MỞ ĐẦU. 1
PHẦN A.RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 3
I.Hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại: 3
1.Cho vay thấu chi( Overdraft lending): 4
2. Cho vay đối với doanh nghiệp: 4
3. Cho vay tiêu dùng(consumer loans): 6
4. Vay mua bất động sản ( housing loans): 6
5. Quan hệ tín dụng quốc tế : 6
II. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại: 7
1.Rủi ro cơ bản(principal risk): 8
2.Rủi ro lãi suất : 8
3.Rủi ro ngoại hối: 9
4.Rủi ro cấu trúc : 10
5.Rủi ro ngiệp vụ hay rủi ro hoạt động: 11
PHẦN B. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG: 12
I. Phòng ngừa trước khi cho vay: 12
1. Phân tích tín dụng: 12
2. Công tác phân tích khả năng tài chính của khách hàng: 15
II. Phòng ngừa sau cho vay: 17
III. Phòng ngừa rủi ro tín dụng bằng nghiệp vụ ngân hàng ( Hedging): 18
1.Quản lí khe hở nhạy cảm ( sensitive gap)với các biến số kinh tế: 18
2.Sử dụng các nghiệp nụ phái sinh(derivatives): 21
IV. Các công tác khác mà ngân hàng cần xem xét và thực hiện: 25
PHẦN C: THỰC TRẠNG NGUY CƠ VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI RRTD CỦA NHTM VIỆT NAM: 27
I. Một số nguy cơ và vấn đề còn tồn đọng: 27
II. Các giải pháp tham khảo chủ yếu: 29
KẾT LUẬN. .32
TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
35 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng nguy cơ và các giải pháp đối với rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nghiệp vụ nhanh gọn chính xác. 6. Rủi ro từ môi trường và các yếu tố thể chế khác:
Đây là loại rủi ro mà không chỉ tác động lên hoạt động tín dụng mà nó còn tác động lên mọi mặt hoạt động của ngân hàng. Đó là do sự biến đổi trong những qui định của pháp luật, do những thay đổi lớn về khoa học công nghệ. Đôi khi đó là do lạm phát, khủng hoảng kinh tế v.v. Như vậy, khả năng phòng chống các rủi ro này của một ngân hàng là khá hạn chế, để làm được việc đó, các ngân hàng phải có quan hệ hợp tác mật thiết lẫn nhau, cùng nhau tiến hành phân tích và đưa ra các biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Phần B. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng:
Như trên đã đề cập, việc phân loại rủi ro tín dụng chỉ mang ý nghĩa tương đối vì giữa chúng có những mối liên hệ rất mật thiết, loại này tác động lên loại kia và ngược lại. Vì vậy, để công tác phòng ngừa rủi ro thực sự đạt hiệu quả chúng ta phải tiến hành các biện pháp một cách tổng hợp, khoa học và mang tính hệ thống cao. Việc phòng ngừa RRTD phải được tiến hành thường xuyên liên tục và triệt để, từ trước đến sau khi quan hệ tín dụng được phát sinh, từ tầm vi mô đến tầm vĩ mô, phải xác định đó là nhiệm vụ của mỗi nhân viên trong ngân hàng mà phòng tín dụng chỉ là biểu hiện tập trung của công tác đó. Để đạt được những yêu cầu đó, một ngân hàng thường tổ chức thực hiện các nghiệp vụ một cách có hệ thống có chiến lược và kế hoạch cụ thể bao gồm các nội dung sau:
I. Phòng ngừa trước khi cho vay:
Đây là một cách phòng ngừa rủi ro thực sự hiệu quả và cần được đề cao vì phòng bệnh bao giờ cũng hơn là chữa bệnh. Khi một quan hệ tín dụng chưa phát sinh, việc lường trước và đánh giá đúng rủi ro tiềm năng là một công việc rất có ích nhưng cũng đòi hỏi người làm công tác tín dụng phải có những nỗ lực đi đôi với những biện pháp và điều kiện khác như cơ sở kĩ thuật, trình độ ...ỏ mức độ cao.Phòng ngừa trước cho vay có thể bao gồm các nội dung sau:
1. Phân tích tín dụng:
Đây là một công tác nghiệp vụ mang tính bắt buộc mà mọi ngân hàng phải thực hiện trước khi kí kết bất kì một hợp đồng tín dụng nào, nó giúp ngân hàng trong quá trình cho điểm tín dụng và đo lường rủi ro tín dụng trước cho vay. Việc phân tích tín dụng nhằm giải đáp những vấn đề sau:
- Người xin vay có đáng tin cậy hay không? Vì sao?
