Sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng trong những năm gần đây đang có xu hướng gia tăng.
So sánh 7 vùng kinh tế sinh thái trong cả nước ,tỷ lệ nghèo đói là rất cao ở vùng miền Núi và Trung Du Bắc Bộ,tiếp đó là vùng Tây Nguy6en và Bắc Trung Bộ.Cả 3 vùng này có tỷ lệ nghèo đói cao hơn mức trung bình của cả nước.Theo số liệu điều tra của tổng cục thống kê 1998,tỷ lệ nghèo của các vùng như sau:
Vùng Núi và Trung Du Bắc Bộ 58,6%
Đồng Bằng Sông Hồng 28,7%
Bắc Trung Bộ 41,8%
Tây Nguyên 52,7%
Đông Nam Bộ 7,6%
Đồng Bằng Sông Cửu Long 36,9%
Nguồn:Thời Báo Kinh Tế Việt Nam ,trang 7
Chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư cũng gia tăng.Như phần trên đã phân tích ,mặc dù thu nhập bình quân đầu người của các nhóm dân cư đều tăng lên nhưng nhóm có thu nhập thấp tăng rất chậm so với các nhóm có thu nhập cao.Vì vậy,khoảng cách về thu nhập giữa các nhóm dân cư tăng lên.
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7005 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thiết. Những người làm tốt làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của mình. Đây cũng chính là tác động kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Những người làm tốt có thể là những người biết ứng dụng những thành tựu mới của khoa học vào sản xuất để giảm hao phí lao động xã hội cá biệt. Bên cạnh đó, những người làm ăn kém cỏi không gặp may, không biết áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Ví dụ hai công ty dệt may sử dụng dây truyền sản xuất khác nhau. Công ty nào sử dụng dây dây truyền công nghệ mới thì hao phí lao động cá biệt sẽ nhỏ hơn của dây truyền cũ, sản phẩm làm ra có giá thành rẻ hơn mà vẫn bán đúng theo giá thị trường thì công ty đó có lãi. Như vậy quy luật giá trị bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất. tuy nhiên ngay trong quá trình thực hiện sự bình tuyển người sản xuất, quy luật giá trị đã phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Người giàu trở thành ông chủ, người nghèo dần trở thành người làm thuê. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu- người nghèo, quan hệ giữa chủ- thợ, quan hệ giữa tư sản- vô sản là quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến đấu tranh giữa người nghèo chống lại kẻ giàu, thợ chống lại chủ, vô sản chống lại tư sản. Ngay trong cùng lớp giàu hoặc cùng lớp nghèo với nhau, cũng xảy ra cạnh tranh chèn ép, thôn tính lẫn nhau “cá lớn nuốt cá bé”, gây thiệt hại lợi ích kinh tế của đối thủ một cách tàn nhẫn. Đó cũng là một khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường.
Từ những tác dụng của quy luật giá trị ta thấy được mặt trái của quy luật này trong cạnh tranh, do đó cần phải xem xét biểu hiện của nó trong cạnh tranh để có những giải pháp khắc phục khuyết tật.
1.4. Tác dụng của quy luật giá trị tới sự phân hoá giàu nghèo.
Trong quá trình cạnh tranh,tất yếu dẫn đến kết quả là:những người có điều kiện sản xuất thuận lợi ,có trình độ,kiến thức cao,trang bị kỹ thuật tốt,giành được lợi thế trong cạnh tranh sẽ giàu lên nhanh chóng, họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất ,mở rộng sản xuất kinh doanh.Sản phẩm họ nhiều người mua vì giá rẻ và có chất lượng dẫn đến họ sẽ giàu lên.Trong lao động,những ai có tay nghề,trình độ cao,có điều kiện thì có được việc làm với mức thu nhập cao.
Ngược lại,những người không có các điều kiện thuận lợi,kỹ thuật thấp kém trình độ thấp dẫn đến sản phẩm làm ra có mức hao phí lao động cao ,thiếu sức cạnh tranh hoặc gặp rủi ro kinh doanh,thiên tai thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành người nghèo.Tác động này của quy luật giá trị một mặt là sự lựa chọn tự nhiên,đào thải các yếu kém , kích thích các nhân tố tích cực phát triển .Mặt khác phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo.Trong nên kinh tế thị trường,thì sự phân hóa giàu nghèo như là một hệ quả tất yếu và nhà nước xã hội chủ nghĩa cần có sự điều tiết thích hợp để hạn chế sự phân hóa giàu nghèo.
