MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu 1
Phần nội dung 2
Chương I: Cơ sở lý luận về du lịch và văn hoá trong phát triển du lịch. 2
1.1. Các khái niệm cơ bản về du lịch. 2
1.1.1. Định nghĩa về du lịch. 2
1.1.2. Các loại hình du lịch. 3
1.1.2.1. Phân chia theo phạm vi lãnh thổ. 3
1.1.2.2. Theo nhu cầu của khách du lịch. 3
1.1.2.3. Theo vị trí địa lý của cơ sở du lịch. 4
1.1.2.4. Theo việc sử dụng các phương tiện giao thông. 4
1.1.2.5. Theo thời gian của cuộc hành trình. 5
1.1.2.6. Theo lứa tuổi. 5
1.1.2.7. Theo hình thức tổ chức. 5
1.1.2. Các điều kiện để phát triển các loại hình du lịch. 5
1.1.2.1. Dân cư và lao động. 5
1.1.2.2. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế. 6
1.1.2.3. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch. 6
1.1.2.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật. 7
1.1.2.5. Đô thị hóa. 7
1.1.2.6. Điều kiện sống. 7
1.1.2.7. Thời gian rỗi. 8
1.1.2.8. Các nhân tố chính trị. 8
1.2. Định nghĩa du lịch văn hoá. 8
1.3. Các giá trị văn hóa. 9
1.3.1. Các giá trị văn hóa hữu hình. 9
1.3.1.1. Các danh lam thắng cảnh. 9
1.3.1.2. Các di tích văn hóa nghệ thuật. 9
1.3.1.3. Các di tích lịch sử. 9
1.3.1.4. Các di tích khảo cổ. 10
1.3.2. Các giá trị văn hóa vô hình. 10
1.3.2.1. Các lễ hội. 10
1.3.2.2. Các đối tượng văn hóa, thể thao và hoạt động nhận thức khác. 11
1.4. Mối quan hệ tương hỗ giữa văn hóa và du lịch. 12
1.4.1. Văn hóa là tài nguyên, là nguồn lực quan trọng của du lịch. 12
1.4.2. Vai trò của du lịch đối với nền văn hóa dân tộc. 13
Chương II: Thực trạng phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hà Nội. 14
2.1. Khái quát về phát triển du lịch Hà Nội. 14
2.2. Tiềm năng các giá trị văn hoá của Hà Nội. 16
2.2.1. Các di tích lịch sử văn hóa. 17
2.2.2. Về cảnh quan tự nhiên. 19
2.2.3. Lễ hội truyền thống. 20
2.2.4.Về nghệ thuật. 21
2.2.5. Nghề thủ công truyền thống. 22
2.3. Thực trạng khai thác các tiềm năng du lịch văn hóa ở Hà Nội. 23
2.3.1. Các di tích lịch sử, văn hoá. 23
2.3.2. Cảnh quan thiên nhiên . 24
2.3.3 Về hoạt động văn hoá, văn nghệ . 25
2.4. Thực trạng hoạt động kinh doanh du lịch của Hà Nội. 27
2.4.1. Thực trạng dòng khách. 27
2.4.2. Hoạt động du lịch. 29
2.4.3. Doanh thu: 30
Chương III: Một số giải pháp phát triển 31
du lịch văn hoá Hà Nội. 31
3.1. Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch. 31
3.2. Khuyến khích du lịch văn hoá dân tộc phát triển ở Hà Nội : 33
3.3. Xây dựng quy hoạch tổng thể về du lịch Hà Nội. 33
3.4. Giữ gìn, tôn tạo các giá trị văn hoá dân tộc ở Hà Nội. 33
3.5. Đề ra một số chính sách bảo trì, khôi phục lại nghành nghề truyền thống cổ truyền. 34
3.6. Nâng cao chất lượng phục vụ khách du lịch. 34
3.7. Phát triển du lịch văn hóa một cách bền vững. 35
Phần kết luận 36
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2832 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội vùng và hội cả nước), nhưng đều phải có một làng làm gốc, đăng cai. Hội làng là lễ hội tổ chức theo đơn vị làng. Làng là tổ chức thuần Việt và là cơ cấu gốc của xã hội cổ truyền. Bản sắc dân tộc ở từng làng quy tụ thành bản sắc dân tộc Việt Nam chung. Nước là sức mạnh tổng thể của làng cũng như làng là gốc của nước.
1.3.2.2. Các đối tượng văn hóa, thể thao và hoạt động nhận thức khác.
Các đối tượng văn hóa cũng thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Đó là trung tâm của các viện khoa học, các trường đại học, các thư viện lớn và nổi tiếng, các thành phố có triển lãm nghệ thuật, các trung tâm thường xuyêntổ chức liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, các cuộc thi đấu thể thao quốc tế, biểu diễn âm nhạc...