- Hợp đồng tín dụng có được cấu trúc hoàn chỉnh không
- Quyền đối với tài sản thế chấp và các quyền khác của phía ngân hàng.
1.1.Múc độ tin cậy đối với khách hàng :
Đây là vấn đề đánh giá khả năng thanh toán khoản vay đầy đủ, cả gốc và lãi, và đúng hạn của khách hàng, nó có tính quyết định trong việc phòng ngừa các rủi ro cơ bản khi quan hẹ tín dụng phát sinh. Để giải đáp vấn đề này ngân hàng cần căn cứ vào các yếu tố sau:
- Tính cách( character) : Trách nhiệm, tính trung thực, mục đich vay vốn đúng đắn nghiêm túc, kế họch trả nợ cụ thể và hợp lí là những cơ sở để tạo nên tính cách hay uy tín của khách hàng trong mắt ngân hàng. Ngân hàng sẽ không khi nào cho vay khi họ nhận thấy những yếu tố thiếu trung thực, thiếu trách nhiêm trong việc quản lí sử dụng vốn cũng như tính khả thi của khoản vay vì nó sẽ dễ khiến ngân hàng phải gánh chịu những món nợ khó đòi. Tính cách và uy tín của khách hàng được ngân hàng đánh giá qua những tiêu trí sau quan hệ lâu nay giữa ngân hàng và khách hàng, tham khảo chủ nợ khác của khách hàng, bạn hàng, mục đích vay, tính khả thi của dự án…
- Năng lực (capacity): năng lực ở đây có thể được hiểu là khả năng vay vốn, khả năng hoàn trả cũng như tư cách pháp lí của khách hàng trong việc kí kết hợp đồng tín dụng. Để hiểu về những vấn đề này, ngân hàng cũng có một hệ thống các chỉ tiêu cụ thể bao gồm: qui định pháp luật, năng lực người bảo lãnh, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh…
- Dòng tiền mặt (cash flow): đây là yếu tố đánh giá khả năng thanh khoản của khách hàng, nghĩa là khả năng trả nợ trong những thời kì khác nhau, đặc biệt là trong ngắn hạn. Việc đánh giá chỉ tiêu này tập trung vào một số chỉ tiêu sau : dòng tiền mặt từ doanh thu bán hàng, thu nhập, dòng tiền mặt từ việc bán tài sản, huy động từ các công cụ nợ, chứng khoán v.v. đây cũng là nhân tố bộc lộ những khía cạnh khác của doanh nghiệp như sức mạnh thị trường, chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ quản lí, tiềm năng phát triển…
- Tài sản thế chấp (collateral): Đây là vật đảm bảo cho sự vay nợ của khách hàng, giúp ngân hàng giảm bớt rủi ro mất vốn. Công tác thẩm định giá trị tài sản thế chấp do đó trở nên hết sức quan trọng. Trong việc đánh giá tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng thường đặt câu hỏi: người vay có sở hữu một tài sản nào có giá trị tương xứng với khoản vay hay không? đồng thời các cán bộ tín dụng phải đặc biệt nhạy cảm với những đặc điểm như: thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ chuyên môn hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Trong đó, yếu tố công nghệ đóng một vai trò quan trọng. Nếu tài sản của khách hàng qua lỗi thời thì giá trị thế chấp của nó sẽ giảm xuống, lí do là vì ngân hàng sẻ gặp nhiều khó khăn trong việc bán lại tài sản đó nếu khoản vay không được hoàn trả( ta sẽ đề cập kĩ hơn ở phần sau ).
- Các điều kiện về môi trường: ngân hàng phải luôn luôn nhận biết được những xu hướng tiến triển gần đây của hãng cũng như của ngành mà hãng hoạt động, hiểu được mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay. Một khoản cho vay có thể rất hiệu quả trên giấy tờ nhưng có thể giá trị của nó sẽ bị sụt giảm khi nền kinh tế lâm vào suy thoái hoặc lãi suất tăng cao do sức ép của lạm phát. Để làm tốt công tác này, ngân hàng phải có một hệ thống thu thập và lưu trữ thông tin thường xuyên liên tục với khối lượng lớn và phải tiến hành các nghiên cứu định kì về ngành và ngân hàng phục vụ.