Nếu nhìn góc độ giữa quốc gia,quốc gia nào có khoa học kỹ thuật phát triển ,sản phẩm có tính cạnh tranh cao thì là những nước giàu có ,kinh tế và chính trị vững chắc.Còn quốc gia nào có khoa học kỹ thuật nghèo nàn thì cũng nghèo về kinh tế ,ít có tiếng nói trên quốc tế.Đó cũng là hệ quả của quy luật giá trị.
1.5 Vấn đề giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường:
a. Tiêu chí đánh giá sự nghèo đói
Của Liên Hiệp Quốc
Theo chuẩn mực đánh giá của liên hiệp quốc ,ở các nước đang phát triển nói chung,những người có mức thu nhập dưới 1 usd/ngày là thuộc mức nghèo khổ tuyệt đối
Của Ngân Hàng Thế Giới
Các nhà kinh tế của ngân hàng thế giới đã đề xuất một mức chuẩn quốc tế dựa trên cơ sở tiêu chuẩn của Ấn Độ.Theo đó,ranh giới nghèo đói là mức thu nhập cầ nthiết để có mức cung cấp hàng ngày 2250calo theo đầu người,tương ứng 200usd/người vào năm 1975.
Năm 1995,ngân hàng thế giới đưa ra ngưỡng nghèo cho Việt Nam là mức chi tiêu cần thiết cho hộ gia đình mua đủ lương thực ,thực phẩm để cung cấp 2100 calo bình quân 1 ngày ,với giả định hộ giành 70% tổng chi tiêuđể mua lương thực ,thực phẩm,30% còn lại của chi tiêu được giả định là giành cho các khoảng như mặc .giáo dục ,sức khỏe…
Của Tổng Cục Thống Kê
Cuối năm 1993,tổng cục thống kê đã thực hiện khảo sát giàu nghèo từ 91732 hộ gia đình .Theo tổng cục thống kê,một hộ gia đình được coi là nghèo nếu mức thu nhập không đủ mua gạo cung cấp 2100 calo bình quân một người một ngày .Chỉ tiêu này không cho phép chi tiêu về khỏang phi lương thực ,thực phẩm.Như vậy,chỉ tiêu này là thấp so v7ói chỉ tiêu của ngân hàng thế giới.
Của bộ lao động thương binh xã hội
Theo thông báo 1751/ld-xh của bộ Lao Động – Thương Binh Xã Hội ngày 20-5 1997,chuẩn mực đối với hộ nghèo đói ở nước ta như sau:
Hộ đói: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng dưới 13kg gạo hay 45.000đồng.
Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng dưới 15kg gạo hay 55000 đồng đối với khu vực nông thôn,vùng núi hải đảo ;dưới 20 kg gạo hay 70000 đồng đối với khu vực nông thôn, vùng đồng bằng Trung Du :dưới 25kg gạo hay 90000 đồng đối với khu vực thành thị.
b.Ảnh hưởng của sự phân hóa giàu nghèo:
Đối với sự phát triển kinh tế
Nghèo đói đi liền với lạc hậu,chậm phát triển là trở ngại lớn nhất đối với phát triển kinh tế.Nói một cách khác ,xóa đói giảm nghèo là tiền đề của phát triển.Sự phát triển kinh tế- xã hội vững chắc,gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là nhân tố đảm bảo thành công trong công tác xóa đói ,giảm nghèo.Ngay cả những nước giàu có hoặc đạt trình độ phát triển cao vẫn còn một bộ phận dân cư sống ở mức nghèo khổ.Tuy nhiên mức độ và tỷ lệ dân cư nghèo là rất khác nhau giữa các nước ,các khu vực .Nó phản ánh sự khác nhau về trình độ phát triển ,trước hết là phát triển kinh tế.Net chung ,phổ biến là qua hiện trạng nghèo đói người ta dễ thấy sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu của kỹ thuật, trình độ thấp kém của phân công lao động xã hội.Nó dẫn tới năng suất lao động xã hội và mức tăng trưởng kinh tế luôn ở những chỉ số thấp.Thất nghiệp ,thu nhập không đủ cho chi dùng vật chất tối thiểu,do đó càng không thể có điều kiện chi dùng cho những nhu cầu văn hóa tinh thần để vượt qua ngưỡng tồn tại sinh học ,vươn tới việc thỏa mãn nhu cầu phát triển chất lượng con người.Đó là hiện trạng nghèo đói về kinh tế của dân cư.
