LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I: DÂN SỐ VÀ LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM. 3
I. THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN DÂN SỐ Ở NƯỚC TA. 3
1. Quy mô và cơ cấu dân số. 3
a. Quy mô và sự gia tăng dân số. 3
b. Phân bố dân cư. 5
c. Cơ cấu dân số theo giới tính. 7
Bảng sau cho thấy sự thay đổi cơ cấu giới tính ở Việt Nam 7
d. Cơ cấu dân số theo độ tuổi. 8
2. Hậu quả của sự gia tăng dân số. 9
a. Dân số tăng nhanh kìm hãm sự phát triển kinh tế. 9
b. Dân số tăng nhanh ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội. 10
c. Dân số tăng nhanh làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, tăng nạn tham ô hiễm môi trường và phá huỷ môi trường thiên nhiên. 11
3. Chiến lược phát triển dân số đến năm 2000. 12
a. Mục tiêu và giải pháp. 13
b. Các chính sách cụ thể. 13
II. THỰC TRẠNG NGUỒN LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA. 15
1. Đặc điểm thị trường lao động. 15
2. Một số mục tiêu và giải pháp khắc phục vấn đề thất nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 17
a. Mục tiêu: 17
b. Một số giải pháp chủ yếu: 18
3. Tiếp tục ban hành và kiện toàn hệ thống luật pháp về sản xuất kinh doanh và về quan hệ lao động 20
4. Đẩy mạnh dậy nghề gắn với việc làm, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ lành nghề của đội ngũ lao động. 21
5. Phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ, việc làm. 22
40 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 975 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng nguồn lao động ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g khác nhau. Bởi vì, ở những vùng miền núi, vùng xa, điều kiện đi lại khó khăn trình độ dân trí thấp, do đó việc vận động khó khăn hơn nhiều so với những vùng đồng bằng hay thành thị.
Bên cạnh đó cần có những biện pháp hành chính đối với những Đảng viên, viên chức Nhà nước không thi hành chính sách dân số KHHGĐ như phạt tiền, giảm mức lương hoặc biện pháp mạnh nhất là buộc thôi việc.
Thứ hai, tăng cường các chính sách bảo hiểm cho người già công tác bảo hiểm cho người già nếu làm tốt sẽ có tác dụng mạnh mẽ tới ý thức của người dân về số con mong muốn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến quy mô gia đình lớn đólà cần có nhiều con để phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, khi chức năng này được xã hội đảm nhiệm và làm tốt thì tất yếu sẽ dẫn đến số con trung bình giảm. Chính sách bảo hiểm cho người già có thể là tăng mức trợ cấp cho những người chấp nhận mô hình gia đình nhỏ tăng thêm 5% lương, với những cặp không có con lương hưu tăng 10% và chăm sóc sức khoẻ lúc ốm đau.
Tiến hành thành lập các trung tâm dưỡng lão, các hội người già, hội những người tình nguyện chăm sóc người già. Việc thành lập này có tác dụng thu hút sự tham gia, đóng góp của các thành viên , đoàn thể trong xã hội vào công tác này. Bản thân những người tình nguyện phải được đào tạo qua lớp nghiệp vụ y tá để có thể xử lý những tình huống đơn giản và họ sẽ hưởng chế độ ưu đãi và sự trợ cấp của Nhà nước hàng tháng. Đặc biệt chính sách bảo hiểm cho người già cần hoạt động mạnh hơn nữa ở khu vực nông thôn, nơi còn duy trì khá phổ biến và nặng nề tư tưởng cần có nhiều con.
Thứ ba, cần có những chính sách phân bố lại dân cư một cách hợp lý. Đi đôi với việc khuyến khích những người đi khai thác vùng kinh tế mới, Nhà nước phải có những chủ trương chính sách đảm bảo không chỉ về mặt vật chất mà cả về mặt tinh thần cho họ. Đặc biệt cần phải đầu tư về hệ thống y tế và giáo dục cho các vùng này. Thực hiện việc giao đất giao rừng trên cơ sở đầu tư ban đầu bằng tiền hoặc cây trồng... hoặc cho vay với lãi suất thấp. Có như vậy họ mới yên ổn làm ăn tránh trường hợp quay trở lại nơi xuất phát một cách ồ ạt, không có tổ chức.