Các đối tượng văn hóa thể thao thu hút không chỉ khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu mà còn thu hút đa số khác du lịch với các mục đích khác, ở các lĩnh vực khác và từ nơi khác đến. Tất cả khách du lịch có trình độ văn hóa trung bình trở lên đều có thể thưởng thức các giá trị văn hóa của một đất nước mà họ đến thăm.
1.4. Mối quan hệ tương hỗ giữa văn hóa và du lịch.
1.4.1. Văn hóa là tài nguyên, là nguồn lực quan trọng của du lịch.
- Trong sản phẩm du lịch thường bao gồm hai loại tài nguyên là tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Nếu tài nguyên tự nhiên hấp dẫn du khách ở sự hoang sơ thì tài nguyên nhân văn hấp dẫn du khcách bởi tính phong phú, đa dạng, độc đáo cũng như tính đặc trưng địa phương của nó. Việt Nam có khoảng 4000 di tích trong đó có 2250 di tích được xếp hạng về giá trị thẩm mỹ, đa dạng bao gồm đình chùa, đền, miếu, các cung điện, lăng tẩm...
Những công trình này vừa hội tụ tư tưởng dân tộc vừa hội tụ những quan điểm triết học phương Đông.
- Văn hóa là nguyên nhân phát sinh của nhu cầu đi du lịch vì du lịch cho đến cùng là sinh hoạt văn hóa của con người nhằm hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần.
- Văn hóa là điều kiện, là đối tượng cho du lịch khai thác và phát triển. Các sản phẩm du lịch của một nước quyết định chiến lược phát triển chất lượng và hiệu quả du lịch. Dưới góc độ thị trường văn hóa vừa là yếu tố cung vưa góp phần hình thành yếu tố cầu trong du lịch. Về mặt các nghiệp vụ củ thể thì văn hóa có vai trò rất lớn ở chỗ:
+ Góp phần xây dựng luận chứng kinh tế để gọi vốn đầu tư.
+ Đây là bộ phận kiến thức rất quan trọng để xây dựng một chương trình, một tour du lịch.
+ Nó là cơ sở để tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị để xúc tiến du lịch.
+ Văn hóa cung cấp cách giao tiếp, ứng xử, đồng thời cũng là vốn kiến thức hết thức hết sức quan trọng của hướng dẫn viên du lịch.
1.4.2. Vai trò của du lịch đối với nền văn hóa dân tộc.
- Du lịch là phương tiện trình diễn và truyền tải các giá trị văn hóa để thực hiện sự giao lưu văn hoá.
- Nhờ có du lịch mà phục hồi được các giá trị truyền thống như các lễ hội văn nghệ dân gian, các làng nghề thủ công truyền thống...
- Do có nguồn thu từ du lịch mà có điều kiện đầu tư trở lại cho việc bảo tồn các di tích lịch sử, công trình văn hóa.
Chương II: Thực trạng phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hà Nội.
2.1. Khái quát về phát triển du lịch Hà Nội.
Qua việc khảo sát và phân tích thực tế tiình hình kinh doanh của ngành du lịch Hà Nội trong những năm đổi mới cho thấy những thành công cũng như những hạn chế còn tồn tại làm cho Hà Nội chưa xứng đáng là một trong những điểm đến của thiên niên kỷ mới .
Trước hết là những thành công: Nếu lấy mốc so sánh là năm 1990, có thể thấy số lượng khách quốc tế và khách nội địa đến Hà Nội có tốc độ tăng định gốc rất cao, trong đó khách quốc tế tăng 3619%, khách nội địa tăng 2500%, rất đa dạng về quốc tịch (đến từ 153 quốc gia), nhưng tập trung vào 10 quốc gia hàng đầu đã chiếm tới hơn 60%. Những năm cuối thập niên 90 có xu hướng tăng mạnh khách đến Hà Nội, đó là Trung Quốc, Đan Mạch, Hà Lan, Thụy Sỹ, Mỹ và Canada, và có xu hướng giảm là: Đài Loan, Singapo, Thái Lan, Hàn Quốc. Thời gian lưu lại của khách du lịch quốc tế đến Hà Nội trung bình là 2,5 ngày. Mục đích chính của chuyến đi đến Hà Nội là công vụ kết hợp với thăm quan du lịch. Tốc độ phát triển trung bình các năm từ 1990 đến 1999 đối với khách quốc tế đến Hà Nội là 115,25%, khách nội địa là143,4%. Khách du lịch quốc tế đến Hà Nội có xu hướng tăng trưởng ổn định đó là khách du lịch người Pháp, Đức, Anh và Nhật bản. Cung du lịch Hà Nội đã phát triển mạnh đáp ứng được các nhu cầu của khách, tốc độ tăng định gốc của cung khách sạn Hà Nội là 2,6 lần về số lượng buồng và 3,7 lần về số lượng buồng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tốc độ phát triển bình quân về khách sạn 110,9%, về buồng khách sạn là 117,3%, về buồng đạt tiêu chuẩn quốc tế là 120,55%.
