Đề tài Thực trạng phát triển của Thuỷ Sản Việt Nam và tiến trình hội nhập WTO

Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là quá trình đổi mới cơ chế quản lý ngành thuỷ sản, Nhà nước ta đã cho phép xuất khẩu tự do các sản phẩm thuỷ sản. Điều này đã tạo bước cho xuất khẩu thuỷ sản ngày càng gia tăng. Xuất khẩu thuỷ sản trong 5 năm qua đã phát triển theo chiều rộng và từng bước đi vào chiều sâu, tạo được vị trí và thế đứng trên thị trường nước ngoài.

Bên cạnh việc tăng cường sản xuất các mặt hàng giá trị gia tăng, các doanh nghiệp còn quan tâm đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu . Song song với việc tiếp tục phát triển tốt các mặt hàng chủ lực, nhiều mặt hàng mới đã xuất hiện đáp ứng các yêu cầu bình dân đến cao cấp ở các thị trường khác nhau.

 

doc51 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển của Thuỷ Sản Việt Nam và tiến trình hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ba sa. các đối tượng khác chỉ nuôi ở mức sản lượng thấp cho tiêu dùng trong nước, giá thành sản xuất cao. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chu yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 tổng sẩn lượng Nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 2,5 tỷ USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2 triệu người; góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội đất nước và an ninh ven biển. 2.2 Mục tiêu cụ thể như sau: Phấn đấu đến năm 2010 đạt các chỉ tiêu sau: Về kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình khoảng 10-15%/năm, trong giai đoạn 2000-2005 tăng khoảng 12-15%/năm, giai đoạn 2005-2010 là 10-12%/năm, giá trị xuát khẩu tương ứng là 3-3,5 tỷ USD năm 2005 và 4,5-5 tỷ USD năm 2010. Số lao động trực tiếp và phục vụ cho nghề cá tăng trung bình 2-3%/năm; 3.500.000 lao động (năm 2000), 4.200.000 lao động (năm 2005) và 4.700.000 lao động (năm 2010). Trong đó lao động nuôi trồng thuỷ sản và lao động chế biến thuỷ sản tăng gấp 2 lần so với năm 2000. lao động khai thác giảm nhẹ. Trong nuôi trồng thuỷ sản 1. Nuôi tôm sú 260.000 ha (trong đó 60.000 ha nuôi công nghiệp, 100.000 ha nuôi mô hình cân bằng sinh thái, nuôi luân canh, nuôi xen canh, 100.000 ha nuôi bán thâm canh) đạt sản lượng 360.000 tấn. Giá trị tôm xuất khẩu đạt1.400 triệu USD. 2. Nuôi cá biển 40.000 ha và 40.000 lông bè, sản lượng đạt 200.000 tấn. Các đối tượng nuoi chủ yếu là: cá hông cá song, cá cam, cá vược, cá mang. 3. Nuôi nhuyễn thế 20.000 ha sản lượng đạt 380.000 tấn. Các đối tượng chủ yếu là: nghêu ngao, sò huyết, ốc hương, trai ngọc, điệp, bào ngư, hầu. 4. Trồng rong biển 20.000 ha, sản lượng 50.000 tấn khô (550.000 tấn tươi). các đối tượng trồng chủ yếu là:rong câu chỉ vàng, rong thắt, cước và rong sụn. 5. Nuôi tôm càng xanh 32.000 ha, sản lượng đạt 60.000 tấn . 6. Nuôi thuỷ sản ao hồ nhỏ 100.000 ha, sản lượng đạt 480.000 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là: chép lai, rô phi, cá tra, trắ cỏ, cá trôi, bống tượng, tai tượng, mè vinh, cá trê, cá quả, sặc ràn, cá mè, ba sa, lươn, ếch 7. Nuôi thuỷ sản ruộng trũng 220.000 ha, sản lượng đạt 170.000 tấn, các đối tượng nuôi chủ yếu là: cá chép, rô phi, sặc rằn, cá lóc 8. Nuôi thuỷ sản hồ chứa trên diện tích 300.000 lồng bè, sản lượng đạt 228.000 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là: cá ba sa, cá tra, bống tượng rô phi, cá chép, trôi, mè, trắm cỏ, rô hu. Chỉ tiêu thể hiện bằng những con số Đề mục \ Năm 2001 2005 2010 I.Tổng sản lượng(tấn) Trong đó: 2.256.941 2.350.000 3.400.000 1.Sản lượng nuôi(tấn) -Thuỷ sản nước ngọt -Tôm -Cá biển -Nhuyễn thể -Thuỷ sản khác 879.548 567.294 158.755 5.000 108.454 40.045 1.150.000 600.000 225.000 56.000 185.000 84.000 2.000.000 870.000 420.000 200.000 380.000 130.000 2.Sản lượng khai thác(tấn) -Khai thác gần bờ -Khai thác xa bờ Bao gồm -Sản lượng cá -Sản lượng mực -Sản lượng tôm 1.367.393 917.393 450.000 1.101.661 179.599 86.133 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 Nguồn: Bộ Thuỷ Sản 3. Chế biến và xuất khẩu Thuỷ Sản Ngành công nghiệp chế biến Thuỷ Sản ngày một phát triển cả về công suất và công nghệ chế biến. tính đến đầu năm 2003 đã có trên 300 cơ sở chế biến Thuỷ Sản, trong đó có khoảng 60% số cơ sở chế biến đã đạt tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm, tạo cơ sở cho việc mở rộng xuất khẩu sang thị trường lớn có yêu cầu cao về chất lượng và an toàn vệ sinh như EU và Bắc Mỹ… tạo thế chủ động hơn về thị trường, nâng cao hiệu quả chế biến xuất khẩu Thuỷ Sản Vì vậy, phải kể đến lĩnh vực đầu tư cho ngành thủy sản. Trong 5 năm 1996 đến năm 2000 không ngừng được tăng lên, tổng mức đầu tư của ngành thuỷ sản là: 9.185.640 triệu đồng, trong đó đầu tư nước ngoài là 545.000 triệu đồng (chiếm 5,93%).và chủ yếu là vận động nội lực. So với tổng mức đầu tư của nền kinh tế quốc dân thì đầu tư cho Ngành thủy sản mới chỉ có 1,83% nhưng hiệu quả mà ngành thủy sản đem lại cho nền kinh tế lại đạt từ 3 đến 3,2%.Từ kết quả đó cho thấy việc đầu tư vào nuôi trồng thủy sản là rất có hiệu quả.Các chương trình đẩu tư chủ yếu tập trung vào khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản. Kết quả đạt được trong những năm gần đây như sau : - Ngoài ra, việc sản xuất thủy sản cũng phải tính đến công nghệ chế biến các mặt hàng thủy sản . Nó là một khâu quan trọng trong sản xuất, nuôi trồng và kinh doanh thủy sản. Theo Thứ trưởng Bộ thuỷ sản- Bà Nguyễn Thị Hồng Minh, trong 3 năm qua tổng đầu tư vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản của Việt Nam là trên 2000 tỷ đồng, trong đó nhiều cơ sở chế biến thuỷ sản của ta hiện đã ngang với trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và bước đầu tiếp cận với trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới. Nhờ đó mà trong 5 năm qua tốc độ tăng trưởng của ngành thuỷ sản Việt Nam khá cao so với con số hiện thực năm 1996. Trong năm 2000, tổng sản lượng khai thác đạt 1.280.590 tấn tăng 33,05%, sản lượng nuôi trồng đạt 723.110 tấn tăng 75,94% với kim ngàch xuất khẩu đạt 1,475 tỷ USD tăng tới 120,14% so với năm 1996. Năm 2001 sản lượng khai thác đạt 1.347.800 tấn, sản lượng nuôi trồng đạt 879.100 tấn với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,75 tỷ USD tăng 19,32% so với năm 2000. Vì vậy với kết quả khả quan này thì các nhà chuyên gia cho biết , cần phải đầu tư nhiều cho lĩnh vực chế biến thủy sản để có thể tiếp cận sâu hơn vào thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, với nỗ lực chung của Bộ thủy sản và các ngành hữu quan, các chính quyền địa phương, các doanh nghiệp trong nước chủ động thâm nhập thị trường, tích cực đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường đảm bảo an toàn vệ sinh chất lượng và đặc biệt là tranh thủ các cơ hội để mở thêm thị trường mới , mặt hàng mới. Và hơn bao giờ hết sản