Thứ tư, nâng cao năng lực tổ chức quản lý: Qua nhiều năm thực hiện khảo sát thực tế của một số nước trong khu vực, chúng ta phải thấy rằng, đồng thời với việc thực hiện các giải pháp trên, phải coi trọng việc nâng cao năng lực quản lý chương trình, một đảm bảo rất quan trọng cho việc thành công mà nội dung chính là đảm bảo một hệ thống đầy đủ, tổ chức đủ mạnh với một đội ngũ cán bộ được đào tạo và các nhà lãnh đạo có uy tín cao đảm nhận, xây dựng được một hệ thống thông tin tốt để giúp việc nâng cao chất lượng trong công việc xây dựng kế hoạch, xây dựng chính sách phải có một hệ thống chính sách đồng bộ bao quát được các nội dung có liên quan hướng vào việc giảm sinh để đưa mức sinh phát triển hợp lý.
II. THỰC TRẠNG NGUỒN LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA.
1. Đặc điểm thị trường lao động.
Đặc điểm đầu tiên khi nói về thị trường lao động ở nước ta là đông về mặt số lượng nhưng chưa mạnh về mặt chất lượng - Thể hiện ở chỗ số người bước vào tuổi có khả năng lao động ngày một đông. Khi đất nước mới thống nhất (1975) số người trong độ tuổi lao động chỉ có trên 2 triệu người, năm 1980: 25 triệu; 1985: 30 triệu ; 1990: 35 triệu; 1995: 40t riệu và dự tính đến năm 2000 khoảng 45 triệu người. Tỷ trọng nguồn lao động trong dân số ngày càng tăng: 1975: 45%; 1985: 50%; 1995: 54%. Dự tính đến năm 2000: 55 - 56% (GS.PTS Tống Văn Đường - phát triển dân số với việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay- LĐ & XH. Tháng 10 - 1996).
Từ khi nước ta chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường thì tình trạng thất nghiệp trở nên phổ biến. Tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm vẫn rất đông ở nông thôn cũng như thành thị (khoảng 6 - 7 triệu lao động dư thừa), phần lớn họ không có khả năng tìm việc ổn định.ở nông thôn, hàng chục triệu nông dân chỉ làm việc, bốn tháng trong một năm, tập trung vào mùa vụ, thời gian còn lại hầu như là nhàn rỗi. Trong khi lao động nông thôn chiếm tới 76% lực lượng lao động cả nước thì thời gian được sử dụng ở nông thôn chỉ ở mức 72,11%. Đặc điểm lao động ở nông thôn là trình độ văn hoá thấp, chủ yếu làm những công việc sử dụng nhiều sức lao động, lao động mang tính chất thủ công là chính, trình độ tay nghề rất thấp... Tình trạng thất nghiệp ở nông thôn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự di dân tự do ra các thành phố lớn, các đô thị để kiếm việc hình thành nên những "chợ lao động" gây khó khăn cho việc quản lý của các nhà chức trách. Năm 1996, tỷ lệ lao động nông thôn ra thành thị tìm việc làm trong dân số hoạt động kinh tế là 7,14%. Số lao động này chủ yếu làm các công việc và dịch vụ nặng nhọc như: làm thuê, đạp xích lô, đào đất... Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội ở các thành phố lớn như cờ bạc, nghiện hút, mại dâm... Hiện nay cả nước có khoảng 80 nghìn gái mại dâm, 80 nghìn người nghiện hút và 50 nghìn người sống lang thang bụi đời.