Tính tất yếu và bức xúc giải quyết vấn đề giảm nghèo còn ở chỗ trong thời đại mở cửa vấn đề hòa nhập và sự bất lợi của nước nghèo, nước chậm phát triển trong quan hệ kinh tế với các nước khác là rất lớn.Nước nghèo luôn thua thiệt trong cạnh tranh kinh tết khi sản phẩm làm ra với chất lượng thấp,giá thành cao hoặc hàng hóa xuất khẩu chủ yếu dưới dạng sản phẩm thô chưa qua tinh chế nên lợi nhuận thu được rất thấp.Với trình độ sản xuất lạc hậu nhiều nước nghèo đang trở thành bãi thải công nghệ lạc hậu của các nước phát triển trong quan hệ hợp tác ,viện trợ kinh tế.
Đối với nước nghèo ,tăng trưởng kinh tế với tốc độ chậm sẽ không có vị thế khi đàm phán , ký kết với các nhà đầu tư nước ngoài và sẽ không đủ khả năng tiến hành những hoạt động mang lại lợi nhuận cao như buôn bán và dịch vụ ngân hàng.Vì thiếu những khả năng này mà mianma và Lào để tài nguyên rừng của mình lọt vào tay những công ty khai thác gỗ của Thái Lan. Điều cần nhấn mạnh ở đây là tăng trưởng kinh tế với tốc độ lớn là một trong những điều kiện quan trọng giúp đất nước chống được nạn ngoại xâm về kinh tế.Hơn thế nữa,nước nghèo thường chịu sự áp đặt của các nước giàu,nước phát triển trong quan hệ hợp tác kinh tế.Tiếng nói và vai trò của các nước nghèo trên các diễn đàn quốc tế ít được chú ý.Một nước càng giàu càng mạnh thì càng có khả năng nắm được những lợi thế về kỹ thuật.Tác dụng nghèo đói là rất lớn đối với một quốc gia.
Đối với lĩnh vực chính trị xã hội
Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội và chính trị.Các tệ nạn xãhội phát sinh như trộm cắp ,ma tuý ,mại dâm…Đạo đức bị suy đồi,an ninh xã hội không được bảo đảmđến một mức nhất định có thể dẫn đến rối loạn xã hội.Nếu nghèo đói không được chú ý giải quyết ,tỷ lệ và cấp độ nghèo đói vượt quá giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả về mặt chính trị như mất ổn định chính trị, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị, đặc biệt nguy cơ”diễn biến hòa bình” và “chiến tranh biên giới mềm”.
Nếu không thể giải quyết vấn đề giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung.Như vậy mục tiêu phát triển và bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa cũng không thực hiện được . Đối với nước ta bước ngoặc trong sự phát triển hiện nay nếu không tập trung mọi khả năng nguồn lực để xóa đói giảm nghèo sẻ không tạo được tiền đề khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nhằm đưa đất nước tới trình độ tương xứng với khu vực và trên thế giới.Nghèo về kinh tế luôn dẫn đến những sức ép căng thẳng về xã hội và chính trị.Trong quá trình hội nhập sự phụ thuộc nước nghèo vào nước giàu là khó tránh khỏi,bắt đầu là kinh tế rồi đến văn hóa ,hệ tư tưởng chính trị .Do đó chỉ khi nào làm chủ được chiến lược và chính sách phát triển, định hình rõ chiến lược và bước đi trong chiến lược phát triển và có thể khai thác được mọi nhân tố tiềm lực bên trong nhằm vào mục tiêu phát triển thì quá trình tham gia hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài mới có tác dụng tích cực hiệu quả và đạt tới sự bền vững.Ngheo đói của dân cư đang là lực cản kinh tế xã hội lớn nhất đối với các nước nghèo hiện nay trong quá trình phát triển.Và không có một khuôn mẫu duy nhất nào có thể sao chép và áp dụng cho mọi nước để giải quết bài toán kinh tế xã hội này.