Hà Nội là thành phố có tỷ trọng vốn đầu tư vào liên doanh xây dựng khách sạn lớn nhất nước chiếm 31,7% với tổng số vốn 1.174.287.000 USD. Điều này chứng tỏ môi trường đầu tư ở Hà Nội là khá thuận lợi và hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Lao động trong ngành du lịch Hà Nội chiếm 17% tổng số lao động của ngành du lịch Việt Nam. Đội ngũ lao động du lịch của Hà Nội nhìn chung được đào tạo cơ bản , có khả năng nghiệp vụ và ngoại ngữ đặc biệt là các lao động trong các khách sạn, doanh nghiệp lữ hành liên doanh với nước ngoài. Hà Nội đã có nhiều dự án nhằm tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử ,các làng nghề truyền thống và khu vui chơi giải trí... Điều đó làm tăng thêm tính đa dạng và phong phú cho sản phẩm du lịch Hà Nội. Hệ thống phân phối của sản phẩm du lịch Hà Nội đóng vai trò chính là các công ty lữ hành du lịch, cấc chi nhánh đại diện đã tăng lên đáng kể. Tốc độ tăng định gốc của hệ thống này là: lữ hành quốc tế đạt 2,12 lần ; lữ hành nội địa 1,77 lần và chi nhánh đại diện của các công ty địa phương đặt tại Hà Nội tăng lên 3,88 lần. Chính sự phát triển của lượng khách du lich quốc tế và khách nội địa đến Hà Nội vào những năm 90 đã góp phần thúc đẩy các ngành khác phát triển, làm cho các cấp các ngành và dân cư nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về du lịch. Quản lý nhà nước về du lịch bước đầu đẵ có sự kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và lãnh thổ. Sở Du lịch Hà Nội từ khi được thành lập đến nay đã giúp Tổng cục du lich và UBND thành phó Hà Nội thực hiện được nhiều việc liên quan đến công tác quản lý cho các hoạt động du lịch trên địa bàn. Nhờ vậy công tác quản lý du lịch tên địa bàn Hà Nội đã dần đi vào khuôn phép. Sở du lịch Hà Nội đá phối hợp với các ban ngành thành phố tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp , kiểm tra hướng dẫn cho các đơn vị hoạt động đúng pháp luật, tạo điều kiện để các doanh nghiệp từng bước kinh doanh có hiệu quả. Do đó doanh thu và nộp ngân sách của ngành du lịch Hà Nội đều tăng.
Ngoài những thành công trên đây không thể không nhắc đến một số mặt hạn chế cần giải quyết như: việc định hướng và khai thác thị trường khách của các nhà cung cấp sản phẩm du lịch Hà Nội còn nhiều lúng túng đặc biệt đối với các nhà cung cấp sản phẩm có qui mô nhỏ. Mối quan hệ giữa các nhà cung cấp du lịch Hà Nội với các công ty lữ hành thiếu sự găn bó và thực sự chưa được các nhà cung cấp sản phẩm quan tâm đúng mức.
Do những hạn chế về tài chính nên số lượng các công ty du lịch có văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại các thị trường nước ngoài còn ít. Mặt khác một số công ty có văn phòng hoặc chi nhánh thì qui mô hiệu quả hoạt động còn hạn chế.
Hoạt đông xúc tiến của du lich Hà Nội cần chú trọng hơn nữa đến chiều sâu. Mặt khác, chưa xác định được lợi thế cạnh tranh của sản phẩm du lịch Hà Nội với sản phẩm du lịch của các địa phương khác trong nước và các nước trong khu vực châu á và đặc biệt là các nước ASEAN. Do đó lợi thế cạnh tranh của sản phẩm du lịch Hà Nội là chất lượng phục vụ hay là tài nguyên du lịch hay là tất cả?
Bên cạnh đó sự phân tán đơn điệu thiếu tính đồng bộ đó là đặc điểm của sản phẩm du lịch Hà Nội mà chưa có giải pháp hữu hiệu để khắc phục.