Trong khi tình trạng thất nghiệp ở nông thôn cao thì ở các khu công nghiệp kỹ thuật cao, khu chế xuất lại thiếu các kỹ sư và công nhân lành nghề. Đội ngũ quản lý ở tầm vĩ mô và tầm vi mô đông nhưng chưa mạnh, trình độ năng lực quản lý còn thấp kém, khả năng nắm bắt thông tin, tiếp cận với những tri thức tiên tiến của khoa học quản lý trong cơ chế thị trường chưa kịp thời đầy đủ. Không những thế, số lượng cán bộ bị thoái hoá biến chất ngày càng gia tăng, tình trạng một bộ phận cán bộ tham nhũng, vi phạm kỷ cương phép nước có chiều hướng phát triển, nạn quan liêu ăn đút lót, hối lộ, tham ô tài sản của Nhà nước đang trở thành "quốc nạn".
Không chỉ ở nông thôn mà kể cả các khu vực thành thị số lượng lao động chưa có việc làm cũng rất lớn, đặc biệt là các đô thị lớn như Đà Nẵng, Hải Phòng... Theo số liệu điều tra gần đây chiếm khoảng 7 - 8% tổng số lao động thành thị trong đó 80% tập trung ở lứa tuổi thanh niên và đại bộ phận là chưa có nghề. Trong số này khoảng 70% có nhu cầu cấp bách cần giải quyết việc làm ngay. Đặc điểm lao động thành thị là có trình độ văn hoá cao hơn nông thôn (phổ biến ở trình độ cấp II). Song thụ động trong việc tìm kiếm việc làm, trông chờ ỷ lại vào gia đình hoặc Nhà nước, kén chọn nghề (không thích lao động nặng nhọc, phổ thông, thu nhập thấp). Học sinh các trường Đại học, cao đẳng sau khi tốt nghiệp không muốn xa rời thành phố về nông thôn v à đi các tỉnh vùng sâu, vùng xa (theo báo cáo số này lên đến hàng nghìn người. Thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội có hàng trăm bác sĩ chờ việc, trong khi ở Tây nguyên miền núi Bắc Bộ rất thiếu). Lao động thành thị có hiện tượng tái thất nghiệp (do các doanh nghiệp thay đổi công nghệ, đòi hỏi lao động mới trẻ khoẻ, có tay nghề cao)... (Nguyễn Khang - về lao động, việc làm ở thành thị thời kỳ 1996 - 2000 - LĐ & XH tháng 2/1996). Như vậy, phải khẳng định một lần nữa là chúng ta đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt và trước hết là thiếu công nhân có kỹ thuật.
Mặt khác, cơ cấu lao động ở nước ta lại rất đặc trưng của một nền kinh tế thuần nông: 71% số người đang làm việc trong nền kinh tế là làm nông - lâm - ngư nghiệp, 14% làm trong các ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản, 15% làm trong các ngành dịch vụ - hậu quả là năng suất lao động bình quân đầu người rất thấp: 1,25 triệu đồng/năm/1 lao động(1995)
Đất nước ta từ khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, việc tiếp cận với nền kinh tế thị trường còn rất mới mẻ. Những thông tin về thị trường lao động còn rời rạc, thiếu chuẩn mực chung, thiếu kinh nghiệm nên chưa có sự thích ứng linh hoạt với cơ chế quản lý mới đã làm cho nhiều xí nghiệp, nhà máy thuộc khu vực quốc doanh bị giải thể hàng loạt dẫn đến tình trạng mất việc làm của rất nhiều công nhân. Theo tổng liên đoàn lao động Việt Nam :hiện có khoảng 3% số lao động trong doanh nghiệp Nhà nước không có việc làm hoặc không lương và gần 15% số lao động không làm việc hết thời gian quy định.
Với những đặc điểm nêu ở trên đã cho thấy một bức tranh khái quát về thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay. Đó là tình trạng thất nghiệp trá hình ở nông thôn và tình trạng thất nghiệp ở thành thị do chuyển đổi cơ chế. Với trình độ tay nghề của lao động rất thấp chưa theo kịp với tốc độ phát triển của nền kinh tế. Nhận thấy Đảng và Nhà nước cần phải có những chủ trương, chính sách nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp ở nước ta hiện nay.