phẩm thủy sản của Viêt Nam đã được thừa nhận và khẳng định vị trí trên thị trượng quốc tế. Chính thành công đó đã tạo niềm tin để hình thành một sự biến đổi mới lớn, tronghầu hết các cơ sở chế biến Thuỷ Sản. Một số đơn vị khá tòan diện được cơ quan hải sản của Hoa Kỳ cấp chứng chỉ HACCP tạo điều kiện để trực tiếp xuất hàng vào hệ thống các siêu thị, nhà hàng của các tập đoàn lớn của Mỹ như Cootc, Sysco. Ngay từ cuối những năm 1999, Thuỷ Sản Việt Nam đã được vào danh sách xuất hàng vào EU, với 18 đơn vị. Đến nay đã nâng lên 68 doanh nghiệp nằm trong danh sách xuất khẩu đi EU, chiếm 26% trong tổng số cơ sở chế biên Thuỷ Sản hiện có., đã đề nghị bổ sung vào danh sách 32 đơn vị, đang chờ EU công nhận 125 đơn vị áp dụng HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất hàng vào Mỹ. Trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường, nhiều doanh nghiệp đã kịp thời nâng cơ sở sản xuất, đổi mới công nghệ phù hợp với các tiêu chuẩn tiên tiến, tiếp cận được với trình độ công nghệ cao của khu vực và thế giới. Nhờ đổi mới thiết bị công nghệ và phát triển thị trường cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã thay đổi tích cực, tỷ trọng sản phẩm ăn liền (ready-to-eat), sản phẩm giá trị gia tăng (value-added) tăng từ 17,5% lên 35%, đưa giá trị xuất khẩu bình quân tăng lên qua các năm, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu Thuỷ Sản . Bên cạnh việc tăng cường xuất khẩu các mặt hàng giá trị gia tăng, các doanh nghiệp còn quan tâm đến đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu . Song song với việc tiếp tục phát triển tốt các mặt hàng chủ lực, nhiều mặt hàng mới đã xuất hiện đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng bình dân đến cao cấp của các thị trường khác nhau. Trong đó, sản phẩm từ tôm vẫn tăng về sản lượng và giữ vị trí chủ lực, về giá trị . Tiếp đến là các sản phẩm cá tăng nhanh qua các năm. các mặt hàng cua, ghẹ, nhuyễn thể, Thuỷ Sản phối chế cũng tăng lên đáng kể. mặt hàng khô đã có sự gia tăng mạnh mẽ về giá trị và sản lượng Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu được thể hiện qua biểu đồ sau: 3.1.1 Biểu đồ 1:Tỷ trọng các mặt hàng Thuỷ Sản xuất khẩu theo giá trị (năm 1998-2002) Tuy nhiên, cho đến nay, thuỷ sản Việt Nam chưa hình thành những vùng sản xuất hàng hoá một cách rõ rệt có thể cung cấp nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến một cách tương đối ổn định. Do vậy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam chưa thực sự tăng đều và ổn định. Nếu như những ngành sản xuất xuất khẩu khác đã có nhưng vùng chuyên canh có thể cung cấp nguyên liệu đầu vào tương đối ổn định như vùng chuyên canh mía đường , vùng chuyên canh cây nguyên liệu của ngành công nghiệp giấy, vùng chuyên canh chè, chuyên canh bông, dâu tằm cho công nghiệp dệt.... thì ngành thủy sản hiện nay vẫn chưa có, mới chỉ có huyện Hoà Vang của Huế mới bước đầu hình thành một vùng chuyên canh nuôi trồng thuỷ sản song đây vẫn chưa thực sự là một vùng sản xuất hàng hoá. 3.2..Kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản Việt Nam Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là quá trình đổi mới cơ chế quản lý ngành thuỷ sản, Nhà nước ta đã cho phép xuất khẩu tự do các sản phẩm thuỷ sản. Điều này đã tạo bước cho xuất khẩu thuỷ sản ngày càng gia tăng. Xuất khẩu thuỷ sản trong 5 năm qua đã phát triển theo chiều rộng và từng