Đối với lĩnh vực văn hóa
Từ nghèo đói về kinh tế dẫn tới nghèo đói về văn hóa.Nguy cơ này rất tiềm tàng và thực sự là một chướng ngại vật đối với phát triển không chỉ ở từng người,từng hộ gia đình và cả cộng đồng,kìm hãm sự phát triển xã hội.
Ở một trình độ phát triển thấp nghèo đói về kinh tế luôn là sự nổi trội gay gắt nhất.Do đó mục tiêu phấn đấu là đạt tới sự giàu có .Nhưng sự giàu có chỉ đơn thuần về vật chất,kinh tế mà vắng bóng sự phát triển văn hóa,tinh thần,sự định hướng giá trị sẽ chỉ kíhc thích tính thiển cận,chủ nghĩa thực dụng,sự thiếu hụt hoặc lệch chuẩn về mặt nhân văn,nhân cách con người…Đi phát triển cái xấu,cái ác,làm nghèo nàn,biến dạng cái thiện,cái chân, cái mỹ.Nếu trạng đó xảy ra ở lớp trẻ càng nguy hại, đẩy tới sự nghèo nàn về văn hóa và nhân cách.Nó kìm hãm sự phát triển không kém gì lực cản đói nghèo về kinh tế,thậm chí còn tệ hại hơn vì nó thẩm lậu vào phát triển những yếu tố phản phát triển,chứa chấp các mầm mống của những bệnh hoạn ,suy thoái.
Nghèo đói về văn hóa khó nhận thấy và rất dễ rơi vào nhận thức muộn màng ,có khi phải trả giá.Do đó trong khi tập trung mọi nổ lực chống nghèo đói về kinh tế ,cần sớm cảnh báo xã hội nguy cơ nghèo nàn về văn hóa.
Chương 2: Thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường.
2.1. Phân hóa giàu nghèo ở nước ta trong thời kỳ nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường.
a. Sự chênh lệch về mức sống giữa các vùng dân cư.
Sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng trong những năm gần đây đang có xu hướng gia tăng.
So sánh 7 vùng kinh tế sinh thái trong cả nước ,tỷ lệ nghèo đói là rất cao ở vùng miền Núi và Trung Du Bắc Bộ,tiếp đó là vùng Tây Nguy6en và Bắc Trung Bộ.Cả 3 vùng này có tỷ lệ nghèo đói cao hơn mức trung bình của cả nước.Theo số liệu điều tra của tổng cục thống kê 1998,tỷ lệ nghèo của các vùng như sau:
Vùng Núi và Trung Du Bắc Bộ 58,6%
Đồng Bằng Sông Hồng 28,7%
Bắc Trung Bộ 41,8%
Tây Nguyên 52,7%
Đông Nam Bộ 7,6%
Đồng Bằng Sông Cửu Long 36,9%
Nguồn:Thời Báo Kinh Tế Việt Nam ,trang 7
Chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư cũng gia tăng.Như phần trên đã phân tích ,mặc dù thu nhập bình quân đầu người của các nhóm dân cư đều tăng lên nhưng nhóm có thu nhập thấp tăng rất chậm so với các nhóm có thu nhập cao.Vì vậy,khoảng cách về thu nhập giữa các nhóm dân cư tăng lên.
Chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm hộ có thu nhập cao nhất (nhóm 5) và 20% nhóm hộ có thu nhập thấp nhất ở các vùng.( đơn vị:lần)
1994
1995
1996
Vùng Núi Và Trung Du Bắc Bộ
5.2
5.7
6.1
Vùng Đồng Bằng Sông Hồng
5.6
6.1
6.6
Vùng Bắc Trung Bộ
5.2
5.7
5.9
Vùng Ven Biển Miền Trung
4.9
5.5
5.7
Vùng Tây Nguyên
10.1
12.7
12.8
Vùng Đông Nam Bộ
7.4
7.6
7.9
Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
6.1
6.4
6.4
Nguồn :Bộ Kế Hoạch Đầu Tư
Theo số liệu của bộ Lao Động_Thương Binh Xã Hội, ở nước ta năm 1999 còn có khoảng 2 triệu hộ nghèo đói,chiếm tỷ lệ 13% tổng số hộ,trong đó có 300000 hộ thường xuyên thiếu đói (chiếm 2%).Hiện còn có 2/3 số xã miền núi thuộc khu vực III ,khoảng 1,2 triệu người ở 987 xã cần được định canh định cư và 15 vạn đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn cần được hỗ trợ trực tiếp.