2. Một số mục tiêu và giải pháp khắc phục vấn đề thất nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
a. Mục tiêu:
Phát triển hợp lý dân số trong sự cân đối với sự phát triển kinh tế, sử dụng có hiệu quả nguồn lao động tập trung giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động là mục tiêu cấp bách trong giai đoạn hiện nay của cách mạng nước ta. Những hạn chế và thể lực, kiến thức, tay nghề của người Việt Nam phải được khắc phục "thì nguồn nhân lực và nhân tố con người mới thực sự trở thành thế mạnh của đất nước"(1) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, trang 5
. Đảng ta coi"Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ"(2) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, trang 5
.
Phương hướng quan trọng nhất để giải quyết việc làm thời kỳ này, báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ" Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều tự do hành nghề, thuê mướn công nhân theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược và kinh tế, an ninh - quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn" (PTS. Nguyễn Lương Trào - Vấn đề việc làm thời kỳ 1996 - 2000: nhiệm vụ và giải pháp - LĐ & XH. tháng 10-1996 trang 1) Đại hội đảng VIII đã vạch ra mục tiêu về lĩnh vực lao động - việc làm đến năm 2000 như sau:
- Giải quyết việc làm cho 6,5 - 7 triệu người, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% và tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên trên 75%.
- Số lao động qua đào tạo chiếm khoảng 22-25% tổng số lao động.
b. Một số giải pháp chủ yếu:
Để phấn đấu đạt được các mục tiêu đã nêu trên, chúng ta phải hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp. Trong đó có cả những giải pháp lâu dài cơ bản và có cả những giải pháp có tính trước mắt.
1. Huy động mọi nguồn lực để tạo ra môi trường kinh tế phát triển nhanh có khả năng tạo mở nhiều chỗ làm việc mơí một cách thường xuyên và liên tục. Do dân số nước ta tăng nhanh từ nhiều năm trước, nên cung lao động còn tiếp tục tăng. Điều này gần như là bất khả kháng. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải tìm mọi cách tăng cầu về lao động. Để đạt được điều này cần một số giải pháp sau:
- Tận dụng mọi nguồn lực để mở rộng sản xuất kinh doanh trong nước. Việc mở rộng sản xuất kinh doanh trong nước chúng ta đang gặp một mâu thuẫn là: muốn phát triển nông nghiệp thì đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, còn công nghiệp thì lạc hậu, sức cạnh tranh rất yếu, thị trường nội địa đang bị "lấn sân". Hơn nữa trong điều kiện khoảng 70% lực lượng lao động nông nghiệp đang thiếu việc làm trầm trọng, thì giải pháp kinh tế tổng hợp hàng đầu để từng bước khắc phục tình trạng này là phải dồn sức cho sự phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp sử dụng nhiều lao động ở nông thôn; Khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống như: thêu ren, mây, tre đan... hướng vào đầu tư và phát triển các cây trồng vật nuôi đem lại giá trị kinh doanh cao, có giá trị xuất khẩu.
Hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước đang dần đi vào thế ổn định cần phải tiếp tục đầu tư cho khu vực này. Các doanh nghiệp tư nhân trực tiếp sản xuất cũng như được ưu đãi về thuế, về tín dụng và bảo hiểm rủi ro. Nhà nước cần mở rộng hình thức *** nhượng để thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài cho phát triển sản xuất. Đầu tư cho sản xuất phải đi lên với ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ tiên tiến. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp như giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, bảo trợ rủi ro.
- Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở sông nghiệp nặng về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử...
- Cần xúc tiến, mở rộng và phát triển các ngành dịch vụ. Trong đó tập trung vào các lĩnh vực vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng....
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 9-10% vừa là yêu cầu của sự phát triển, vừa là đòi hỏi của việc tạo mở công ăn việc làm. Tuy nhiên để có được tốc độ phát triển trên, tạo mở nhiều việc làm cho người lao động, phải có chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước, đồng thời thu hút mạnh các nguồn vốn bên ngoài, tăng nhanh đầu tư phát triển toàn xã hội, đưa tỷ lệ này đạt khoảng 30%GDP vào năm 2000.