Việc tổ chức quản lý của các cấp các ngành của Hà Nội đối với ngành du lịch Hà Nội chưa có sự kết hợp đồng bộ để phát huy vai trò của ngành du lịch là hệ thống phân phối sản phẩm cho chính họ; chưa có những chính sách ưu đãi thoả đáng đối với các nhà kinh doanh du lịch khi mà họ thiêu thụ một số lượng lớn sản phẩm cho các ngành này.
Hệ thống thống kê du lịch chưa có các tiêu chí thống nhất. Việc sử dụng lao động có chuyên môn về du lịch và khách sạn chưa được đựơc các doanh nghiệp coi trọng hàng đầu, phần lớn các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến trình độ ngoại ngữ và hình thức người lao động còn xem nhẹ chuyên môn.
Trên đây là một số thành công cũng như bất cập của ngành du lịch Hà Nội trong những năm gần đây. Du lịch Hà Nội đang trên đà phát triển nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của thủ đô. Điều này cần được các nhà quản lý cũng như các doanh nghiệp kinh donh lữ hành quan tâm hơn đến sự phát triển chung của ngành du lịch thủ đô.
2.2. Tiềm năng các giá trị văn hoá của Hà Nội.
Có thể nói Hà Nội là nơi có tiềm năng văn hóa vô cùng to lớn. Đây là điều kiện quan trọng số một để phát triển loại hình du lịch văn hóa.
2.2.1. Các di tích lịch sử văn hóa.
Với lịch sử lâu đời, Hà Nội là nơi có nhiều di tích văn hóa nổi tiếng, phong phú và đa dạng cả về nguồn gốc lẫn loại hình. Vì vậy đây là tiềm năng lớn của rất ngành du lịch Hà Nội.
Về số lượng, cho tới nay ước tính trên địa bàn Hà Nội có khoảng 2000 di tích, với mật độ 2 di tích/km2.
Tính đến năm 1995 cả nước có 1662 di tích được xếp hạng. Trong đó Hà Nội đã có tới 322 di tích được cấp bằng, đứng đầu cả nứoc về số di tích được xếp hạng. Nếu so sánh giữa ba trung tâm du lịch lớn của cả nước thì tỷ lệ di tích được xếp hạng của Hà Nội cao hơn nhiều.
Bảng 1: Tương quan về số lượng di tích xếp hạng ở Hà Nội- Huế- Thành phố Hồ Chí Minh.
Số TT
Địa điểm
Số di tích xếp hạng
Tỷ lệ(%)
1
2
3
Cả nước:
Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh
Thừa Thiên- Huế
1.662
322
30
209
100,00
19,37
1,80
12,57
Về loại hình, theo tài liệu của cục bảo tồn bảo tang bộ văn hóa thông tin, trong số các di tích được xếp hạng ở Hà Nội, số lượng di tich kiến trúc nghệ thuật chiếm tỷ lệ cao nhất (52,17%) tiếp đến là các di tích lịch sử (13,42%) rồi đến các di tích nghệ thuật (10,87%).
Trong các di sản văn hoá phải kể đến giá trị của các di tích cổ bao gồm những ngôi đền, đình, chùa, miếu… còn in đậm dấu ấn của lịch sử, là di sản vô giá của các bậc tiền nhân.
Di tích cổ ở Hà Nội đa dạng, phong phú nhiều chủng loại, có những niên đại tồn tại từ thời Lý đến thời Nguyễn . Theo cuộc kiểm kê của ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội năm 1984 cho thấy Hà Nội có 1995 di tích lịch sử văn hoá cổ.
Bảng 2: Số lượng và tỷ lệ các loại hình di tích Hà Nội.
Số TT
Loại hình di tích
Số lượng di tích
Tỷ lệ(%)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Di tích lịch sử
Di tích lịch sử nghệ thuật
Di tích lịch sử liến trúc
Di tích lịch sử liến trúc nghệ thuật
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Di tích kiến trúc
Di tích nghệ thuật
Di tích cách mạng
Danh thắng
Tổng số
42
25
4
30
168
9
35
7
3
322
13,04
7,76
1,24
9,32
52,17
2,80
10,87
2,18
0,62
100,00
Nổi bật trong các di tích kiến trúc cổ ở Hà Nội là một số các di tích như :
- Di tích thành Cổ Loa: Năm 257 trước công nguyên Thục Phán sáng lập ra nước Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa đã đắp một toà thành bằng đất. Nay có 3 vòng qui mô lớn . Vòng thành ngoài là đường cong tự do dài tới 8 km.
- Chùa Trấn Quốc (trước kia gọi là chùa Khai Quốc) do Lý Nam Đế xây dựng năm 544 trên bờ sông Hồng. Tới thế kỷ 17 do bờ sông bị lở, chùa được dời vào Hồ Tây đổi tên thành An Quốc rồi Trấn Quốc như ngày nay.