- Sự kiểm soát : Nhân tố cuối cùng để đánh giá độ đáng tin cậy của một khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các cây hỏi như : những thay đổi về qui định có ảnh hưởng bất lợi đến người vay không và liệu khách hàng có đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng tín dụng mà các cơ quan quản lí của ngân hàng đặt ra không?v.v.
1.2. Cấu trúc của một hợp đồng tín dụng hoàn chỉnh:
Khi niềm tin mà ngân hàng dành cho khách hàng đã được xác định, vấn đề tiếp theo là tạo nên một hợp đồng tín dụng hoàn chỉnh để có thể đáp ứng yêu của cả ngân hàng và khách hàng. Vấn đề này được thể hiện trên các điều khoản của một hợp đồng tín dụng về thời gian cấp phát, kế hoạch hoàn trả, lãi suất, tài sản thế chấp, sự cam đoan bảo lãnh, và những điều khoản bảo đảm khác. Cấu trúc của một hợp đồng tín dụng không những phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngân hàng và khách hàng mà nó còn phải hạn chế đến mức tối đa những nguy cơ rủi ro mà cả hai bên phải gánh chịu. Nếu khách hàng gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ do cấu trúc của một món vay bắt bí hoặc không phù hợp thì chính ngân hàng cũng phải đối mặt với nguy cơ rủi ro tín dụng do không thu hồi được nợ. Như vậy, cấu trúc một khoản vay hoàn chỉnh khiến cho quan hệ giưa người vay và người cho vay là quan hệ hợp tác cùng có lợi, hoàn toàn không phải là quan hệ chèn ép triệt tiêu lợi ích lẫn nhau, do đó giảm thiểu rủi ro tín dụng.
1.3.Xác định quyền của ngân hàng đối với thu nhập hay tài sản hay thu nhập của khách hàng:
Nói chung, trừ một số hình thức tín dụng đặc biệt, đa phần các khoản tín dụng khác đều đòi hỏi khách hàng có tài sản thế chấp. Hình thức thế chấp có thể rất đa dạng, thông thường gồm các loại như: các khoản phải thu ( đối với cho vay hoạt động ( factoring) ), mua nợ ( cho vay thẻ tín dụng ( credit card loans) ), hàng tồn kho, bất động sản, tài sản cá nhân, sự đảm bảo cá nhân và các biện pháp an toàn khác. Việc qui định tài sản thế chấp nhằm đạt hai mục tiêu cơ bản của người cho vay( ngân hàng). Thứ nhất, bù đắp các khoản lỗ do rủi ro tín dụng xảy ra thông qua việc được sở hữu và bán các tài sản thế chấp. Thứ hai, tạo ra lợi thế về tâm lí cho người cho vay, đồng thời tăng trách nhiệm và động cơ hoạt động cho người đi vay. Ngườiđi vay sẽ tích cực hơn trong việc sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả cao nhất, thực hiện nghiêm túc các điều khoản của hợp đồng tín dụng, tránh được vấn đề về rủi ro đạo đức. Tài sản thế chấp cũng xác định những quyền nhất định của ngân hàng đối với tài sản cảu khách hàng, quyền được ưu tiên đối với các tài sản cảu khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán. Như vậy, có thể thấy quyền đối với tài sản và thu nhập đối với khách hàng là sự ràng buộc về mặt lợi ích giữa ngân hàng và khách hàng, khi đó rủi ro tín dụng sẽ được loại trừ bớt một phần.
Sau khi tiến hành công tác phân tích tín dụng ngân hàng có thể cho điểm tín dụng đối với khách hàng, tiến hành đo lường rủi ro, đánh giá dự án vay vốn và xác định giá trị và các điều khoản đảm bảo, bảo lãnh cho các khoản vay. Nhờ vậy có thể tránh được những rủi ro không đáng có trong quá trình hoạt động sau này.