Trong tổng số trên 10.000 xã của cả nước ,còn nhiều xã quá khó khăn về 6 công trình cơ sở hạ tầng (678 xã chưa có đường ôtô ,591 xã thiếu phòng học cấp phổ thông ,29 xã thiếu trường ,445 xã chưa có trạm y tế hoặc đã xuống cấp,760 xã chưa có chợ ,941 xã chưa có điện ,564 xã có tỷ lệ trên 50% dân số thiếu nước sạch.Trong đó 1498 xã nghèo đói có 694 xã ở Trung Du và Vùng miền núi phía Bắc
Theo sự nhận định về trình độ phát triển vùng dân tộc và miền núi, ở nước ta hiện nay còn có 1715 xã thuộc khu vực III –khu vực khó khăn nhất, trong đó có 1568 xã /4100 xã miền núi và 147 xã vùng đồng bằng ,bao gồm 1,1 triệu hộ với hơn 6 triệu người . Đây là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số,có vị trí quan trọng về chính trị an ninh ,quốc phòng ,môi trường sinh thái (bao gồm 385 xã biên giới đất liền).
Theo tổng cục thống kê cho thấy:
Tỷ lệ nghèo chung và nghèo lương thực, thực phẩm phân theo vùng (*)
%
2002
2004
CẢ NƯỚC
Tỷ lệ nghèo chung
28.9
19.5
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
9.9
6.9
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng
Tỷ lệ nghèo chung
22.4
12.1
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
6.5
4.6
Đông Bắc
Tỷ lệ nghèo chung
38.4
29.4
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
14.1
9.4
Tây Bắc
Tỷ lệ nghèo chung
68.0
58.6
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
28.1
21.8
Bắc Trung Bộ
Tỷ lệ nghèo chung
43.9
31.9
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
17.3
12.2
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tỷ lệ nghèo chung
25.2
19.0
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
10.7
7.6
Tây Nguyên
Tỷ lệ nghèo chung
51.8
33.1
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
17.0
12.3
Đông Nam Bộ
Tỷ lệ nghèo chung
10.6
5.4
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
3.2
1.8
Đồng bằng sông Cửu Long
Tỷ lệ nghèo chung
23.4
19.5
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
7.6
5.2
(*) Tỷ lệ nghèo chung là tỷ lệ người nghèo được tính theo chi tiêu bình quân/người/tháng và chuẩn nghèo chung của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới với mức chi tiêu bình quân/người/tháng qua các năm như sau: Năm 2002: 160 nghìn đồng; năm 2004: 173 nghìn đồng. Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm là tỷ lệ hộ nghèo được tính theo thu nhập bình quân/người/tháng và chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm với mức thu nhập bình quân/người/tháng qua các năm như sau: Năm 2002: thành thị 146 nghìn đồng, nông thôn: 112 nghìn đồng; năm 2004: thành thị 163 nghìn đồng, nông thôn: 124 nghìn đồng.
Tỷ lệ hộ nghèo 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo áp áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 (14:12 28/07/2005)
Căn cứ kết quả chính thức Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002 và kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004, Tổng cục Thống kê tính toán tỷ lệ (%) hộ nghèo cho năm 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo được Thủ tướng Chính phủ ban hành áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 (200 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực nông thôn, 260 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực thành thị) như sau:
Năm 2002
Năm 2004
Cả nước
23,0
18,1
Chia theo khu vực
Thành thị
10,6
8,6
Nông thôn
26,9
21,2
Chia theo vùng
Đồng bằng sông Hồng
18,2
12,9
Đông Bắc
28,5
23,2
Tây Bắc
54,5
46,1
Bắc Trung Bộ
37,1
29,4
Duyên hải Nam Trung Bộ
23,3
21,3
Tây Nguyên
43,7
29,2
Đông Nam Bộ
8,9
6,1
Đồng bằng sông Cửu Long
17,5
15,3
Kết quả trên đây được tính toán dựa vào số liệu thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình và chỉ số giá tiêu dùng của từng khu vực thành thị/nông thôn qua các năm để loại từ yếu tố biến động giá.