2. Tiếp tục nghiên cứu, ban hành các chính sách hỗ trợ các đối tượng yếu thế trong việc tìm kiếm hoặc tự tạo việc làm.
Trong thời gian trước mắt, cần tập trung nghiên cứu, ban hành các chính sách và cơ chế cụ thể về:
- Khuyến khích sử dụng lao động nữ, trong đó cần chú ý việc lựa chọn nghề đào tạo (hoặc đi học nghề) và hình thức đào tạo phải tuỳ thuộc vào các địa bàn thuộc nông thôn hay đô thị, mới có thể nâng cao được khả năng có việc làm (tự tạo việc làm) sau đào tạo.
- Khuyến khích sử dụng lao động là người tàn tật: hỗ trợ các cơ sở sản xuất của thương binh và người tàn tật.
- Tập trung phần vốn tín dụng từ quỹ quốc gia về việc làm với lãi suất ưu đãi cho các đối tượng trọng điểm vay theo dự án nhỏ tự tạo việc làm cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo cho lao động thuộc diện chính sách ưu đãi, lao động thuộc đối tượng yếu thế.
- Có những chính sách nhằm trợ cấp thất nghiệp.
3. Tiếp tục ban hành và kiện toàn hệ thống luật pháp về sản xuất kinh doanh và về quan hệ lao động
Mối quan hệ giữa người thuê và người làm thuê trong cơ chế thị trường không chỉ là mối quan hệ hợp tác mà còn tồn tại những mâu thuẫn thậm chí dẫn đến xung đột. Vì vậy trong nhiều trường hợp người lao động nhận được những giá trị thấp hơn nhiều so với giá trị thực mình bỏ ra. Người lao động phải chịu nhiều vất vả, thiệt thòi trong sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách triệt để để bảo vệ quyền lợi người lao động khi họ làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh. Bộ luật lao động của nước ta là cơ sở pháp lý căn bản của vấn đề việc làm. Tuy nhiên, việc khuyến khích tự tạo việc làm chỉ trở thành hiện thực trong cuộc sống khi các văn bản hướng dãn thực hiện Bộ luật lao động, cũng như các văn bản pháp luật khác về đầu tư, về tài chính, tín dụng, thuế đất đai, doanh nghiệp... được xây dựng, bổ sung hoàn thiện có xem xét kỹ lưỡng đến vấn đề này một cách đồng bộ. Mặt khác, các cơ quan pháp lý và cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế cần tăng cường hơn nữa việc giám sát hoạt động mua bán và sử dụng lao động. Cần khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội như công đoàn, hội phụ nữ, hội nông dân, thanh niên tích cực hoạt động để bảo vệ lợi ích của các bên tham gia hợp đồng lao động.
4. Đẩy mạnh dậy nghề gắn với việc làm, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ lành nghề của đội ngũ lao động.
Đây là đòi hỏi búc xúc của người lao động để có cơ hội tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo việc làm, là một trong những điều kiện cần thiết để duy trì việc làm, tránh bị sa thải trước những thay đổi nhanh chóng về cơ cấu và công nghệ. Đây cũng là đòi hỏi bức xúc đối với lực lượng lao động để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Nước ta hiện nay có khoảng 700.000 cán bộ có trình độ đại học 7000-8000 cán bộ có trình độ thạc sỹ trở lên và khoảng 1000.000 công nhân được đào tạo có tay nghề. Đặc điểm lớn nhất của đội ngũ này là được đào tạo trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung và điều kiện của công nghệ lạc hậu của các nước XHCN cũ. Hiện nay nhiều lĩnh vực kinh tế mũi nhọn đang thiếu chuyên gia giỏi và cán bộ khoa học kỹ thuật đầu đàn. Tỷ lệ công nhân bậc cao trong các doanh nghiệp rất hạn chế (7,8% công nhân là công nhân bậc 5 trở lên trong các doanh nghiệp Nhà nước. Do trình độ cán bộ khoa học kỹ thuật yếu kém, nên sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao, thiếu sức cạnh tranh.