2. Công tác phân tích khả năng tài chính của khách hàng:
Không phải ngẫu nhiên và chúng ta lại đặc biệt đề cập đến vấn đề này, đó thực sự là một khâu hết sức quan trọng và rất hiệu quả trong việc hạn chế rủi ro tín dụng trước cho vay. Như chúng ta đã biết, công tác phân tích tín dụng đề cập ở trên chỉ thực sự hiệu quả nếu chúng ta có đầy đủ thông tin về khách hàng, về môi trường kinh tế, về đối thủ cạnh tranh v.v ( hạn chế hiện tượng thông tin bất cân xứng) Mà nguồn thông tin thì vô cùng phong phú và đa dạng, truyền hình, các ấn bản, sự lên xuống của các biến số kinh tế, còn riêng đối với khách hàng thì đó là từ phía người tiêu dùng sản phẩm của khách hàng, các đối tác, quan hệ cũ với ngân hàng v.v về món vay thì đó là số lượng, mục đích, kế hoạch triển khai tính khả thi kế hoạch hoàn trả v.v Trong vô vàn những nguồn thông tin đó, các báo cáo tài chính là một nguồn thông tin rất mạnh, đáng tin cậy, trực tiếp và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động khác của QHTD. Sở dĩ báo cáo tài chính lại có những điểm mạnh như vậy là vì nó được đảm bảo và mang tính pháp lí rất cao, bên cạnh đó, nó phản ánh một cách đầy đủ khoa học và có hệ thống tình trạng tài chính của một thực thể kinh tế. Thực ra, điều này chỉ thực sự chuẩn xác ở một số nước phát triển, nơi có một hệ thống kế toán kiểm toán hoàn thiện, một môi trường pháp lí công khai nhất quán, còn ở một số nước đang phát triển tuy đã có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây song vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết nhất định. Nhưng dẫu sao, đây cũng là một cơ sở quan trọng và giàu tính thuyết phục nhất để rút ra những nhận định chính xác về khách hàng. Đối với các khách hàng là cá nhân, các báo cáo tài chính có thể là biên bản kê khai thu nhập cá nhân, lương tháng thu nhập bình quân, biên bản đóng thuế, tài khoản ngân hàng v.v thế nhưng phân tich báo cáo tài chính chỉ bộc lộ hết mặt mạnh của nó khi được áp dụng cho các khách hàng là doanh nghiệp. Thông qua một hệ thống các chỉ số được xây dựng một cách khoa học và có hệ thống ngân hàng có thể phân tích qua đó đánh giá được khả năng tài chính, khả năng tín dụng của một khách hàng và ước lượng được mức rủi ro tín dụng tiềm năng đối với mỗi khách hàng. Một hệ thống chỉ số và các công cụ phân tích như vậy được hình thành tùy thuộc vào nhiều yếu tố, ngành nghề mà doanh nghiệp hoạt động, tính chất của khoản tín dụng, mục tiêu của ngân hàng v.v và có thể gồm những chỉ số như:
+ tỉ lệ cơ cấu tài sản: . hàng tồn kho / tổng tài sản
. TSCĐ, khấu hao TSCĐ / tổng tài sản
. Các khoản phải thu/ tổng tài sản
v.v
+ tỉ lệ cơ cấu nợ phải trả: . nợ ngắn hạn/ tổng nợ và vốn chủ sở hữu
. nợ dài hạn/ tổng nợ và vốn chủ sở hữu
. thuế nộp/ tổng nợ và vốn chủ sở hữu
v.v
Nói chung là có vô cùng nhiều các hệ thống chỉ tiêu như vậy, đó là chỉ tiêu về doanh thu chi phí, lãi, lương v.v điều này rất phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu của ngân hàng, thế nhưng có một điều khẳng định là các chỉ tiêu này đều dựa trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp và công tác điều tra càng tiến hành tỉ mỉ chi tiết thì kết quả càng chính xác và đáng tin cậy. Thế nhưng việc phân tích này cũng có những nhược điểm nhất định, đó là vấn đề chi phí, để có được những khả năng phân tích như vậy đòi hỏi ngân hàng phải đầu tư rất lớn vào hệ thống trang thiết bị lưu trữ xử lí thông tin, đào tạo những nhân viên có trình độ cao v.v Như vậy, mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược riêng để cân đối và thực hiện công tác này sao cho đạt hiệu quả tối đa trong khả năng có thể.