bước đi vào chiều sâu, tạo được vị trí và thế đứng trên thị trường nước ngoài. Bên cạnh việc tăng cường sản xuất các mặt hàng giá trị gia tăng, các doanh nghiệp còn quan tâm đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu . Song song với việc tiếp tục phát triển tốt các mặt hàng chủ lực, nhiều mặt hàng mới đã xuất hiện đáp ứng các yêu cầu bình dân đến cao cấp ở các thị trường khác nhau. Trong đó sản phẩm từ Tôm vẫn tăng về sản lượng và giữ vị trí chủ lực, các mặt hàng như: cua, ghẹ, nhuyễn thể, Thuỷ Sản phối chế cũng tăng lên đáng kể Mặt hàng khô đã có sự tăng mạnh mẽ về giá trị, sản lượng Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam Năm Sản lượng xuất khẩu (nghìn tấn) Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 1998 631,4 858,6 1999 484,6 971,1 2000 600,9 1478,6 2001 657,25 1760,0 2002 2021,0 Nguồn: Bộ thuỷ sản Năm 1998 là năm thuỷ sản xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng chậm nhất cả về số lượng và giá trị (kim ngạch chỉ tăng 10,58%; sản lượng tăng 11,59% so với năm 1997). Sản lượng thuỷ sản xuất khẩu có tốc độ giảm là do giá cả trung bình năm 1998 giảm 1% so với năm 1997; một số thị trường truyền thống bị thu hẹp (Ví dụ như thị trường Nhật Bản cũng chỉ bằng 90% so với năm 1997). Trong năm 1999, tình hình có tiến triển hơn. Sản lượng tuy giảm nhưng kim ngạch tăng 13,1%. Nguyên nhân của sự tăng này là do giá cả có phần ổn định, giá cả xuất khẩu tăng trung bình 1% so với năm 1998, ta đã mở rộng được thị trường và tăng thị phần xuất khẩu sang Mỹ, EU. Năm 2000-2001, ngành thuỷ sản đã tạo được những bước đột phá mới. Kim ngạch xuất khẩu đã vượt 1 tỷ USD và đưa ngành thuỷ sản xếp vị trí thứ 3 trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của chúng ta. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản là 2,021 tỷ USD, bằng 100,7% kế hoạch năm và tăng 13,31% so với thực hiện năm 2001. Chỉ tiêu kế hoạch năm 2003 mà ngành thuỷ sản đề ra là giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản 2,25 tỷ đến 2,3 tỷ USD, tăng 12-15% so với thực hiện năm 2002. Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tăng liên tục như vậy là do giá xuất khẩu thế giới tăng, đặc biệt là 49 doanh nghiệp Việt Nam được vào danh sách phát triển xuất khẩu Thuỷ Sản của EU và 60 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ. 3.2.2 Kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây: Theo Bộ thương mại, tháng 8/2003 kim ngạch xuất khẩu Thuỷ Sản ước đạt 230 triệu USD, tăng 10,6 % so với cùng kỳ năm 2002, nâng tổng kim ngạch 8 tháng ước đạt 1,4 tỷ USD, tăng 12,8%. Đáng chú ý là lực lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sang thị trường chủ yếu đều tăng do đã đặt được các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó EU đã bổ sung thêm 32 doanh nghiệp vào danh sách được xuất khẩu Thuỷ Sản sang thị trường nước này, các doanh nghiệp được cấp giấy phép vào thị trường Trung Quốc cũng tăng lên từ 250 lên 263, Hàn Quốc từ 174 lên 182 doanh nghiệp Thuỷ Sản "vượt rào" xuất khẩu đầu năm 2003 -Vượt qua nhiều khó khăn khách quan và hàng rào thương mại. Xuất khẩu Thuỷ Sản 6 tháng năm 2003 vẫn có mức tăng trưởng mạnh: tăng 9,42% về tổng sản phẩm, và 16,99 % về giá trị so với cùng kỳ năm 2002. Tình trạng nhà máy cơ sở thiếu nguyên kiệu không còn, sản lượng sản phẩm xuất khẩu các nhóm hàng có giá trị đều tăng mạnh. Tổng sản lượng Thuỷ Sản nước ta ước