Chi tiêu của hộ dân cư
Nhờ thu nhập tăng, đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt. Năm 1999 tính chung cả nước chi đời sống bình quân đầu người 1 tháng là 221,1 nghìn đồng, tăng bình quân 6,4% trong thời kỳ 1996-1999 và chậm hơn tốc độ tăng thu nhập. Chi đời sống của khu vực thành thị 559,2 nghìn đồng 1 người 1 tháng, tốc độ tăng bình quân 11,6% một năm; Ở nông thôn 175,0 nghìn đồng 1 người 1 tháng, tốc độ tăng bình quân 4,4% một năm. Chi đời sống của các vùng đều tăng, trong đó tăng nhanh là vùng Đông Nam Bộ 9,0%, Đồng bằng sông Cửu Long 8,2%, tăng thấp nhất là vùng Tây Bắc và Đông Bắc.
Mức chi tiêu bình quân đầu người năm 1999 của các hộ khu vực thành thị cao gấp 3,1 lần khu vực nông thôn (tỷ số này năm 1996 là 2,5 lần). So sánh chi đời sống bình quân đầu người năm 1999: Khu vực thành thị gấp 3,2 lần khu vực nông thôn; Nhóm hộ giàu (20% số hộ thu nhập cao nhất) gấp 4,2 lần nhóm hộ nghèo (nhóm thấp nhất).
- Đáng lưu ý là năm 1999 mặc dù vùng Duyên hải Nam Trung Bộ bị thiên tai lũ lụt, hạn hán ... nhưng mức sống dân cư của cả nước nói chung cũng như các vùng vẫn ổn định và tiếp tục được cải thiện. Chi ăn uống hút năm 1999 bình quân đầu người 1 tháng là 139,98 nghìn đồng, bình quân mỗi năm tăng 4,0% trong thời kỳ 1996-1999, trong đó khu vực thành thị 328,14 nghìn đồng, tăng bình quân 7,8%, khu vực nông thôn 114,98 nghìn đồng, tăng bình quân 2,5%. Cơ cấu chi dùng lương thực, thực phẩm (ăn uống, hút) trong chi đời sống đã giảm xuống, ngược lại chi dùng cho phi lương thực, thực phẩm tăng lên. Cụ thể như sau:
TỶ LỆ CHI ĂN UỐNG, HÚT TRONG CHI ĐỜI SỐNG CỦA HỘ
Đơn vị tính:%
Năm 1996
Năm 1999
CẢ NƯỚC
67,96
63,31
1. Chia theo khu vực
- Thành thị
65,77
58,68
- Nông thôn
69,43
65,70
2. Chia theo vùng
- Đông Bắc và Tây Bắc
72,64
65,57
- Đồng bằng sông Hồng
66,59
60,50
- Bắc Trung Bộ
67,35
62,99
- Duyên hải Nam Trung Bộ
68,87
63,50
- Tây Nguyên
66,39
65,00
- Đông Nam Bộ
64,93
58,69
- Đồng bằng sông Cửu Long
66,79
63,10
3. Chia theo nhóm thu nhập
- Nhóm 1
76,91
72,55
- Nhóm 2
75,27
69,15
- Nhóm 3
72,31
65,70
- Nhóm 4
65,22
60,34
- Nhóm 5
57,65
52,78
- Khi mức sống ổn định và được cải thiện thì chi tiêu cho nhu cầu ăn uống của dân cư tuy có tăng nhưng chậm hơn chi tiêu về các khoản ngoài ăn uống (như may mặc, ở, thiết bị đồ dùng, Y tế chăm sóc sức khoẻ, Giáo dục, văn hoá...).
