Đề tài Thực trạng nước ta và nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá

Nước ta đi lên CNXH với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư nông thôn có mức thu nhập rất thấp, sức mua hạn chế. Bởi vậy quá độ lên CNXH nước ta mang tính chất rút ngắn, bỏ qua giai đoạn TBCN, chứ không thể bỏ qua việc phát triển lực lượng sản xuất. Chừng nào chưa tạo ra được cái cốt vật chất kĩ thuật phù hợp với CNXH thì đất nước ta chưa có CNXH hiện thực. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật ấy ở nước ta chính là quá trình công nghiệp hoá hiện đại nền kinh tế quốc dân.Thực chất của quá trình này là quá trình tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNxH.

Hiện nay quan niệm CNH truyền thống ( CNH trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung) đã không còn thích hợp. Mặt khác, hoàn cảnh phát triển của thế giới gần đây đã thay đổi mạnh mẽ đến mức sự phát triển hiện đại chỉ có thể diễn ra trên cơ sở những nhận thức mới và tư duy mới về phát triển. Điều này càng đúng với tiến trình CNH, HĐH của Việt Nam, một tiến trình phải giải quyết một nhiệm vụ kép của lịch sử. Đó là:

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1811 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng nước ta và nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu ------***------- Công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) từ trước đến nay luôn được coi là chủ trương lớn của Đảng, chính phủ nước ta. Được đặt ra từ những năm 1960, chịu ảnh hưởng của cuộc kháng chiến dân tộc bởi vậy, ban đầu việc thực hiện chủ trương này còn chưa được nhiều, bên cạnh đó còn có biểu hiện nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn. Khi hòa bình được lập lại, chủ trương công nghiệp hoá-hiện đại hoá tiếp tục được triển khai qua các văn kiện của đại hội: IV,V,VI,VII. Nó được coi là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), không những thực hiện nội dung chuyển lao động thủ công năng suất thấp thành lao động sử dụng máy móc có năng suất cao mà còn phải đi tắt đón đầu, ứng dụng những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thực sự trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, các nhà nước, của mọi doanh nghiệp và của toàn xã hội. Thành công của sự nghiệp này là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Vậy, Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là gì? Tầm quan trọng của nó trong quá trình xây dựng đất nước đi lên CNXH cần phải hiểu như thế nào cho đúng? Chúng ta cần phải làm gì để xây dựng thành công quá trình này? Đó là câu hỏi lớn đặt ra cho sự phát triển kinh tế nước ta hiện nay. Nội dung chính I.Công nghiệp hoá - hiện đại hoá và những vấn đề cơ bản 1. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là gì? Lịch sử cho thấy tất cả các nước phát triển đều trải qua quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tuy diễn ra ở các thời điểm khác nhau với quy mô tốc độ khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau, nhưng đó là một tất yếu khách quan. Vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là gì? Đó là cụm từ xuất hiện khi có sự kết hợp của cả hai quá trình: công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong đó: - Công nghiệp hoá (CNH) là quá trình biến đổi một nước từ nông nghiệp sang công nghiệp. Nói cách khác đó chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền kinh tế quốc dân, là một bước tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật cho xã hội phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hình thành quan hệ sản xuất xã hội. ( Cuộc cách mạng lần thứ nhất) - Hiện đại hoá (HĐH) là sự chuyển đổi nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh hậu công nghiệp thông qua việc chuyển đổi trang thiết bị kỹ thuật, trình độ kỹ thuật ngày càng tiến bộ ngang bằng trình độ kĩ thuật mà thế giới đạt được (Cuộc cách mạng kĩ thuật lần 2). Trong thời đại ngày nay: Một nước làm công nghiệp muốn nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu về khoa học-kĩ thuật-công nghệ thì cùng một lúc phải kết hợp thành tựu của hai cuộc cách mạng kĩ thuật nói trên. Hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghiệp hoá - hiện đại hoá: đó là ''quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động quản lý kinh tế-văn hoá-xã hội từ sử dụng sức lao động dựa trên công cụ thủ công là chủ yếu sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng kĩ thuật công nghệ và phát triển sản xuất tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển công nghệ và sự tiến bộ khoa học kĩ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội''. 