đạt 1,235 triệu tấn, tăng 17,5% Trong nuôi trồng các đã thực hiện chuyển đổi sang nuôi trồng Thuỷ Sản thêm 35200 ha, đưa tổng diện tích toàn quốc lên 985.200 ha Có khoảng 4800 trại sản xuất tôm giống đã cung cấp 12 tỷ tôm giống P15 và 5 tỷ cá giống Một số nghề khai thác đạt sản lượng cao như cá ngừ đại dương, cá cơm, cá nục. Biểu đồ 2: Giá trị xuất khẩu Thuỷ Sản 6 tháng đầu năm 2003 * Những thụân lợi và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu ngành thủy sản của Việt Nam Tính đến nay, xuất khẩu thủy sản của chúng ta đã bứt phá một cách ngoạn mục, vượt mốc 2 tỷ đô la Mỹ. Tình hình xuất khẩu thủy sản trong 10 năm qua đã có những chuyển biến rõ rệt từ chiều rộng đén chiều sâu, và từng bước thâm nhập vào thị trường thế giới. Cụ thể từ năm 1995 -2001 tốc độ tăng trung bình hàng năm đạt 21,87% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nguyên nhân chính cũng là do giá cả xuất khẩu trên thị trường thế giới tăng mạnh. Năm 2000 -2001 đã tạo ra một sự đột phá, vượt chỉ tiêu 2 tỷ đô la Mỹ đưa ngành thủy sản đưng hàng thứ 3 trong nhóm ngành hàng xuất khẩu sau sản phẩm dầu thô và dệt may. Kim ngạch xuất khẩu theo từng nhóm mặt hàng Tên hàng 1995 1997 1999 2000 2001 Giá trị tr.USD Tỷ trọng (%) Giá trị tr.USD Tỷ trọng (%) Giá trị tr.USD Tỷ trọng (%) Giá trị tr.USD Tỷ trọng (%) Giá trị tr.USD Tỷ trọng (%) Tôm đông lạnh 336 61,1 431 55,9 520 53,6 654 44,2 761 42,3 Mực đông lạnh 45 8,2 80 10,4 100 10,3 82 5,5 93 5,2 Cá đông lạnh 94 17,1 116 15,1 150 15,4 166 11,2 185 10,3 Mực khô 30 5,4 60 7,8 80 8,2 211 14,3 274 15,2 Thuỷ sản khác 45 8,2 83 10,8 121 12,5 365 24,8 487 27 Tổng 550 100 770 100 971 100 1478 100 1800 100 Nguồn : Bộ thủy sản *Bên cạnh những thuận lợi của ngành Thuỷ Sản đã đạt được nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn để Thuỷ Sản đột phá sang các thị trường lớn Như vấn đề về thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm vẫn chưa được chú trọng đến nhiều, đã dẫn đến việc mất thương hiệu hay việc kiện tụng đáng tiếc xảy ra như việc Mỹ kiện chúng ta đã vi phạm thương hiệu và bán phá giá cá tra, ba sa… -Cho đến nay, thuỷ sản Việt Nam chưa hình thành những vùng sản xuất hàng hoá một cách rõ rệt có thể cung cấp nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến một cách tương đối ổn định. Do vậy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam chưa thực sự tăng đều và ổn định. - Mặc dù các doanh nghiệp của chúng ta bước đầu đã chủ động tìm kiếm thị trường cho sản phẩm của mình song vẫn còn phải năng động hơn nữa, vấn đề quảng bá thương hiệu, marketing vẫn còn yếu kém. .. - Khi tranh chấp hay bị kiện tụng về thương mại thì chúng ta thường bị thua thiệt, bị đối xử không bình đẳng và bất công bằng. Vì đối với chúng ta khi mất thị trường đó là mất một thị phần lớn còn đối với các nước đó ví dụ như Mỹ khi áp dụng trừng phạt thương mại đối với ta thì Mỹ chỉ mất một thị phần nhỏ bé không đáng kể còn Việt Nam chúng ta là rất lớn… - Mặc dù ngành Thuỷ Sản Việt Nam đã xuất khẩu được ra nhiều nước kể cả những thị trường lớn như Mỹ, EU song thì phận của ta rất nhơ bé, rất khiêm tốn. 4. Thị trường tiêu thụ 4.1 Đánh giá chung về thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. * Sơ qua tình hình thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Nhờ sự nỗ lực trong những năm qua thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ngày càng được mở