- Chùa Một Cột: Là ngôi chùa cổ nhất thời Lý của Hà Nội, chùa Một Cột (Hay còn gọi là chùa Diên Hưu) xây dựng năm 1049 tiêu biểu cho lối kiến trúc tôn trọng nghiêm nghặt sự can thiệp của môi trường tự nhiên.
- Khu phố cổ Hà Nội : ở Việt Nam ngoài Hội An ra chỉ có Hà Nội còn giữ được khu phố cổ. Theo các nguồn sử liệu thì khu vực này là nhân lõi của đô thị Hà Nội nay cả khi nơi này trở thành kinh đô Thăng Long. Năm 542 Lý Nam Đế đã tầng dựng toà thành bằng gỗ ở cửasông Tô Lịch tức là khu các phố Chợ Gạo, Nguyễn Siêu ngày nay. Các ngôi nhà được thiết kế theo kiểu “nhà ống” nhà như một cái ống ngang hẹp chiều dài sâu có khi thông sang các ngõ khác, phố khác.
2.2.2. Về cảnh quan tự nhiên.
Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự hấp dẫn du khách là vẻ đẹp của cảnh quan tự nhiên. Khách đi du lịch một phần muốn chiêm ngưỡng cảnh đẹp, một phần muốn nâng cao hiểu biết. Cảnh quan tự nhiên cho du lịch văn hoá là những công trình kiến trúc được lồng ghếp hay hiểu rộng hơn là những công trình kiến trúc có dấu ấn con người.
Phần lớn diện tích Hà Nội và các vùng phụ cận là vùng đồng bằng với diện tích trung bình trên dưới 10 m, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo dòng chảy của sông Hồng nằm giữa hai vùng đồi núi tách biệt.
Địa hình là một trong những thành phần cơ bản nhất của môi trường tự nhiên , của cảnh quan, trên đó diễn ra tất cả các hoạt đọng du lịch. Nhìn chung địa hình có ảnh hưởnh sâu sắc đến các hiện tượng, các tiền đề và nhân tố được phản ánh rõ rệt đến các địa điểm, cấu trúc bên trong, và bộ mặt cảnh quan, thông qua đến các hoạt động du lịch và giải trí. Chính vì thế với Hà Nội, vùng đồng bằng đã được khai thác và sử dụng, đứng trên góc độ du lịch , vùng đồng bằng là những cảnh quan quen thuộc và gần gũi con người. Địa hình còn hấp dẫn khách du lịch ở tính hay thay đổi của ná, do đó thông thường các địa hình đồi núi có sức hơn điạ hình đồng bằng.
Với một địa hình không thống nhất, với vị trí trung tâm là của ngõ phía Bắc của Việt Nam hoạt động du lịch ở Hà Nội trở nên phong phú.
Hà Nội có rất nhiều cây xanh, như ở công viên Lê Nin, công viên Thủ Lệ, Bách Thảo…, cây xanh ở Hà Nội có đủ cả 4 mùa, có những cây đã sống hàng ngàn năm, chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử.
Kiến trúc cổ truyền, và những cây xanh đại thụ là hai mặt sinh tồn của di tích. Hà Nội còn có rất nhiều hồ, tới 3.600 ha hồ, ao, đầm với 27 hồ, đầm lớn có thể khai thác phục vụ du lịch. Hồ Gươm, Hồ Tây là những hồ thiên nhiên ở nội thành nổi tiếng với những di tích , những huyền thoại.
Ngoài ra Hà Nội còn có khí hậu khá ôn hoà (Nhiệt độ trung bình từ 17-230C, lượng mưatrung bình 1707mm).
2.2.3. Lễ hội truyền thống.
Tiềm năng văn hoá văn nghệ qua Hà Nội phục vụ cho mục đích du lịch thể hiện rõ nét nhất qua hoạt động và sinh hoạt văn hoá dân gian.
- Lễ hội:
Trước khi trở thành một thành phố với khu vực địa lý rộng lớn như hiện nay, Hà Nội đã từng là một làng – làng Hà Nội bên sông Tô. Như vậy cũng như bao làng Việt Nam khác làng Hà Nội cũng có những phong tục tập quán đặc trưng của làng xóm.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá của cộng đồng trong một làng xã ,là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Từ nguyên sơ lễ hội ra đời cùng với việc tổ chức tập hợp lực lượng lao động để chiến đấu , mừng công hoặctổng diễn tập .Mỗi lễ hội thường có một nhân vật lịch sử gắn với tên tuổi của một nhân vật nào đó được nhân vật địa phương có lễ hội tôn vinh , thờ tự .Lễ hội được tiến hành định kỳ hàng năm tập trung vào mùa nông nhàn –mùa xuân .