Chi tiêu bình quân đầu người 1 tháng theo giá thực phân theo vùng:
MỨC CHI TIÊU MỘT SỐ KHOẢN NGOÀI ĂN UỐNG
BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI 1 NĂM
Năm 1996 (1000 đ)
Năm 1999 (1000 đ)
Chi may mặc
Thiết bị, đồ dùng
Văn hoá, thể thao
Chi may mặc
Thiết bị, đồ dùng
Văn hoá, thể thao
CẢ NƯỚC
124,3
87,4
43,0
137,4
102,6
60,7
1. Chia theo khu vực
- Thành thị
251,0
180,5
119,9
325,4
230,9
179,2
- Nông thôn
107,4
74,8
30,5
112,8
86,5
43,9
2. Chia theo vùng
- Đông Bắc và Tây Bắc
109,0
70,0
25,6
119,9
91,8
40,3
- Đồng bằng sông Hồng
102,6
100,1
44,6
120,7
124,0
71,9
- Bắc Trung Bộ
94,7
74,8
24,5
101,0
90,4
33,5
- Duyên hải Nam Trung Bộ
112,6
70,3
30,5
122,0
72,7
42,8
- Tây Nguyên
168,8
111,5
58,6
143,8
96,7
74,8
- Đông Nam Bộ
209,6
136,2
105,1
262,4
160,3
150,6
- Đồng bằng sông Cửu Long
135,7
92,0
47,8
161,4
115,7
67,2
- Khối lượng chi dùng một số mặt hàng ăn uống: Tiêu dùng gạo bình quân đầu người 1 tháng giảm từ 13,4 Kg năm 1996 xuống còn 13,1 Kg năm 1999, khu vực thành thị từ 11,2 Kg giảm còn 9,7 Kg. Lượng gạo của các hộ tại 6 trong 7 vùng (trừ vùng Đông Bắc và Tây Bắc) đều giảm; Các mặt hàng: Thịt, mỡ dầu ăn, trứng, đỗ lạc vừng, đường mật... tăng hơn các năm trước. Riêng lượng tiêu dùng quả chín, rau tươi của dân cư khu vực thành thị và các vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ có xu hướng tăng lên.
III. Tích luỹ của hộ gia đình
Những năm gần đây, đời sống của nhân dân nhìn chung không có những biến động lớn, một bộ phận lớn dân cư được cải thiện đáng kể nhờ có các nguồn thu nhập tăng tương đối ổn định, đặc biệt tốc độ tăng thu nhập từ 1996-1999 tăng nhanh hơn tốc độ tăng của chi tiêu. Vì vậy, ngoài phần chi tiêu dùng cho đời sống hàng ngày, phần lớn các hộ dân cư đã có đầu tư tích luỹ.
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu hạn chế sự phân hóa giàu nghèo.
3.1. Tập trung sức mạnh toàn xã hội giải quyết vấn đề xoá đói hộ cực nghèo.
Chính phủ Việt Nam vừa đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng, vừa khuyến khích các khoản đầu tư cá nhân. Các sáng kiến của chính phủ được hình thành để trợ giúp các hoạt động kinh tế thuận tiện hơn, và giúp đỡ người nghèo.
Chính sách sẵn sàng mở cửa với thế giới bên ngoài mang lại những thuận lợi về chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý - điều mà Việt Nam rất cần. Và rất nhiều người tin rằng có thể áp dụng tài chính vi mô như một biện pháp quyết định giúp nới lỏng cánh cửa nghèo đói.
Vài thập kỷ trước, nhà thơ Nga Anna Akhmatova, đặt ra một thành ngữ: khách mời từ tương lai. Chúng ta tin chắc rằng kinh nghiệm của Việt Nam có thể là một điềm báo trước về vị thế của đất nước này trong tương lai.
Nhưng giống như tất cả các vị khách khác, đầu tiên phải được mời, và Việt Nam đã thu hút nguồn các đầu tư bằng sự hăng hái kinh doanh và quyết tâm thoát khỏi đói nghèo.
Du lịch bền vững là chìa khoá để giảm bớt đói nghèo
Từ ngày 7-9/12/2005 Hội nghị cấp cao về du lịch sẽ nhóm họp tại Bali, In-đô-nê-xi-a để nghiên cứu, thăm dò tiềm năng của ngành công nghiệp du lịch đối với công cuộc giảm nghèo, bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hoá.