rộng. Mới đầu chỉ xuất khẩu qua hai thị trường trung gian là Hồng Kông và Singapo thì hiện nay Việt Nam đã xuất khẩu được sang 5 thị trường chính là Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc và khu vực Đông á. Thị trường Nhật Bản trong những năm đầu của thập kỷ 90 chiếm từ 65-75% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, song do sư biến động trong khu vực và đồng Yên mất giá nên thị trường này đã giảm xuống, mặc dầu vậy cho đến thời điểm này, đây vẫn là thị trường lớn nhất, chiếm 40,7% với kim ngạch xuất đạt 381,3 triệu USD. Đứng sau Nhật Bản là Mỹ, thị trường này đang dần được cải thiện từ 7-8% thị phần này đã tăng lên 13,8%. Tuy nhiên sức cạnh tranh của thuỷ sản Việt Nam ở thị trường này còn thấp, chỉ có một số ít doanh nghiệp bán được hàng sang Mỹ, tiếp đến là thị trường Trung Quốc và Hồng Kông với 117 triệu USD, chiếm 12,5%. Có thể nói thị trường Trung Quốc đang phát triển mạnh và nhu cầu rất đa dạng. Giá trị nhập khẩu hàng thuỷ sản của nước này hàng năm lên tới 1 tỷ USD , tuy nhiên do quan hệ thương mại và thanh toán giữa 2 nước còn gặp nhiều khó khăn nên hàng thuỷ sản Việt Nam đi vào Trung Quốc mới chủ yếu đi bằng con đường tiểu ngạch và chỉ được bán sang một số tỉnh phía Đông Nam với các loại nguyên liệu tươi sống là chủ yếu, xong thị phần xuất khẩu tăng lên. Ngược lại thị trường Đông Âu đang có nguy cơ giảm xuống từ 12,05% năm 1997 xuống còn 9,6% năm 1999. Ngoài các thị trường nói trên còn có một thị trường mà chỉ trước đây vài năm đã là một thị trường có nhiều sức thuyết phục đó là thị trường Đông Nam á. trong năm 1997 thị trường này đã tiêu thụ 22 ngàn tấn thuỷ sản, chiếm 16,5% cơ cấu mặt hàng của nước ta, đó là các mặt hàng tươi sống sơ chế và nguyên liệu. Đáng tiếc gần đây do khủng hoảng tiền tệ trong khu vực nên lượng xuất khẩu vào thị trường này đã giảm sút liên tục. Tuy nhiên sư hội nhập của Việt Nam vào ASEAN và AFTA, APEC sẽ mở ra nhiều cơ hội hợp tác và những thuận lợi cho việc tăng xuất khẩu vào khu vực. 4.2 Thị trường Thuỷ Sản những năm gần đây: Những kết quả đạt được trong xuất khẩu Thuỷ Sản những năm qua không thể tách công tác phát triển thị trường. Hoạt động xúc tiến thương mại có chuyển biến tích cực ở bộ, các tỉnh và doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã chuyển hẳn từ tiếp thị thụ động sang tiếp thị chủ động. Nhờ đó mà hình thành thế chủ động và cân đối thị trường, không lệ thuộc vào thị trường truyền thống Nhật Bản như những năm trước đây . Bắt đầu giành được vị trí quan trọng trên thị trường lớn có yêu cầu khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh như Mỹ, EU; có khả năng chủ động điều chỉnh đựơc cơ cấu thị trường, khi thị trường truyền thống có biến đổi bất lợi. Cơ cấu của các thị trường đã có sự thay đổi lớn, thị trường Nhật Bản tuy vẫn tăng về giá trị, nhưng tỷ trọng đã giảm dần, từ 42,30% năm 1998, nay xuống còn 26,24% năm 2001, và năm 2002 xuống vị trí thứ 2 sau Mỹ Thị trường Mỹ đã trở thành thị trường quan trọng chiếm vị trí dẫn đầu, với thị phần tăng nhanh từ 11,6% năm 1998 lên 27,81% năm 2001 và năm 2002 đã đạt 665 triệu USD, vượt qua thị trường Nhật Bản Mặt hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ ngày càng được mở rộng, bên cạnh các mặt hàng tôm, đến nay một số doanh nghiệp đã xuất các mặt hàng tươi sống như cá ngừ đại dương, cá thu, cua,… với giá cả tương đối ổn định. Thị trường Trung Quốc, Hồng Kông là thị trường tiềm năng do vị trí địa lý gần Việt Nam, nhu cầu Thuỷ Sản lớn, đang tăng nhanh, chủng loại đa dạng, không đòi hỏi cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm như hàng cá khô và mực nút nguyên con. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận. Tuy nhiên do phương thức thanh toán của thị trường còn vướng mắc, thếu nhập khẩu cao(43%), nên thời gian qua tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường này tăng nhanh nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của nó Năm 1998 tỷ trọng hàng Thuỷ Sản xuất khẩu vào thị trường này chiếm 10,56%, năm 2002 đã tăng lên 14,9%, chiếm vị trí thứ 3 trong cơ cấu thị trường Thuỷ Sản . Thị trường EU là một trong 3 thị trường lớn nhất nhập Thuỷ Sản thế giới. trong những năm qua tỷ trọng hàng Thuỷ Sản của Việt Nam xuất vào EU tuy không tăng và giao động ở mức 6,5 đến 8%, riêng năm 2002 giảm xuống 4,2% do ảnh hưởng của việc quy định về kiểm tra dư lượng kháng sinh và tiêu huỷ những lô hàng có nhiễm kháng sinh. Tuy nhiên, đây là thị trường có nhu cầu ổn định, trở thành thị trường đối trọng khi có biến động tại Mỹ và Nhật Bản. Các thị trường khác thuộc Châu á và khu vực khác cũng được quan tâm hơn, với tỷ trọng tăng lên đáng kể từ 12,5% nă, 1998 lên khoảng 17,9% vào năm 2002. Trong đó phải tính đến thị trường quan trọng là Hàn Quốc và Đài Loan. Trong thị trường chủ yếu Hoa Kỳ vẫn đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng, tuy cá Tra và cá Bấ bị áp thuế chống phá giá nhưng các loại cá tươi và cá ướp lạnh vào thị trường này vẫn chiếm tỷ trọng lớn khoảng 19%…. Biểu đồ 3: Tỷ trọng thị trường xuất khẩu Thuỷ Sản theo giá trị (Từ năm 1998-2002) *Đánh giá chung. Thực tế đó cho thấy, thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam rõ ràng là chưa ổn định. Chủng loại sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu còn nghèo nàn chủ yếu bao gồm tôm, mực đông lạnh sơ chế (chiếm 80% khối lương), tỷ lệ sản phẩm có giá trị cao còn ít, chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuản quốc tế còn hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu của các nước nhập khẩu lớn. Do đó mặc dù giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan,Inđônêxia nhưng vẫn không đủ sức cạnh tranh. Rõ ràng dù có lợi thế là tài nguyên thuỷ sản phong phú, điều kiện khí hậu thuận lợi, giá lao động rẻ hơn so với các nước khác, nhưng do trình độ khoa học và công nghệ còn thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém lại thiếu kinh nghiệm trong quản lý, khiến cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam chưa được phát huy và xuất khẩu không đạt được hiệu quả mong muốn. Thêm vào đó, chúng ta lại chưa đẩy mạnh được xuất khẩu trực tiếp vào các thị trơòng chính mà chủ yếu vẫn phải xuất qua trung gian môi giới và các trung tâm tái xuất như: Singapo, Hồng Kông, chưa đủ khả năng bán hàng theo điều kiện CIF và các điều kiện khác có hàm lượng dịch vụ bán hàng cao hơn, chưa sử dụng được hình thức đại lý bán hàng thuỷ sản ở các nước tiêu thụ lớn như: Nhật Bản, EU, và Bắc Mỹ nên không tận dụng được các cơ hội thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu cho đến nay chúng ta vẫn thiếu một kế hoạch và chương trình tổng thể xúc tiến hàng thuỷ sảnViệt Nam ở nước ngoài. Thực tế thị trường Nhật Bản nhìn chung đang ở mức bão hoà và đang trong thời kỳ suy thoái về kinh tế. Thị