêu thụ sản phẩm càng trở nên khó khăn hơn. Vấn đề thúc đẩy mối liên kết “4 nhà” (Nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp và Nhà nước) đã được đặt ra nhưng chưa đạt được hiệu quả.
Bên cạnh những nguyên nhân trên, còn tồn tại nhiều yếu tố vĩ mô gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp như: sự biến động của kinh tế thế giới dẫn tới cầu tiêu thụ giảm sút mạnh mẽ, diện tích đất đai cho sản xuất nông nghiệp giảm do quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hóa, thiên tai và biến đổi khí hậu toàn cầu,…
Có thể thấy các khó khăn đang tồn tại đối với sản xuất nông nghiệp có mối quan hệ đan xen, tác động lẫn nhau. Do khả năng tiếp cận vốn khó khăn, không có đủ vốn cho sản xuất, người nông dân không thể mở rộng sản xuất cũng như áp dụng khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất, dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao. Điều này lại đẩy người nông dân tới chỗ phải chịu thiệt thòi trong tiêu thụ sản phẩm, không thu lại được tiền đầu tư cũng như không có lợi nhuận sản xuất, từ đó càng trở nên khó khăn hơn về vốn. Cũng do không có vốn, người nông dân phải bán sản phẩm đi ngay khi thu hoạch. Do nhiều người bán cùng một lúc dẫn tới nguồn cung tăng đột biến, giá nông sản giảm và người nông dân dễ bị thương lái ép giá. Những lý do đó tạo thành một vòng quay luẩn quẩn khiến cho việc giải quyết những khó khăn đối với sản xuất nông nghiệp hiện nay trở nên khó hơn và không chỉ nằm trong tay người nông dân.
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch chưa được thực hiện tốt, thiếu những chiến lược và giải pháp nhằm quy hoạch ổn định, lâu dài đối với từng cây, con, sản xuất phần nào còn mang tính phong trào tự phát gây ảnh hưởng tiêu cực đối với các nguồn tài nguyên, đặc biệt là nguồn nước.- Tham gia vào thị trường thương mại thế giới có sự đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng nông sản. Do vậy phải có sự đầu tư một cách đồng bộ từ sản xuất đến đánh giá kiểm định chất lượng, bảo quản và vận chuyển tiêu thụ.
2.2.4.Cơ hội và thách thức sau khi ra nhập WTO
2.2.4.1.Cơ hội
Tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé.
2.2.4.2. Thách thức
Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập. Những thách thức này gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không.
Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v… Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Như vậy, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP CỦA NGÀNH LÚA GẠO VIỆT NAM
3.1.Nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững ngành lúa gạo
-Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa gạo
- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến gạo
Chính phủ cần sớm xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển tổng thể đối với các phân ngành nông nghiệp, đặc biệt là đối với các ngành có ưu thế, tạo ra nhiều giá trị xuất khẩu như sản xuất gạo, cà phê, cao su, chè, nuôi trồng và chế biến thủy sản, trên cơ sở đó từng địa phương phải chỉ đạo kiên quyết, không để tồn tại các hiện tượng phát triển ngoài quy hoạch. Đồng thời Chính phủ cũng cần có các biện pháp hỗ trợ người nông dân thông qua các ưu đãi về sử dụng đất, tín dụng đầu tư,…
Xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng nông thôn. Đặc biệt cần chú trọng đầu tư vào hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch. Bên cạnh việc sử dụng vốn nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng nông thôn, còn có thể kêu gọi sự tài trợ từ các tổ chức, dự án quốc tế, đặc biệt là cần huy động sức mạnh từ trong chính cộng đồng người dân sống ở nông thôn, kết hợp nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng nông thôn.
Đầu tư cho nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật, tăng cường các giải pháp kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu phát triển giống cây trồng vật nuôi, phát triển các biện pháp thâm canh, nuôi trồng mới cho năng suất, chất lượng cao hơn. Đặc biệt hoạt động nghiên cứu phải gắn liền với sản xuất, rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết khoa học và hoạt động sản xuất thực tế.
A Tăng cường công tác khuyến nông để có thể đưa giống cây trồng và vật nuôi mới có năng suất chất lượng cao hơn đi vào sản xuất. Phổ biến các phương pháp canh tác, chăn nuôi, các biện pháp thu hoạch bảo quản hiện đại, hiệu quả đến người nông dân để nâng cao chất lượng sản phẩm. Phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế sinh thái VACR để cải thiện đời sống nông dân.
Nâng cao dân trí cho vùng nông thôn. Phát triển thêm hệ thống trường học, nâng cao chất lượng trường lớp tại các vùng nông thôn. Đẩy mạnh công tác khuyến nông, hướng dẫn và đào tạo ngắn hạn cho người nông dân. Tăng cường công tác đào tạo cho đội ngũ khuyến nông và nâng cao chất lượng hệ thống cán bộ quản lý tại các vùng nông thôn.
Đẩy mạnh tạo lập thương hiệu cho hàng hóa nông sản Việt Nam. Đối với các ngành sản phẩm tạo ra giá trị xuất khẩu cao, đã chiếm lĩnh được vị thế trên thị trường thế giới, cần tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm để duy trì và nâng cao thương hiệu hàng hóa. Nhà nước và doanh nghiệp cùng phối hợp trong việc quảng bá hình ảnh nông sản Việt Nam đến người tiêu dùng thế giới, có thể lồng ghép trong các hoạt động quảng bá du lịch. Tăng cường tham gia các sàn giao dịch nông sản quốc tế. Người nông dân cũng phải tham gia quá trình tạo lập thương hiệu bằng cách tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình đảm bảo chất lượng sản phẩm. Chỉ những sản phẩm có chất lượng thực sự tốt mới có hình thành thương hiệu và định vị lâu dài trên thị trường quốc tế. Việc tạo lập thương hiệu cho hàng hóa nông sản cần có sự tham gia phối hợp của cả người nông dân, doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề và các cơ quan quản lý Nhà nước.
Hình thành mối liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ, thúc đẩy hơn nữa mối liên kết “4 nhà”, đặc biệt là mối liên kết giữa nhà nông và doanh nghiệp. Cần xây dựng các mô hình tổ chức quản lý từ khâu trồng trọt, chăn nuôi đến khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến và tiêu thụ tạo thành một chu trình khép kín hợp lý, giúp người nông dân có thể liên minh với doanh nghiệp, sử dụng nhiều biện pháp như ký gửi để có thể tiêu thụ theo kế hoạch, lưu trữ sản phẩm để bán khi có giá cao.
Xây dựng và phát triển các sàn giao dịch hàng hóa nông sản tập trung là đầu mối để người nông dân tiếp cận thị trường cũng như các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn sản xuất, giảm thiểu các khâu trung gian. Trên cơ sở phát triển của các sàn giao dịch tập trung còn có thể hình thành thị trường các tài sản phái s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng lúa gạo việt nam sau khi ra nhập wto.doc