II. Phòng ngừa sau cho vay:
Sau khi đã đồng ý cung cấp một khoản tín dụng cho khách hàng không có nghĩa là ngân hàng đã mất khả năng kiểm soát RRTD đối khoản vay đó. Công việc được tiếp tục tiến hành bằng việc kiểm soát món vay đó. Ngân hàng phải theo dõi sát xao việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp xem có hợp lí không, đúng mục đích không, thậm chí là tư vấn, hỗ trợ kĩ thuật cho khách hàng để nâng cao hiệu quả sử dụng cũng như tính an toàn trong việc sử dụng vốn. Thực tế cho thấy, các điều kiện của môi trường kinh tế, xã hội, chính trị luôn luôn biến đổi khiến cho những kế hoạch, dự án ban đầu đôi khi không còn phù hợp nữa, do vậy ngân hàng và khách hàng phải cùng nhau bám sát những diễn biến đó để có thể đưa ra những giải pháp điều chỉnh kịp thời. Lúc này, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chính là liều thuốc đẩy lùi căn bệnh rủi ro tín dụng đối với ngân hàng. Việc giám sát quản lí sau cho vay có thể diễn ra trên các mặt sau:
- Thực hiện kiểm soát và xem xét định kì đối với các loại hình cho vay: ví dụ kiểm tra theo chu kì 1 tháng đối với các món vay lớn và kiểm tra bất thường đối với các món vay nhỏ.
- Đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch thanh toán của khách hàng để có những biện pháp ứng phó kịp thời.
- Đánh giá chất lượng tài sản thế chấp
Nghiên cứu những qui phạm pháp luật và các điều khoản hợp đồng trên hợp đồng tín dụng
- Theo dõi thường xuyên diễn biến về tình hình tài chính, những biến đổi về vốn và tài sản của doanh nghiệp sử dụng vốn.
- Lập nhật kí theo dõi tình hình thực hiện lợp đồng tín dụng giữa hai bên.
- Kiểm tra thường xuyên các khoản vay lớn có khả năng ảnh hưởng mạnh tới tình trạng tài chính của ngân hàng. Đặc biệt cảnh giác với những khoản vay có vấn đề.
Nhìn chung, kiểm soát tín dụng là việc đảm bảo cho QHTD diễn ra lành mạnh, đúng với những gì hai bên đã qui ước. Nó giúp ngân hàng không những sớm tìm ra những khoản vay có vấn đề mà còn giúp ngân hàng ý thức được khả năng làm việc của bản thân, các nhân viên có làm hết chức trách của họ không. Chính vì thế mà ở một số ngân hàng lớn, họ đã tách riêngchức năng tín dụng và kiểm soát tín dụng thành hai bộ thận độc lập. Nó cũng giúp các nhà hoạch định chính sách, những nhà lãnh đạo cấp cao có thể đánh giá đúng hoạt động của ngân hàng mình để từ đó có những chiến lược giải quyết đúng đắn.
III. Phòng ngừa rủi ro tín dụng bằng nghiệp vụ ngân hàng ( Hedging):
Bên cạnh công tác phàng ngừa RRTD trước và sau cho vay như đã đề cập ở trên, để bảo vệ mình các NHTM cũng thường xuyên sử dụng các nghiệp vụ tiền tệ mà mình có. Đây thực là những vũ khí bí mật rất có hiệu quả mà ngân hàng có thể sử dụng để bảo vệ mình. Có thể dẫn ra ở đây là các biện pháp như quản lí khe hở nhạy cảm với các biến số kinh tế, sử dụng các nghiệp vụ phái sinh (derivatives), như nghiệp vụ tương lai (future), kì hạn (forward), quyền chọn (option) và nghiệp vụ hoán đổi (swap). Có thể nói đây là những biện pháp mang đậm tính chất chuyên môn chuyên nghiệp của ngân hàng.