trường Đông Nam A đang trong thời kỳ suy thoái về kinh tế ,tuy nay đã có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn trong thời kỳ trì trệ. Vì vậy việc duy trì thị phần của Việt Nam ở đây là rất khó khăn và phụ thuộc rất lớn vào mức độ cạnh tranh của các nước trong khu vực như: Thái Lan,Inđônêxia, ấn Độ,Trung Quốc cũng là thị trường hứa hẹn nhiều tiềm năng, có khẳ năng tiêu thụ nhiều loại hàng khô, giá thấp phù hợp với khẳ năng chế biến của doanh nghiệp Việt Nam và nguồn lợi biển của các tỉnh miền biển của doanh nghiệp Việt Nam và nguồn lợi biển của các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Hai thị trường EU và Bắc Mỹ là những thị trường tiêu thụ chính của thế giới mà Việt Nam cũng đang hướng tới. Trở ngại lớn nhất của hàng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào hai thị trường này là vấn đề đảm bảo chất lương và an toàn vệ sinh thực phẩm theo những điều kiện HACCP. Song chúng ta có cơ sở lạc quan để phát triển mạnh mẽ thị trường này, vì sau hội nghị Thượng Đỉnh á- Âu II tháng 4/1998, Eu đã xếp Việt Nam vào nhóm I là nhóm nước đã được thanh tra của EU khảo sát và công nhận có đủ các điều kiện tương đương được phép xuất khẩu thuỷ sản vào EU. Theo dự kiến, cơ cấu thị trường năm 2005 vào Nhật Bản sẽ là 40%, Mỹ 18%, EU 10%, Trung Quốc và Hồng Kông10%, Châu A và các nước khác 22%. *Mục tiêu đối với từng thị trường. Với mục tiêu đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm của giá trị xuất khẩu thuỷ sản là 17% Bộ thuỷ sản cũng đã đề ra những chương trình hành động cụ thề, phát triển từng nhóm sản phẩm đến từng thị trường đáp ứng nhu cầu của từng thị trường như: nhóm sản phẩm tôm, nhuyễn thể có thị trường chính là Nhật Bản,EU và Mỹ; nhóm sản phẩm cá có thị trường chính là Trung Quốc, Hồng Kông, Singapo; nhóm các sản phẩm khác phục vụ cho thị trường của cộng đồng người Việt Nam và người Châu á trong khu vực và người phương Tây; nhóm sản phẩm đồ hộp phục vụ thị trường Tây Nam Trung Quốc, Tây á và Trung Cận Đông. Tiếp tục đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tăng thị phần ở thị trường EU , Bắc Mỹ, tận dung tốt thời cơ để mở rộng thị trường xuất khẩu ra toàn thế giới III- Đánh giá về tình hình thực hiện hội nhập của ngành Thuỷ Sản Việt Nam Không thể phủ nhận rằng việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO nói chung và ngành Thuỷ Sản tiến tới gia nhập vào WTO nói riêng sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích, như thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam thúc đẩy sự xâm nhập thị trường cho các hàng hoá xuất khẩu , cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại chính, sự đối sử theo hệ thống ưu đãi phổ cập cho các nứơc đang phát triển thành viên và quan trọng hơn là củng cố những cải cách kinh tế của Việt Nam. Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để tăng năng suất trong ngành Thuỷ Sản, do đó khả năng cạnh tranh trong ngành này là rất cao. Hơn nữa nhu cầu thị trường đối với ngành này rất lớn và ngày càng gia tăng. Tuy nhiên ngành này đòi hỏi đầu tư vốn lớn và cơ sở kỹ thuật cao hơn so với các ngành nông nghiệp khác. Vì vậy, việc gia nhập vào WTO có tác động tích cực đối với ngành Thuỷ Sản Việt Nam: - Thị trường xuất khẩu tăng sẽ kích thích sản xuất trong nước , thuế nhập khẩu giảm, tạo điều kiện khắ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34345.doc
Tài liệu liên quan