Để khắc phục kịp thời cần có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng vượt đội ngũ lao động có trình độ cao trên cơ sở dự báo được nhu cầu về các loại ngành nghề về trình độ cần đào tạo trong những năm trước mắt và 20 năm sau.
Thực hiện giải pháp này đòi hỏi phải đa dạng các loại hình, qui mô đào tạo; phải gắn chặt đào tạo nghề với việc làm sau đào, phát triển hình thức đào tạo theo hợp đồng; khuyến khích phát triển mở rộng và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề của Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức xã hội và tư nhân; Quy hoạch lại hệ thống các cơ sở dạy nghề cùng với việc tăng cường quản lý của Nhà nước hoạt động của các cơ sở này để bảo đảm chất lượng, trật tự, tránh bóc lột người lao động trong hoạt động dạy nghề. Sau khi đào tạo cán bộ khoa học có trình độ cao cần phải có cơ chế chính sách sử dụng hợp lý, nhằm tạo điều kiện để họ yên tâm làm việc, phát huy cao độ tay nghề của mình.
5. Phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ, việc làm.
Trung tâm dịch vụ việc làm là một đơn vị sự nghiệp, hoạt động vì mục tiêu xã hội. Nó là chiếc cầu nối rất quan trọng và không thể thiếu giữa cung và cầu lao động. Chức năng cơ bản của nó là tư vấn, cung cấp thông tin cho người lao động và người sử dụng lao động về học nghề, việc làm, về những vấn đề có liên quan đến tuyển dụng và sử dụng lao động, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động, dạy nghề gắn với việc làm. Nó còn là cách *** của quản lý Nhà nước thông qua việc tổ chức thu nhập và cung cấp các thông tin về thị trường lao động cho các cơ quan quản lý Nhà nước về lao động.
Việc tổ chức các trung tâm dịch vụ việc làm theo Bộ luật Lao động đòi hỏi phải quy hoạch, sắp xếp lại và nâng cao năng lực hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm. Đầu tư xây dựng, nâng cấp trang thiết bị, phương tiện dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề thuộc trung tâm dịch vụ việc làm của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để có đủ năng lực đảm bảo thực hiện các hoạt động đào tạo của chương trình.
6. Tăng cường hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá.
Hiện nay, xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất đang ngày càng trở nên phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng cường và phát triển của các quốc gia. Việc hoà nhập với thị trường thế giới là nhân tố quan trọng để giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội của Việt Nam trong đó có vấn đề lao động. Giải quyết vấn đề lao động trong quốc tế hoá lực lượng sản xuất có thể bằng cách sản xuất lao động đi làm việc ở nước ngoài. Xuất khẩu lao động đang được coi là biện pháp xoá đói giảm nghèo, nhưng một trong những vấn đề đang làm đau đầu các cơ quan quản lý lao động với nước ngoài cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu lao động là con em các gia đình nghèo (đối tượng cần được giải quyết việc làm thực sự, lại có ít cơ may được đi làm việc ở nước ngoài vì không có tiền làm thủ tục dịch vụ cũng như đặt cọc. Để công tác xuất khẩu lao động thực sự có thể phục vụ công cuộc xoá đói giảm nghèo trong đó cần ưu tiên cho con các gia đình nghèo và các gia đình chính sách cần có các giải pháp sau:
- Doanh nghiệp xuất khẩu lao động chỉ tạm thu của người lao động một khoản lệ phí tối thiểu để làm các thủ tục như khám sức khoẻ, đào tạo ban đầu... Khoản tiền này người lao động vay từ các nguồn như ngân hàng phục vụ người nghèo, quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
- Số tiền đặt cọc được thay thế bằng biện pháp tín chấp, cụ thể là giấy bảo lãnh của gia đình người được xuất khẩu lao động. Các loại giấy tờ này đề có xác nhận của chính quyền địa phương và các đoàn thể như hội nông dân, phụ nữ, đoàn thanh niên... với mục đích là sẽ phải bồi thường mọi thiệt hại cho tổ chức kinh tế khi con em họ bỏ trốn.