Lễ hội là một sinh hoạt tổng hợp nhiều giá trị xét về mặt thoả mãn nhu cầu du lịch có một số đặc điểm sau :
+ Sự di chuyển khỏi nơi cư trú thường xuyên để đi trẩy hội một thời gian nhất định dài hay ngắn theo lịch của lễ hội
+ Do có sự di chuyển khỏi nơi cư trú mà có các dịch vụ ăn uống , nghỉ ngơi , đi lại cho khách du lịch .
+ Đáp ứng nhu cầu giải toả tâm hồn cân bằng tâm lý và cuộc sống ,nâng cao hiểu biết , kién thức về tín ngưỡng văn hoá dân tộc.
Cho tới nay trong số các di tích được xếp hạng ở Hà Nội thì có đến hơn 90% là đền, đình, chùa… Đó chính là địađiểm để tổ chức lễ hội truyền thống .Có thể nói hầu hết các lễ hội truyền thống có tiếng tăm ở Hà Nội từ trước đến nay đều đã mở lại.
Mảng lễ hội nổi trội nhất ở Hà Nội đó là lễ hội về những vị anh hùng dân tộc trong số đó nổi bật nhất phải kể đến là hội Gióng – Một lễ hội có tầm vóc quốc gia. Hội Gióng đền Sóc là nơi sau khi đánh tan giặc dừng chân uống nước Hồ Tây,Gióng Chi Nam – trên đường về trời thấy thuỷ quái nên quay lại đánh để cứu dân.
Hà Nội còn có lễ hội ở đền, chùa, phủ,những lễ hội này chiếm vị trí không nhỏ trong sinh hoạt văn hoá của người Hà Nội. Những ngày hội ở phủ Tây Hồ, đền Ghềnh, chùa Hà, chùa Quán Sứ… là những lễ hội nổi tiếng.
Với bề dày lịch sủ lâu đời, lễ hội, đền, chùa ở Hà Nội là sản phẩm của mối giao duyên giữa Phật giáo và tính ngưỡng dân gian nên lễ hội đã mang màu sắc lưỡng hợp ,vừa mang đặc tính của Phật giáo vừa mang màu sắc của dân gian.
Những lễ hội lớn không chỉ bó hẹp rong phạm vi một làng , một thôn . Lễ hội ở Hà Nội trở thành lễ hội của cả một vùng rộng lớn.
Du lịch văn hoá lễ hội dân gian là hành trang không thể thiếu được bởi lẽ với lễ hội truyền thống nghành du lịch có cơ hội để giới thiệu bản sắc văn hoá dân tộc .Dự án VIE89/003 đã đánh giá tiềm năng văn hoá của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng nhìn từ góc độ phát triển du lịch không quên nhấn mạnh các lễ hội và lễ nghi trong văn hoá Việt Nam.
2.2.4.Về nghệ thuật.
- Âm nhạc:
Hà Nội được thừa hưởng một nền âm nhạc cung đình Thăng Long xưa – một nền âm nhạc được tạo dựng từ khi nhà Lý lấy vùng Đại La làm kinh đô nước Đaị Việt.
Văn nghệ, nghệ thuật ở thủ đô rát phong phú : hát trống quân , hát chèo… Nhưng đặc trưng nhất vẫn là ca trù .
Ca trù có nguồn gốc từ lối hát cửa đình. Hát cửa đình vừa làhình thức vừa là phong cách thể hiện của đào kép đáp ứng yêu cầu của dân làng trong những ngày lễ hội ngoài việc phục vụ nghi lễ.
- Nghệ thuật múa:
Múa dân gian là bộ phận của múa dân tộc nó không thể thiếu và đã làm sống dậy không khí vui tươi mang ý nghĩa xã hội trong các lễ hội của làng quê ở Hà Nội phổ cập nhất là múa sư tử và nổi tiếng nhất là múa rối nước.
Theo các nhà nghiên cứu thì ngay từ thế kỷ 11 múa rối nước đã rất thịnh hành múa rối nước cổ truyền như là một hội làng thu nhỏ .Sân khấu múa rối nước với những nhà thuỷ đình mái cong.ở sân khấu người diễn viên đứng làm buồng trò để điều khiển con rối , thao tác bằng hệ thống dây điều khiển bên ngoài và dưới nước.
2.2.5. Nghề thủ công truyền thống.
Nghề thủ công truyền thống không những tạo ra những sản phẩm thủ công phục vụ khách du lịch mà còn là đối tượng tìm hiểu của khách, có sức hấp dẫn du khách rất lớn.