2.Vai trò và những mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá a. Vai trò Từ thập niên 60 của thế kỷ XX Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Vậy, CNH-HĐH giữ vai trò gì? Thứ nhất, tạo ra những điều kiện vật chất kĩ thuật cần thiết về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Thứ hai, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhảy vọt về chất làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, cùng một lúc giải quyết nhiều vấn đề sau: + Nâng cao khả năng tích luỹ cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá. + Tăng thu nhập quốc dân tính theo đầu người. + Tạo cơ sở vật chất kĩ thuật làm tiền đề củng cố liên minh công nông-tri thức từ đó góp phần củng cố tăng cường Nhà nước XHCN. Ba là, tạo tiền đề về vật chất để hình thành nền văn hoá mới. Bốn là, góp phần xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, củng cố và tăng cường quốc phòng an ninh, nâng cao sức cạnh tranh nông nghiệp và sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, từ đó tạo điều kiện đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. b. Mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hoá - hiện đại hoá Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục được khẳng định tại đại hội Đảng lần IV là:'' Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại''. Theo tinh thần của văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta phải ra sức phấn đấu để đến 2020 về cơ bản nước ta trở thành nước công nghiệp tiên tiến với: + Lực lượng sản xuất tương đối hiện đại. + Quan hệ sản xuất XHCN đã hình thành mà ở đó kinh tế nông nghiệp đã giữ được vai trò thống trị. + Đời sống vật chất văn hoá, tinh thần được cải thiện nâng cao rõ rệt. + Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã xây dựng về căn bản Đến năm 2010 phải vượt ra khỏi nước nghèo bước vào nước đang phát triển. Kinh tế đã xây dựng được những nét cơ bản. Bộ xương cho nền công nghiệp hiện đại được hình thành. Tốc độ tăng trưởng bình quân là 7.2% , công nghiệp chiếm 30-30% , nông nghiệp từ 16-17% trong GDP. Đến năm 2020 GDP/người là 5000-6000 $ và nước ta trở thành nước tiên tiến. 3. Cơ sở vật chất kĩ thuật và tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá a. Cơ sở vật chất kĩ thuật Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc trên cơ sở vật chất kĩ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kĩ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kĩ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội. Lịch sử xã hội hình thành và tồn tại những mối liên hệ tất yếu nên phương thức sản xuất ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những yếu tố của cơ sở vật chất kĩ thuật của phương thức sản xuất trước đó, dựa trên cơ sở cải tạo và phát triển thành cơ sở vật chất kĩ thuật của bản thân mình. Phương thức sản xuất TBCN xuất hiện từ đầu thế kỷ XVI, nó trở thành phương thức sản xuất thống trị khi tạo ra được nền công nghiệp cơ khí thông qua cuộc cách mạng công nghiệp và quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hoá. Nhưng cũng chính sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí với sản xuất mang tính xã hội hoá ngày càng cao đã tạo ra tiền đề vật chất khách quan cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới: Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH.Đó là nền đại công nghiệp cơ khí ứng dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. b.Tính tất yếu khách quan Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH không thông qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở vật chất và kĩ thuật của CNXH trong đó có công nghiệp và nông nghiệp, có văn hoá và khoa học tiên tiến, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hoá chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất kĩ thuật đó cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta được thể hiện ở góc độ kinh tế và chính trị xã hội. Về kinh tế: Chỉ có CNH-HĐH mới có cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta sẽ tạo ra một sức sản xuất mới bao gồm nhiều loại công cụ mới và các loại tư liệu sản xuất khác, cùng với những người lao động có tổ chức, tiến hành hiệp tác với kĩ năng lao động ngày càng cao từ đó làm cho năng suất lao động tăng lên. Dựa trên cơ sở vật chất kĩ thuật ngày càng cao của CNXH và quan hệ sản xuất XHCN ngày càng được hoàn thiện, nền sản xuất xã hội sẽ không ngừng được phát triển và đời sống vật chất văn hoá của nhân dân sẽ không ngừng được nâng cao trên cơ sở phát triển nền sản xuất đó. CNH-HĐH là tất yếu về chính trị xã hội: Những thành tựu đạt được trong quá trình CNH-HĐH tạo ra nhiều khả năng thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tôc, giữa các vùng, các miền của đất nước. Tình hình đó đưa đến sự thống nhất ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội - XHCN. CNH-HĐH còn là một yêu cầu khách quan của quốc phòng. Nguồn lực quốc phòng của một nước phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó nền kinh tế lớn mạnh, CNH-HĐH thúc đẩy kinh tế phát triển qua đó cũng thúc đẩy quốc phòng an ninh ngày một vững mạnh. Có thể nói thêm, chỉ có thực hiện CNH-HĐH nước ta mới xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ và tham gia phân công hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập. Như vậy CNH-HĐH là nhân tố quyết định sự thắng lợi hoàn toàn và triệt để của CHCN, không làm CNH-HĐH sẽ không có XHCN. 4. Lịch sử công nghiệp hoá hiện đại hoá Thế giới trải qua hai mô hình công nghiệp hoá trong lịch sử : Thứ nhất là mô hình công nghiệp hoá tuần tự: Mô hình này gắn với những nước làm công nghiệp hoá trước tiên: Anh, Pháp, Mỹ. Diễn ra trong bối cảnh cũ nên con đường tiến hành mang tính chất mò mẫm từ thấp đến cao và kéo dài cho đến hàng trăm năm. Với nước Anh mô hình công nghiệp hoá được tiến hành bắt đầu từ công nghiệp nhẹ ( dệt ) sau đó đến các ngành công nghiệp nặng: luyện kim, cơ khí... quá trình diễn ra từ thấp đến cao từ thủ công đến nửa cơ khí và cơ khí hoá hoàn toàn quá trình sản xuất. Hai là mô hình công nghiệp hoá rút ngắn: thực hiện các giai đoạn với tuần tự rút ngắn so với các nước đi trước. Mô hình này được chia ra làm hai loại: * Công nghiệp hoá rút ngắn cổ điển Mô hình này được tiến hành ở Liên Xô cũ, Nhật Bản tuần tự được rút ngắn hơn nhiều so với các nước đi trước (Anh, Mỹ, Nhật). Ví như Nhật Bản chia ra làm hai chặng để thực hiện và mất 45 năm,Liên Xô thực hiện thành công chỉ mất 16 năm tuy rằng bối cảnh không khác các nước đi trước và cách làm vẫn như thế. * Công nghiệp hoá rút ngắn hiện đại: Diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá, quốc tế hoá bởi vậy cách thực hiện khác trước. Nó mang đậm màu sắc thời đại. II. Thực trạng nước ta và nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. 1. Thực trạng đất nước Nước ta đi lên CNXH với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư nông thôn có mức thu nhập rất thấp, sức mua hạn chế. Bởi vậy quá độ lên CNXH nước ta mang tính chất rút ngắn, bỏ qua giai đoạn TBCN, chứ không thể bỏ qua việc phát triển lực lượng sản xuất. Chừng nào chưa tạo ra được cái cốt vật chất kĩ thuật phù hợp với CNXH thì đất nước ta chưa có CNXH hiện thực. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật ấy ở nước ta chính là quá trình công nghiệp hoá hiện đại nền kinh tế quốc dân.Thực chất của quá trình này là quá trình tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNxH. Hiện nay quan niệm CNH truyền thống ( CNH trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung) đã không còn thích hợp. Mặt khác, hoàn cảnh phát triển của thế giới gần đây đã thay đổi mạnh mẽ đến mức sự phát triển hiện đại chỉ có thể diễn ra trên cơ sở những nhận thức mới và tư duy mới về phát triển. Điều này càng đúng với tiến trình CNH, HĐH của Việt Nam, một tiến trình phải giải quyết một nhiệm vụ kép của lịch sử. Đó là: Một, phải vượt qua nền kinh tế nông dân lạc hậu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Hai, phải nhanh chóng gia nhập vào quỹ đạo kinh tế toàn cầu và phát triển kinh tế tri thức. Trong biểu hiện như vậy, quan niệm CNH có những nét mới căn bản. Không tiếp cận đến quan niệm đó, khó có thể định hướng chiến lược và chính xác CNH, HĐH phù hợp với xu hướng thời đại. Trong giai đoạn đổi mới vừa qua, nước ta đã đạt được những thành tích phát triển nổi bật, rút ngắn khoảng cách chênh lệch phát triển với các nước đi trước. Mặc dù vậy, nước ta vẫn ở trong tình trạng nghèo và kém phát triển. trong khung cảnh mở cửa và đua tranh phát triển toàn cầu, trình độ này chứa đựng nguy cơ khó nhập được vào quỹ đạo phát triển hiện đại, khó tiếp cận đến các điều kiện vật chất kĩ thuật cho phép giải quyết hiệu quả các vấn đề phát triển. Mâu thuẫn này đòi hỏi giải quyết có tư duy mang tính chất đột phá để giải quyết vấn đề : để nền kinh tế thực sự nhập vào quỹ đạo phát triển hiện đại, phải thực thi một mô hình CNH, HĐH cho phép rút ngắn quãng đường phát triển mà các nước đi trước đã trải qua. Trong vài thập niên trở lại đây, thế giới đã nổi lên những yếu tố sau : - Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế và phát triển kinh tế tri thức. - Hệ quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông á : Vấn đề mô hình phát triển kinh tế- xã hội của giai đoạn tới; những lựa chọn chiến lược mới và sự phục hồi sau khủng hoảng của các nền kinh tế cạnh tranh trong khu vực ảnh hưởng rất mạnh đến định hướng phát triển của Việt Nam. - Tương quan sức mạnh trên thế giới thay đổi. - Vị thế to lớn của các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia. - Các vấn đề toàn cầu như dân số, môi trường, lương thực, bệnh tật, nạn khủng bố,... gay gắt hơn bao giờ hết. Về nguyên tắc các yếu tố đang và sẽ tạo ra hàng loạt các cơ hội mới cho sự phát triển của các quốc gia. Đối với nước ta, cần và có thể tính đến con đường phát triển rút ngắn. Nhưng bên cạnh các cơ hội phát triển là những thách thức to lớn. Ngay cả sự phong phú của các mô hình, kinh nghiệm và tri thức phát triển cũng chứa đựng thách thức cho việc lựa chọn. Thêm nữa, trong môi trường toàn cầu hoá thường xuyên thay đổi, rủi ro phát triển mà các nước đi sau đối mặt cũng tăng lên. Trong một cuộc chơi có đặc tính như vậy, nguy cơ các nước nghèo, nhóm người nghèo bị gạt ra bản lề của sự phát triển tăng lên. Đây là thách thức lớn đối với nước ta - nước lựa chọn định hướng phát triển XHCN. 2. Nội dung CNH-HĐH và những biện pháp thực hiện a. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý Cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành của nền kinh tế, gắn với vị trí, trình độ kỹ thuật công nghệ, quy mô tỉ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận, gắn với điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đã được hoạch định. Cấu trúc cơ cấu kinh tế bao gồm: Cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu vùng kinh tế Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị. Cơ cấu thành phần kinh tế. Về cơ cấu ngành kinh tế: Trong những năm trước mắt cơ cấu ngành ở nước ta được xác lập là cơ cấu công- nông nghiệp-dịch vụ. Phương hướng phát triển của các ngành trong cơ cấu phải đáp ứng được những yêu cầu sau: Một là khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông lâm ngư nghiệp, thúc đẩy nhanh việc hình thành các vùng chuyên canh, đưa công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào trong nông nghiệp. Thúc đẩy nhanh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn. Hai là, kết hợp phát triển nông lâm ngư nghiệp với phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ hải sản, phát triển công nghiệp chế biến gạo có chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu trong nước, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Đa dạng hoá các mặt hàng, kiểu cách bao bì và nhãn hiệu để phục vụ nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Ba là, phát triển mạnh việc sản xuất hàng tiêu dùng thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cơ bản, hạn chế tối đa nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mặt hàng, giảm giá thành … Bốn là, xây dựng cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các ngành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy nhanh và có hiệu quả cao ví như ngành cơ khí, dầu khí, lọc dầu, xi măng… Năm là, phát triển dịch vụ, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân… Về cơ cấu nguồn kinh tế: phải tạo điều kiện cho tất cả các vùng về phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của các vùng, liên kết giữa các vùng làm cho mỗi vùng có một cơ cấu kinh tế hợp lý và đều có chuyển biến tiến bộ góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Về cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị: tuỳ vào điều kiện từng nơi mà phát huy trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Coi trọng việc phát triển kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế và văn hoá, giữ gìn bản sắc dân tộc, tiến lên hiện đại trong phát triển đô thị. Về cơ cấu thành phần kinh tế: phải giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trên cơ sở đó phải nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi về kinh tế và pháp lý để các chủ doanh nghiệp tư nhân yên tâm đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế. b. Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đã và đang đóng góp vai trò rất to lớn đối với sự nghiệp CNH-HĐH trong tất cả các nước nhất là những nước có nền kinh tế kém phát triển. Cách thức tiến hành ở các nước không hề giống nhau, có nước tiến hành bằng cách tự nghiên cứu, tự trang bị công nghệ mới cho các ngành kinh tế, có nước tiến hành thông qua chuyển giao công nghệ và có cả những nước tiến hành thông qua kết hợp cả hai hình thức trên. Đối với Việt Nam cần phải thực hiện mô hình kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao. Bởi : Thông qua chuyển giao, chúng ta rút ngắn được khoảng cách tụt hậu, có điều kiện để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực ở trong nước nhằm tăng trưởng kinh tế nhanh. Trên cơ sở tự nghiên cứu, năng lực nội sinh cũng tăng lên thúc đẩy sự phát triển vững chắc và lâu bền của đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra phương hướng chung đó là: Hình thành cơ cấu kỹ thuật và công nghệ nhiều tầng, kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô, tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, cải tiến công nghệ truyền thống, ưu tiên công trình vừa và nhỏ nhưng không loại trừ cơ sở quy mô lớn hoặc tương đối lớn nếu có hiệu quả và điều kiện cho phép. 3. Biện pháp thực hiện Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là một cuộc cải biến cách mạng từ xã hội nông nghiệp trở thành xã hội công nghiệp. Đó cũng là cuộc cải biến cách mạng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xuất phát từ thực trạng kinh tế, văn hoá, xã hội của nước ta, để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải không ngừng thực hiện các biện pháp sau: Một là, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.Vốn có hai nguồn: trong nước và ngoài nước. Tranh thủ vốn bên ngoài là một nhân tố đẩy nhanh thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Còn nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định vì đó là nhân tố bên trong đảm bảo cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, là tiền đề huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài. Hai là, chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Trong nguồn nhân lực ấy, việc xây dựng giai cấp công nhân là một nhiệm vụ trọng tâm, bởi chỉ có một giai cấp công nhân trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có trình độ làm chủ khoa học kỹ thuật mới, trí thức hoá mới có thể là nòng cốt để liên minh với nông dân, trí thức, tập hợp và đoàn kết các thành phần khác đưa sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá tới thành công. Ba là, chọn giải pháp kĩ thuật, công nghệ phù hợp để đầu tư chiều sâu, tận dụng hiệu quả cơ sở hiện có trước đây.Đồng thời đẩy mạnh cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá kĩ thuật, công nghệ truyền thống phục vụ phát triển nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Tranh thủ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là các dự án đầu tư nước ngoài đi đôi với nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia nhằm đổi mới và làm chủ công nghệ nhập và sáng tạo công nghệ mới đặc biệt là trong lĩnh vực tin học, công nghệ sinh học, công nghiệp chế tạo. Bốn là, thực hiện nghiêm túc vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình CNH-HĐH.Đầu tư nước ngoài phải tuân thủ theo tiêu chuẩn quốc tế để bảo vệ môi trường. Năm là, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tạo ra mối liên hệ và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia. Do đó việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu kinh tế, tạo ra khả năng và điều kiện để các nước chậm phát triển tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý… để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sáu là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đây được coi là tiền đề quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bởi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tự bản thân nó đã là cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân ta chỉ khi sự nghiệp đó phải do một Đảng cộng sản tiên phong, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, biết tự đổi mới không ngừng lãnh đạo và một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong sạch vững mạnh và có hiệu lực quản lý thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước- nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mới hoàn thành. Kết luận --------------***------------ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ trước đến nay luôn được coi là nhiệm vụ trung tâm xiên suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là một tất yếu khách quan nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất. Cũng là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến tạo ra năng suất lao động cao. Tuy vậy, xây dựng thành công mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình lâu dài. Nó đòi hỏi phải có sự kết hợp của toàn dân của Đảng và Nhà nước, và đặt ra những tiền đề khách quan mới về kinh tế – chính trị - xã hội. Bài tiểu luận chỉ ra thực trạng đất nước và một số biện pháp mà Đảng, Nhà nước nhân dân ta đã và đang thực hiện trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy có nhiều chỗ chưa đủ nhưng nó cũng khái quát phần nào xu hướng phát triển của đất nước trong những năm sắp tới, những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được trong khi thực hiện quá trình này. Chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào con đường phát triển kinh tế – xã hội của đất nước mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn. Tài liệu tham khảo ----------------***------------------ Công nghiệp hoá và chiến lược dựa trên xuất khẩu(1997), NXB chính trị Quốc gia Hà Nội. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lê nín, NXB chính trị Quốc gia Hà Nội. Lịch sử Kinh tế Một số tài liệu tham khảo khác. Mục lục Tên Trang Lời mở đầu: …………………………………………….……..1 Nội dung chính:……………………………………………………………….1 I. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá và vấn đề cơ bản……………….….2 1.Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là gì? …………………....2 2.Vai trò mục tiêu, nhiệm vụ CNH-HĐH ……………………2 3. Cơ sở vật chất kỹ thuật, tính tất yếu khách quan CNH-HĐH……………………………………………………………... 4 4. Lịch sử CNH-HĐH II. Thực trạng nước ta và nội dung cơ bản của quá trình CNH-HĐH....6 1.Thực trạng đất nước ………………………………………. 6 2.Nội dung công nghiệp hoá………………………………. 7 3.Biện pháp thực hiện……………………………………….. 9 Kết luận………………………………………………………………..12

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111998.doc
Tài liệu liên quan