1.Quản lí khe hở nhạy cảm ( sensitive gap)với các biến số kinh tế:
Có thể nói đây là chiến lược được các ngân hàng sử dụng khá phổ biến do nó có những lợi thế rất lớn của nó. Xét trên tổng thể, biện pháp này chính là cách thức ngân hàng quản lí cơ cấu tài sản của mình bao gồm tài sản nợ, tài sản có, giữa tài sản nợ và tài sản có. Nó giúp ngân hàng phát hiện những bất cập trong cơ cấu tài sản ( rủi ro cơ cấu)và từ đó hướng ngân hàng tới các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Hơn nữa chiến lược này là một chiến lược khá toàn diện và tổng thể, nó có thể phát huy tác dụng đối với nhiều biến số khách nhau như lãi suất, kì hạn, tỉ giá… Quá trình thực hiện biện pháp này có thể được mô tả một cách khái quát và đơn giản như sau
- Ngân hàng tiến hành phân tích kì hạn, định giá lại các cơ hội gắn với tài sản sinh lợi, tài sản có và cả các loại tài sản nợ như tiền gửi và các khoản vay trên thị trường. Yêu cầu của bước này là phải xây dựng một bảng cơ cấu tỉ mỉ các loại tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ dựa trên các tiêu thức lãi suất, kì hạn, tỉ giá v.v. Tiếp theo ngân hàng phải đưa ra được các nhận định về tình trạng hiện tại của bản thân và những diễn biến tiếp theo của thị trường, sự lên xuống của lãi suất, tỉ giá, sự thay đổi của kì hạn.
- Sau đó, từ những phân tích và nhận định đã có, dựa trên những số liệu cụ thể từ bảng cơ cấu trên, NHTM tiến hàng tính toán “ khe hở nhạy cảm”- nghĩa là xác định mức độ chịu ảnh hưởng của ngân hàng khi các yếu tố khác thay đổi, sự tăng của lãi suất, sự đến hạn thanh toán v.v Tiếp theo là xác định những mục tiêu điều chỉnh cụ thể để có thể tối đa hoá lợi ích của ngân hàng và tiến hành các biện pháp điều chỉnh thích hợp.
- Để có thể hoàn thành hai bước trên, ngân hàng cần dựa trên một số các chỉ số nhất định, mức độ tinh vi và chính xác còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhưng có một số chỉ iêu cơ bản sau:
- Khe hở nhạy cảm = tổng tài sản có nhạy cảm – tổng tài sản nợ nhạy cảm
- tỉ lệ nhạy cảm = tổng tài sản có nhạy cảm/ tổng tài sản nợ nhạy cảm
- tỉ lệ khe hở nhạy cảm tương đối = khe hở nhạy cảm / tổng tài sản
- Thay đổi trong thu nhập lãi = thay đổi trong lãi suất . qui mô khe hở nhạy cảm tích luỹ
- Thu nhập lãi cận biên (NIM) = thu nhập từ lãi / tổng tài sản sinh lời
Để minh hoạ cụ thể cho biện pháp này, chúng ta cùng xem xét một ví dụ giả tưởng đơn giản sau: Bảng 1 mô tả một kết cấu tài sản vay và cho vay của một ngân hàng trong một số thời kì nhất định.
các khoản vay và cho vay nhạy cảm với lãi xuất
Kì hạn
1 tháng
2 tháng
3 tháng
…
Tổng cộng
Vay
$ 10.00
$ 7.00
$ 6.00
$ 23.00
cho vay
$ 15.00
$ 8.00
$ 4.00
$ 27.00
khe hở nhạy cảm với lãi suất
$ 5.00
$ 1.00
-$ 2.00
khe hở nhạy cảm với lãi suất tích luỹ
$ 5.00
$ 6.00
$ 4.00
tỉ lệ tài sản nhạy cảm trên nguồn vốn nhạy cảm
$ 1.50
$ 1.14
$ 0.66
trạng thái
nhạy cảm tài sản
nhạy cảm tài sản
nhạy cảm nợ
NIM giảm nếu
lãi suất giảm
lãi suất giảm
lãi suất tăng
Bảng 1
Trong bảng trên, dựa vào cơ cấu của các khoản cho vay, ngân hàng có thể nhận ra tình trạng hiện tại của mình trong từng thời kì cụ thể, như trong ngắn hạn, ngân hàng đang ở trong tình trạng nhạy cảm tài sản có, lãi suất giảm thì lợi nhuận cận biên của ngân hàng có thể giảm theo. Hay ở trong dài hạn, 3 tháng, ngân hàng đang ở trong tình trạng nhạy cảm tài sản nợ, lãi suất tăng sẽ khiến ngân hàng chịu thua thiệt… Qua đó giúp ngân hàng có những điều chỉnh kịp thời, như tăng tài sản nợ, giảm tài sản có trong ngắn hạn, và ngược lại đối với dài hạn. Thực tế, đây chỉ là hình thức sơ đẳng nhất để giúp chúng ta nhìn nhận phương pháp này, thực tế, tuỳ theo khả năng công nghệ và trình độ nghiệp vụ của mỗi ngân hàng, nghiệp vụ này có thể phát triển và phát huy tác dụng ở những mức độ khác nhau. Ngày nay, với sự trợ giúp của máy tính điện tử và công nghệ mạng máy tính, phương pháp này giúp ngân hàng có thể kiểm soát hiệu quả bảng cân đối tài sản của mình trong một thời hạn không hạn chế. Và khi có bất kì một phân tích, dự đoán nào trong tương lai, nó sẽ giúp ngân hàng tính toán ngay được kết quả về tình trạng tài chính cũng như thu nhập tiềm năng của mình.