Hà Nội nổi tiếng tùe xưa là nơi tập trung nhiều nghề thủ công tinh xảo và những nguời thợ tài ba.
Đến Hà Nội du khách có thể tìm hiểu những nghề đặc sắc như nghề làm tranh dân gian (tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ), ; nghề gốm sứ Bát Tràng; nghề làm giấy gió lụa, dệt tơ tằm ở Bưởi; nghề thêu Yên Thái; đúc đồng Ngũ Xã, các nghề nay của Hà Nộiđược tiếng từ xa xưa.
Như vậy ngoại trừ làng gốm Bát Tràng ở Gia Lâm, còn những làng nghề đều ở nội thành. Đây là yếu tố rất thuận lợi để tổ chức các tour du lịch cho khách thăm quan.
2.3. Thực trạng khai thác các tiềm năng du lịch văn hóa ở Hà Nội.
2.3.1. Các di tích lịch sử, văn hoá.
Những năm trước do các cấp lãnh đạo quan tâm chưa đúng mức nên các di tích ít được đầu tư, tôn tạo, gìn giữ. Ta có thể thấy như ở Văn Miếu những con rùa đá đội bia tiến sĩ trải qua hàng trăm năm nay đã chịu sự huỷ hoại của thời gian, nhiều tấm bị phong hoá nứt nẻ, những dòng chữ khắc trên đá cũng bị mờ dần.
Nhìn chung di tích của Hà Nội xuống cấp nghiêm trọng. Theo thống kê của Ban quản lý di tích Hà Nội đã có tới hơn 200 hộ dân sống trong các di tích từng ngày huỷ hoại các di một cách có ý thức hay không ý thức hơn nữa còn tạo ra một quang cảnh bừa bãi, mất thẩm mỹ.
Những di tích dường như ngày bị co lại trong sự tấn công dồn dập nhiều phía của thị trường. Việc quản lý các di tích trong thời gian qua rất lỏng lẻo. Trong khi nghành khai thác cứ khai thác, nghành quản lý bảo tồn một mình đứng ra bảo vệ tôn tạo không được hưởng phần kinh phí do du lịch đưa lại, nay cả tiếng nói ủng hộ. Điều này dẫn đến có những di tích bị đem vào khai thác quá công suất nhưng vẫn phải chờ đợi vì không có kinh phí tu sửa, bởi vậy các di lại ngày càng xuống cấp.
Cùng với các nguyên nhân chủ quan trên còn có các nguyên nhân khách quan làm cho di tích xuống cấp như: Các di tích ở Việt Nam hay ở Hà Nội đều được xây dựng bằng những vật liệu không bền vững trong môi trường khí hậu khắc nghiệt nóng ẩm , mối mọt… Thêm váo đó các di tích có niên đại từ vài chục năm đến vài trăm năm đủ để cho các vật liệu bị lão hoá, hao mòn. Nhu cầu cần thiết để ngăn chặn tình trạng xuống cấp của di tích thì lại vượt quá khả năng tài trợ của ngân sách nhà nước.
Một biểu hiện đáng ngại nữa là tìng trạng các di tích, nhất là các cổ vật bị đánh cắp của bọn buôn bán đồ cổ. Trong những năm qua có hàng chục di tích bị đánh cắp cổ vật, các cổ vật này bao gồm những đồ bằng sứ, đồng, gỗ… những địa phương khi di tích được công nhận, cử ra ban quản lý di tích. Khi các di tích do thủ từ và sư chủ trì song không ít đền, miếu, chùa chưa được trông nom bảo vệ.
Trong thời gian qua các bảo tàng đã thu nhập, bảo vệ trong các kho một khối lượng hiện vật đồ sộ. Tuy nhiên việc các bảo tàng làm trong thời gian qua chưa đủ để bảo vệ những di tích cổ vật quý hiếm.
2.3.2. Cảnh quan thiên nhiên .
Thành phố đã đầu tư hàng chục tỷ đồng và sức lực trí tuệ để trả lại cảnh quan tự nhiên cho Hà Nội đặc biệt trong thời gian gần đây thành phố đang tích cực làm công tác sửa chữa xây dựng cảnh quan thiên nhiên để kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội.