- Về phía cơ quan quản lý Nhà nước, nên ban hành văn bản pháp luật qui định trách nhiệm dân sự của người lao động và thân nhân họ khi vi phạm các điều khoản trong hợp đồng. Thực hiện các chế độ bồi thường kinh tế khi người lao động lợi dụng việc trên để trốn ra nước ngoài cư trú bất hợp pháp, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp và Nhà nước, làm mất thị trường lao động Việt Nam ở nước ngoài.
- Phần trích nộp từ lương của người lao động cho các doanh nghiệp nên tăng từ 12% hiện nay lên 15% nhằm bù đắp các rủi ro cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động khi thực hiện biện pháp tín chấp này.
Từ khi Nhà nước có những chính sách xuất khẩu lao động thì qui mô xuất khẩu lao động ngày càng tăng: Năm 1992: 812 người; 1993: 3.976 người; 1994: 9.234 người; 1995: 9593 người; 1996: 12.661 người(1) Bài đăng ở Thời báo kinh tế Việt Nam số 34 ngày 26/4/1997.
Một số giải pháp nêu trên đây nhằm tăng cường về lao động. Nhưng giải quyết việc làm phải thực sự gắn với đối tượng thất nghiệp, người thiếu việc làm. Có như vậy mới thực hiện được mục tiêu về giải quyết việc làm do Đại hội VIII.
Phần II
THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM
I/ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA VIỆT NAM.
Ngày nay trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng sự liên minh kinh tế giữa các khu vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hội sâu sắc mang tính toàn cầu và đang đi tới thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang nổi lên là khu phát triển kinh tế năng động nhất. Một trong những yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng là vai trò của nguồn nhân lực.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì nếu chỉ có lực lượng lao động đông và rẻ thì không thể tiến hành công nghiệp hoá, mà đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao. Chính nhờ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao mà Nhật Bản và các Nics (các nước công nghiệp mới) vận hành có hiệu quả công nghệ nhập khẩu hiện đại, sản xuất ra nhiều mặt hàng có thể cạnh tranh với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
Để đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục tiêu và động lực phát triển, con người có vai trò to lớn không những trong đời sống kinh tế mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm, nâng cao chất lượng con người, không chỉ với tư cách là người lao động sản xuất, mà với tư cách là một công dân trong xã hội một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng nhân loại... không thể thưc hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hóa nếu không có đội ngũ đông đảo những công nhân lành nghề, những nhà khoa học kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, những nhà lãnh đạo, quản lý tận tụy, biết nhìn xa trông rộng.
Vào những nưm 80, quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt ở châu Á - Thái Bình Dương. Con người được coi là yếu tố, quan trọng nhất của sự phát triển. Trong thời đại mới, muốn giải quyết hài hoà các yếu tố cung và cầu có liên quan đến chiến lược phát triển nguồn nhân lực thì cần xem xét khía cạnh nguồn nhân lực theo quan hệ một phía. Phải thấy được vai trò sản xuất của nguồn là vấn đề cốt lõi của học thuyết vốn con người. Và vai trò sản xuất của nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với vai trò tiêu dùng được thể hiện bằng chất lượng cuộc sống. Cơ chế nối lền hai vai trò là trả công cho người lao động tham gia các hoạt động kinh tế và thu nhập đầu tư trở laị để nâng cao mức sống của con người tạo nên khả năng nâng cao mức sống cho toàn xã hội và làm tăng năng suất lao động... các nước nghèo ở châu á đều nhận thức do tốc độ tăng dân số quá nhanh nhiều quốc gia coi việc giảm đói nghèo còn quan trọng hơn cả giáo dục, đó là một thiệt thòi to lớn. Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước với mục tiêu đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, an ninh quốc gia và sự bền vững của môi trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu quả kinh tế - xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên cơ sở công nghiệp hoá, hiện đại hóa trong đó phải lấy việc phát huy nguồn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV176.doc