Như vậy qua ví dụ trên, chúng ta có thể rút ra những nhận xét chung như sau:
- Một khe hở dương nghĩa là ngân hàng ở trong tình trạng nhạy cảm có, khi đó nếu lãi suất tăng thì thu nhập ngân hàng sẽ tăng do thu tăng từ lãi trên tài sản có nhiều hơn chi phí tăng cho phần tài sản nợ, và nguợc lại.
- Một khe hở âm nghĩa là ngân hàng đó ở trong tình trạng nhạy cảm nợ, lãi suất tăng thì thu nhập ngân hàng sẽ giảm và ngược lại.
- tỉ lệ thu nhập lãi cận biên của ngân hàng chịu sự tác động vào nhiều yếu tố như:
. thay đổi trong lãi suất
. khe hở tài sản nhạy cảm, dương hay âm, qui mô
Ngày nay với sự trợ giúp của công nghệ thông tin, máy tính điện tử các ngân hàng có thể thực hiện biện pháp này ở những mức độ tinh vi và chính xác rất cao. Nhà quản lí có thể chọn lựa một thời kì mục tiêu dài hơn, sự biến đổi trong cơ cấu tài sản có thể cập nhật theo từng nghiệp vụ phát sinh, các phân tích dự đoán được thực hiện nhanh chóng và chính xác hơn. Do vậy, chiến lược này đã tỏ ra thực sự phát huy hiệu quả. Tuy nhiên ở đây còn một vấn đề tác động đến hiệu quả của phương pháp này, đó là chiến lược mà các ngân hàng áp dụng trong việc thực thi quản lí khe hở nhạy cảm tài sản. Về mặt lí thuyết, nếu khe hở nhạy cảm tài sản bằng 0 thì ngân hàng hoàn toàn không chịu rủi ro cơ cấu, đây là xu hướng của chiến lược quản lí mang tính bảo vệ. Tuy nhiên thực thi điều này cũng có nghĩa là triệt tiêu các cơ hội tăng cao lợi nhuận, gây nên những thua lỗ tương đối so với các ngân hàng khác hoạt động trong cùng ngành. Vì thế, các ngân hàng còn một loại chiến lược nữa là quản lí khi hở nhạy cảm lãi suất năng động. Nghĩa là họ tin vào khả năng nhận định của mình về những diễn biến sắp tới của thị trường và có những chiến lược thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn. Ví dụ khi lãi suất thị trường tăng, họ nâng cao khe hở lãi suất, khi lãi suất thị trường giảm họ hạ thấp khe hở lãi suất, trong những giai đoạn thị trường bất ổn họ cố duy trì một chiến lược bảo vệ. Làm như vậy sẽ tối đa hoá được lợi nhuân cho ngân hàng, nhưng như vậy cũng có nghĩa là chấp nhận rủi ro, nhưng biết làm sao được khi rủi ro là một thuộc tính của hoạt động ngân hàng và cũng có thể coi đây là một nhược điểm của chính sách này.