Hội nghị quốc tế cấp cao về Phát triển du lịch bền vững sẽ sẽ do Tổ chức ESCAP phối hợp cùng Bộ Văn hoá và Du lịch In-đô-nê-xi-a tổ chức.
Ngành du lịch đang ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu do những đóng góp lớn lao cho thu ngân sách quốc gia và và tiềm năng tạo việc làm to lớn của ngành. Trong lúc đó, khái niệm về phát triển bền vững đã được công nhận rộng khắp trên thế giới như là cách thức để đảm bảo cho mọi người dân trên toàn thế giới đều có thể được đàp ứng những nhu cầu cơ bản và có được cuộc sống chất lượng hơn, mà không hứa hẹn gì đến chất lượng sống của những thế hệ mai sau.
Do vậy, sự phát triển bền vững của ngành du lịch là rất cần thiết cho toàn bộ sự phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các nước. Du lịch cũng sẽ đem lại cho thế giới sự hỗ trợ lớn hơn trong việc thực hiện những mục tiêu thiên niên kỷ.
Hội nghị sẽ xây dung những chiến lược nhằm đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ và ổn định lâu dài của ngành du lịch trong khu vực.
Một chủ đề khác cũng sẽ được đưa ra bàn thảo tại Hội nghị là vấn đề quản lý khủng hoảng đối với ngành du lịch.
Thiên tai như sóng thần gây tai hoạ cho khu vực Nam Á cuối năm 2004 và chủ nghĩa khủng bố cũng như những sự khủng hoảng khác không chỉ tác động đến bản thân ngành du lịch mà còn làm đảo lôn cuộc sống của những người kiếm sống từ du lịch. Thực tế là nhóm người này rất dễ bị tổn thương trước những khủng hoảng như vậy rất cần được sự quan tâm nhiều hơn của những nhà lập chính sách và của xã hội.
Hội nghị mong muốn sẽ nâng cao nhận thức của nhưng nhà lập chính sách cũng như nang cao khả năng của họ để những chiến lược hiệu quả hơn được xây dựng và phát triển nhằm khôi phục thị trường và giảm bớt tổn thất của những người làm việc theo ngành du lịch một khi xảy ra khủng hoảng.
Hội nghị sẽ đưa ra chu kỳ II của Kế hoạch hành động cho sự Phát triển du lịch bền vững trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương nhằm nâng cao sự đóng góp của du lịch vào sự phát triển kinh tế-xã hội và xoá đói giảm nghèo thông qua việc tạo cơ hội thuận lợi cho những cộng đồng nghèo được hưởng lợi từ du lịch
3.2. Tạo điều kiện để các hộ nghèo vươn lên thành các hộ trung bình và khá.
Đây là giải pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm giảm khoảng cách về thu nhập giữa các hộ giàu và hộ nghèo,hạn chế sự phân hóa giàu nghèo.Để tạo điều kiện cho các hộ, các hộ vừa thoát khỏi đói vươn lên thành các hộ có thu nhập trung bình khá ,chúng ta cần làm 1 số việc cốt lõi:
a.Hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung với quy mô hợp lý ở từng khu vực ,từ đó thu hút,giải quyết việc làm,tăng thu nhập,cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho con người .Thực tiễn hơn 10 năm qua cho thấy rất rõ điều này.Nơi nào hình thành vùng chuyên canh sản xuất nguyên liệu thì ở đó người dân thóat nghèo rất nhanh.
b.Tập trung đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến có quy mô phù hợp,có trình độ công nghệ tiên tiến tại các vùng nguyên liệu,bảo đảm tiêu thụ hết các sản phẩm do các hộ nông dân trong vùng sản xuất ra.
Để giúp các hộ nông dân trong việc tiêu thụ sản phẩm 1 cách có lợi nhất ,một mặt ta phải tổ chức các kênh lưu thông thật tốt mặt khác yêu cầu ngành nông nghiệp phải phát triển khoa học để có thể tạo được sản phẩm mang thương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của quy luật giá trị tới sự phân hoá giàu nghèo trong thực tiễn kinh tế xã hội nước ta.doc