Hà Nội là thành phố ngã ba sông nếu ta lấy hai con sông Nhị Hà và Tô Lịch làm hệ quy chiếu. Hai con sông này đã cùng tồn tại với Hà Nội hàng thế kỷ nay. Lượng nước trong sông không lưu thông được do quá nhiều bùn, rác rưởi… lắng đọng hàng chục năm nay cho dù mấy năm gần đây có tiến hành nạo vết lòng sông. Diện tích hồ ao ở Hà Nội rộng lớn như thế nhưng giờ đang đứng trong tình trạng bị đóng cọc, khoanh đất làm nhà. Hồ Tây mênh mông là thế nhưng với 5 nhà hàng lớn , hơn hai chục du thuyền cùng hàng trăm khách sạn lớn nhỏ mọc quanh hồ đã gây ra tình trạng mất cảnh quan tự nhiên quang hồ.
Cây xanh lá phổi của sự sống, nhân chứng lịch sử của di tích văn hoá bị chặt phá bừa bãi.
Cảnh quan tự nhiên môi trường của các di tích lịch sử văn hoá dân tộc đang bị xâm phạm một cách nghiêm trọng. Tỷ lệ cảnh quan di và vùng bao quanh không được coi trọng một cách đúng mức dẫn đến sự phá vỡ cảnh quan. Kiến trúc Hà Nội cổ đang bị phá vỡ với hàng loạt khách sạn, nhà hàng mọc lên như nấm. Kiến trúc không đảm bảo, sự pha tạp giữa Âu và á, mỗi chỗ mỗi kiểu, không theo qui hoặch, bất kể đến sự bất hợp lý, tính thẩm mỹ của kiến trúc, phá vỡ cảnh quan chung của thành phố, làm giảm vẻ đẹp của Thủ đô.
Những biển quảng cáo dựng lên một cách bưà bãi, tràn lan không có tính thẩm mỹ cũng làm giảm vẻ đẹp của tự nhiên Hà Nội… có lẽ các cơ quan có trách nhiệm còn quan tâm chưa đúng mức tới hiện tượng này.
Nhìn chung, môi trường cảnh quan tự nhiên ở Hà Nội những năm gần đây đã có sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, chính quyền thành phố, tuy vậy để Hà Nội xứng đáng là thủ đô, vơi truyền thống 1000năm của mình thì cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa, sát sao hơn nữa để Hà Nội ngày càng đẹp hơn, xanh và sạch hơn.
2.3.3 Về hoạt động văn hoá, văn nghệ .
- Lễ hội.
Tâm lý, nhu cầu mở lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương bị dồn nén từ mấy chục năm nay có thời cơ khôi phục, lại gặp điều kiện thuận lợi của đường lối đổi mới Cho đến nay, ước tính toàn thành phố hàng năm có trên 200 lễ hội to, nhỏ các loại chủ yếu được diễn ra trên vùng nông thôn ngoại thành. Thực tế đáng mừng là hầu hết các lễ hội cổ truyền của Hà Nội nay từ đầu khôi phục đã được quan tâm của các cấp chính quyền, của những người làm công tác quản lý văn hoá ở địa phương. Do đó đa số lễ hội đều được tổ chức tốt, đảm bảo được an toàn, lành mạnh, tạo ra không khí vui tươi, phấn khởi trong cuộc sống của nhân dân có lễ hội.
Lễ hội truyền thống trong những năm qua diễn ra khá trọng thể, có sự chuẩn bị trong thời gian dài, quần chúng quan tâm và thực sự đóng góp tích cực cho lễ hội, đặc biệt là các cụ phụ lão. Nhiều lễ hội truyền thống được thông báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng để mời bà con trong cả nước và khách nươcs ngoài đến dự. Nhìn chung sau khi ban hành qui chế về tổ chức lễ hội (30/1/1991) lễ hội ở Hà Nội đã có những chuyển biến tích cực, vẫn giữ được truyền thống văn hoá tốt đẹp xưa nhưng phần nào đã có phù hợp thực tiễn hiện tại.
Sự phục hồi nhanh chóng các lễ hội dân gian như vậy, thì việc xuật hiện phát sinh ra những lệch lạc, phức tạp âu cũng là điều khó tránh.
Chúng ta đều biết lễ hội dân gian gắn liền với những yếu tố tín ngưỡng tôn giáo. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người. Nhưng trên thực tế, chúng ta cần phân biệt rạch ròi giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan trong các lễ hội. Đây là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm, một hiện tượng xã hội cần được nghiên cứu thêm để phát huy những gì là bản sắc dân tộc có tính tích cực và gạt đi những yếu tố dị đoan, trục lợi trong tín ngưỡng này.
Có một số địa phương do sức ép tâm lý hoặc mong muốn cho địa phương mình cũng nhanh chóng mở laị lễ hội truyền thống nên mặc dù điều kiện cần thiết mọi mặt (Thời gian, tinh thần, cơ sở vật chất…) chưa hội tụ đã vội vàng mở lại lễ hội, nên về mặt hình thức còn sơ sài, mất đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35554.doc