Như vậy, qua những gì chúng ta vừa bàn luận, không thể phủ nhận những tính chất ưu việt của chiến lược quản lí khe hở nhạy cảm của tài sản, đó là sự tổng quát, chặt chẽ trong lí luận cũng như thực hiện, tác động mang tính tổng hợp của nó, dễ vận dụng… Tuy nhiên biện pháp nàykhông phải là không có những khiếm khuyết. Ngoài những rủi ro phải chấp nhận khi theo đuổi chính sách quản lí khe hở năng động, và sự triệt tiêu cơ hội khi theo đuổi chính sách bảo vệ như đã nhắc đến ở trên, trên thực tế khi thực hiện chiến lược này các ngân hàng còn gặp phải một số trở ngại khác. Đó là sự khó khăn khi tìm kiếm các tài sản có và tài sản nợ có kì hạn hoàn trả, lãi suất phù hợp với yêu cầu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ điều chỉnh, nhất là ở một số nước đang phát triển như nước ta, các công cụ tài chính còn đơn điệu và ít. Tiếp theo là sự khó khăn trong việc xác định qui mô các luồng vào và ra của một số loại tài khoản như tài khoản tiền gửi giao dịch và tài khoản tiết kiệm, nhất là ở một số nước có trình độ công nghệ còn lạc hậu, hệ thống tài chính chưa hoàn thiện. Đây là những thách thức thực sự đối với mỗi ngân hàng trong công cuộc tìm kiếm lợi nhuận và bảo vệ ngân hàng khỏi những rủi ro.
2.Sử dụng các nghiệp nụ phái sinh(derivatives):
Cũng với nguyên tắc chủ đạo của các nhà kinh doanh ngân hàng năng động, để phòng chống rủi ro đồng thời tạo ra lợi ích, thì họ sẽ tìm cách tối đa hoá các tác động tích cực và tối thiểu hoá các tác động tiêu cực của thị trường của nền kinh tế. Các công cụ phái sinh chính là để thực hiện điều đó, các công cụ này bao gồm, tương lai, kì hạn, quyền chọn và hoán đổi. Thực ra, đây không hoàn toàn là những công cụ trên thị trường tín dụng, nó không đơn thuần là sự vay nợ lẫn nhau, nhưng nó chính là những công cụ để ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ điều chỉnh cơ cấu các món vay và cho vay của mình, đa dạng hoá các loại tài sản, ưu điểm của nó là đa dạng, sẵn có và dễ dàng.
2.1.Hợp đồng tương lai:
Hợp đồng tương lai thực chất là một thoả thuận mua hay bán một số lượng công cụ tài chính cụ thể, nhất là các loại chứng khoán, tại một thời điểm ấn định trong tương lai với một mức giá đã được định trước. Giá thị trường của hợp đồng tương lai thay đổi hằng ngày, tùy theo các qui luật của thị trường, nên chúng được định giá hằng ngày (mark to market) để phản ánh giá trị hiện tại sẽ được giao dịch, quá trình thanh toán được thực hiện cuối mỗi ngày giao dịch qua trung tâm thanh toán bù trừ. Mục đích của viêc giao dịch các hợp đồng tương lai là làm chuyển dịch rủi ro từ người này sang người khác. Giá bán của một hợp đồng tương lai ngày hôm nay phản ánh mức giá mà các nhà đầu tư trên thị trường hi vọng vào ngày mà nó được thực hiện. Nghiệp vụ phòng chống rủi ro trong tương lai nhìn chung đòi hỏi ngân hàng phải thiết lập vị thế trên thị trường tương lai đối nghịch với vị thế trên thị trường hiện tại trên thị trường giao ngay. Vì vậy có hai loại nghiệp vụ ngược nhau là phòng chống thế đoản và phòng chống thế trường.
- Phòng chống thế đoản:
Giả sử lãi suất trên thị trường được dự tính tăng, nghĩa là tăng chi phí huy động vốn đối với các loại tiền gửi, vay ở hiện tại và đồng thời làm giảm giá trị của các trái phiếu hay các khoản cho vay lãi suất cố định mà ngân hàng hiện có hay dự định mua. Khi đó nghiệp vụ phòng chống thế đoản có thể được sử dụng. Nhà quản lí ngân hàng sẽ tham gia hợp đồng tương lai bán chứng khoán khi những khoản tiền gửi mới xu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0699.doc